Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

1 VẤN đề CÁN BỘ TRONG TÁC PHẨM SỬA đổi LỐI LÀM VIỆC VÀ VIỆC VẬN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.24 KB, 25 trang )

VẤN ĐỀ CÁN BỘ TRONG TÁC PHẨM
SỬA ĐỔI LỐI LÀM VIỆC VÀ VIỆC VẬN DỤNG
MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Trong cuộc đời hoạt động cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo nhiều văn kiện quan trọng, chứa đựng
những ý tưởng lớn lao, thể hiện được trí tuệ của một thiên tài chiến lược. Tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc” là một trong những văn kiện tiêu biểu của Người.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào lúc
cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược đang ở giai đoạn
gay go, quyết liệt, địch đang mở cuộc tấn công quy mô lên căn cứ địa Việt Bắc
hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và lực lượng chủ lực của ta. Người viết
tác phẩm này nhằm vạch ra những sai lầm, khuyết điểm, lệch lạc và chấn chỉnh lại
tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực cơng tác
của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng.

NỘI DUNG
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết xong
vào tháng 10-1947, ký tên với bút danh là X.Y.Z và Nhà xuất bản Sự thật xuất
bản lần đầu tiên vào năm 1948. Nội dung được kết cấu thành 6 mục: I. Phê bình
và sửa chữa; II. Mấy điều kinh nghiệm; III. Tư cách và đạo đức cách mạng; IV.
Vấn đề cán bộ; V. Cách lãnh đạo; VI. Chống thói ba hoa.

1


Tác phẩm đề cập đến nhiều mặt của công tác xây dựng Đảng, nhất là xây
dựng lối làm việc hay phương thức làm việc của Đảng. Về lý luận, tác phẩm là
sự phát triển và vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
xây dựng chính Đảng kiểu mới của giai cấp cơng nhân ở một nước vốn là thuộc
địa, nửa phong kiến giành độc lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Về thực tiễn,


tác phẩm là sự chỉ dẫn cho hành động của Đảng ta trong quá trình kháng chiến
và kiến quốc đến thành công. Từ khi ra đời cho đến nay, tác phẩm đã trở nên
quan trọng và cần thiết đối với việc xây dựng Đảng ta thành một Đảng chân
chính cách mạng. Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm
này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng và cấn thiết đối với quá trình xây
dựng, chỉnh đốn Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của
mọi thời kỳ cách mạng. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung làm rõ nội dung cơ
bản về vấn đề cán bộ được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích trong mục IV của tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.
1. Tư tưởng và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán
bộ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”:
1.1. Về huấn luyện cán bộ: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ
và thi hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng.
Vấn đề cán bộ là một trong những nội dung quan trọng được Chủ tịch Hồ
Chí Minh trình bày cụ thể, cặn kẽ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Người
chỉ rõ: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, thế nhưng trong huấn luyện cịn
những khuyết điểm. Thí dụ: “huấn luyện cho cán bộ trong các cơ quan hành
chính mà khơng đụng đến cơng việc hành chính. Cịn dạy chính trị thì mênh
2


mông mà không thiết thực, học rồi không dùng được. Phần đông cán bộ là công
nhân và nông dân, văn hố rất kém. Đảng chưa tìm đủ cách để nâng cao trình độ
văn hố của họ. Huấn luyện lý luận cho những cán bộ cao cấp, đến nay hoặc
chưa làm, hoặc làm không đúng, lý luận và thực tế không ăn khớp với nhau, dạy
theo cách học thuộc lịng. Đó là những điều Đảng nên sửa chữa ngay”. Phải thực
hành khẩu hiệu: “làm việc gì học việc ấy”, học chính trị, học văn hoá, học lý
luận. Người nhấn mạnh: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun

trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một
người có ích cho cơng việc chung của chúng ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
“huấn luyện cán bộ là cơng việc gốc của Đảng”. Hồ Chí Minh cho rằng: trong
bất cứ thời kỳ nào của cách mạng, cán bộ và công tác cán bộ cũng là vấn đề
trọng yếu. Cơng tác cán bộ khơng những có ý nghĩa to lớn đối với công tác xây
dựng Đảng mà cịn góp phần quyết định đến việc thành bại trong quá trình tổ
chức, lãnh đạo cách mạng của Đảng và cơng tác cán bộ giữ vai trị đặc biệt quan
trọng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ rất sâu và rộng, Người đề cập
nhiều đến tiêu chuẩn cán bộ. Theo Hồ Chí Minh, phải từ tiêu chuẩn cán bộ để đặt
ra mục tiêu, phương hướng, nội dung, phương pháp công tác cán bộ cho phù
hợp. Về tiêu chuẩn cán bộ: trước hết người cán bộ phải có phẩm chất chính trị,
đạo đức cách mạng tốt. Người cho rằng, người cán bộ có đạo đức cách mạng là
người ln biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết. Đặc
biệt phải “chí cơng, vơ tư”. Cán bộ phải là người có năng lực tương xứng với
nhiệm vụ được giao, phải có khả năng hồn thành nhiệm vụ của Đảng, Chính
phủ và nhân dân giao phó. Người kiên quyết chống bệnh chủ quan, tác phong
quan liêu, thói chuộng hình thức và “chỉ tay năm ngón”. Người u cầu cán bộ

3


phải thường xuyên thực tế, sâu sát cơ sở để lắng nghe, tiếp thu ý kiến, nguyện
vọng của quần chúng để giải quyết kịp thời và có hiệu quả thiết thực. Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhấn mạnh về đạo đức là gốc của người cách mạng nhưng không
coi nhẹ tài năng. Người nói: người có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng
khó, nhưng người có tài mà khơng có đức thì là người vơ dụng. Với mọi cán bộ,
đảng viên, Người yêu cầu: vững về chính trị, giỏi về chuyên môn; nghề nào cũng
phải học, phải thông thạo. Ngoài phẩm chất, năng lực, người cán bộ cách mạng

phải có phong cách cơng tác khoa học, khơng khoe khoang, kiêu ngạo; chống lối
làm việc gặp đâu hay đấy, thiếu kế hoạch, thiếu kiểm tra.
1.2. Về sử dụng cán bộ: Quan điểm của Hồ Chí Minh về việc lựa chọn và
sử dụng cán bộ, trước hết là: “phải biết rõ cán bộ” để cất nhắc cán bộ cho đúng,
"khi cất nhắc cán bộ cần phải xét rõ người đó có gần gũi quần chúng, có được
quần chúng tin cậy mến phục khơng”?, nghĩa là phải xem xét uy tín của cán bộ
trước quần chúng. Ngoài ra, cần "phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người
có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc", "nếu cất nhắc
không cẩn thận, không khỏi đem người chỉ nói mà khơng biết làm vào những địa
vị lãnh đạo, như thế rất có hại". Người cịn chỉ rõ: “trong Đảng ta, có những nơi
thường dùng những người văn hay nói khéo, nhưng khơng làm được việc, khơng
ra tranh đấu. Mà những đồng chí viết khơng hay nói khơng thạo nhưng rất trung
thành hăng hái, rất gần gũi quần chúng, thì bị dìm xuống. Chúng ta phải sửa
chữa ngay những điểm đó”. Người cũng phê phán: "thường chúng ta khơng biết
tùy tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn
dao, thành thử hai người đều lúng túng". Người chỉ ra tác dụng to lớn của việc
bố trí sử dụng đúng người, đúng việc "nếu biết tuỳ tài mà dùng người sẽ thành
cơng". Trong cơng tác cán bộ, Người cịn lưu ý giải quyết quan hệ giữa cán bộ
trẻ và cán bộ già, cán bộ cũ và cán bộ mới, phải biết "tôn trọng nhau, giúp đỡ

4


nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau". Phải bố trí sao để cán bộ trẻ và
cán bộ già, cán bộ mới và cán bộ cũ có thể đoàn kết, bổ sung, giúp nhau cùng
hoàn thành nhiệm vụ.
Song song với việc chỉ ra tầm quan trọng của việc "sử dụng đúng người
đúng việc", Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra trách nhiệm của cấp lãnh đạo trong
việc bố trí, sử dụng cán bộ. Người viết: "có nhiều việc hay dở, một phần do cán
bộ đủ năng lực hay khơng", "lãnh đạo khéo thì tài nhỏ có thể hố thành tài to.

Lãnh đạo khơng khéo thì tài to cũng hoá ra tài nhỏ", "cất nhắc cán bộ, phải vì
cơng tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế công
việc nhất định chạy", "nếu vì lịng u ghét, vì thân thích, vì nể nang nhất định
không ai phục mà gây nên mối lôi thơi trong Đảng. Như thế có tội với Đảng, có
tội với đồng bào".
1.3. Về lựa chọn cán bộ: Để cất nhắc cán bộ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh,
trước hết phải có quan điểm (thái độ) và phương pháp đánh giá đúng về cán bộ:
“không nên làm như giã gạo. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi
cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá,
lại cất nhắc lên. Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời.
Đối với cán bộ, chẳng những phải xem xét rõ ràng trước khi cất nhắc mà sau khi
đã cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của
họ”. Trước khi cất nhắc cán bộ phải nhận xét, đánh giá rõ ràng: "chẳng những
xem xét công tác của họ mà còn phải xem xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng
những xem xét cách viết, cách nói của họ mà cịn phải xem xét việc làm của họ
có đúng với lời nói bài viết của họ hay khơng? Chẳng những xem xét họ đối với
ta như thế nào mà còn phải xem xét họ đối với người khác như thế nào. Ta nhận
họ tốt, còn phải xem xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay khơng? Phải biết
ưu điểm của họ mà cũng phải biết khuyết điểm của họ".
5


Ngồi ra, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, xem xét cán bộ phải có sự độ lượng
thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí cơng vơ tư, khơng có thành kiến,
khiến cho cán bộ khơng bị bỏ rơi. Có như vậy mới tránh được những thiếu sót,
sai lầm, mới phát huy được mặt mạnh, hạn chế được mặt yếu trong từng con
người cán bộ. Thái độ công tâm, cơng bằng, khách quan của Hồ Chí Minh trong
cách xem xét cán bộ là: không nên chấp nhất, không nên "đem một cái khuôn
khổ nhất định mà lắp vào tất cả mọi người", "quá khứ, hiện tại và tương lai của
mọi người khơng phải ln giống nhau". Do đó, "nhận xét cán bộ khơng nên chỉ

xét ngồi mặt, chỉ xét một lúc, một việc mà phải xét kỹ cả tồn bộ cơng việc của
cán bộ". Có thể nói, cách nhìn nhận, đánh giá cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất tổng hợp, lịch sử và biện chứng, xem xét cán bộ phải đặt trong điều kiện và
hoàn cảnh cụ thể. Chỉ có những quan điểm và phương pháp đánh giá ấy mới
khắc phục được căn bệnh chủ quan thường mắc trong công tác cán bộ như: "ham
dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người
ngoài; ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính
trực; ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính
tình khơng hợp với mình". Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở Đảng
phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và thường xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh
ích kỷ, địa phương, kéo bè, chia rẽ phái này phái kia ''phải kết thành một khối
không phân biệt, khơng kèn cựa và giúp đỡ nhau thì cơng việc mới chạy”.
1.4. Về chính sách cán bộ: Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng
tác cán bộ cịn mang đậm tính nhân văn sâu sắc, điều đó được biểu hiện ở niềm
tin, tình yêu thương và thái độ vừa nghiêm khắc vừa độ lượng đối với cán bộ.
Theo Người, muốn cho cán bộ làm được việc, cần phải tạo ra mơi trường
"khiến cho cán bộ cả gan nói, cả gan đề ra ý kiến", "khiến cho cán bộ có gan
phụ trách, có gan làm việc"; người lãnh đạo cần phải tơn trọng “lịng tự tin, tự

6


trọng” của các đồng chí mình. Khi giao việc cho cán bộ phải để cho cán bộ có
quyền “tuỳ cơ ứng biến” mới có thể phát huy được tài năng của họ, mới phát
huy được sáng kiến của họ, phải hồn tồn tin họ khơng nên “sớm ra lệnh này,
trưa đổi lệnh khác, nếu không tin cán bộ, sợ họ làm khơng được, rồi việc gì
mình cũng nhúng vào, kết quả thành chứng bao biện, công việc vẫn không
xong”. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Đảng phải “yêu thương cán bộ, nhưng yêu
thương không phải là vỗ về, nuông chiều, thả mặc, yêu thương là giúp họ học
tập thêm, tiến bộ thêm”, “thấy khuyết điểm thì giúp họ sửa chữa ngay để vun

trồng cái thói có gan phụ trách, có gan làm việc của họ". Người nhấn mạnh:
"người đời ai cũng có khuyết điểm, có làm việc thì có sai lầm, chỉ sợ không
chịu cố gắng sửa chữa sai lầm khuyết điểm và càng sợ những người lãnh đạo
không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa sai lầm và khuyết điểm",
“cần phải phân tách rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay
nhẹ, phải dùng xử phạt cho đúng”. Theo Hồ Chí Minh, những khuyết điểm, sai
lầm của cán bộ cần phải xem xét xử phạt một cách nghiêm minh nhưng cũng
phải độ lượng, khoan dung, chỉ cho họ thấy sai lầm, khuyết điểm và tạo điều
kiện cho họ khắc phục sai lầm, khuyết điểm để tiến bộ.
Từ nguyên tắc "cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc", Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có những quan điểm và tư tưởng về cơng tác cán bộ hết sức nhân văn và
khoa học, phương pháp dùng người của Bác là cả một nghệ thuật “dụng nhân
như dụng mộc”, nghệ thuật của Bác chính là ở chỗ khéo dùng cán bộ, khéo lãnh
đạo, đặc biệt là tài thuyết phục, cảm hoá những người lầm lỗi, có khuyết điểm,
lơi kéo họ về với mình để giúp họ tiến bộ; biết sử dụng những người trái chính
kiến với mình để "thêm bạn bớt thù".

7


2. Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nước ta trong giai đoạn hiện nay:
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây
dựng Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công đào tạo, huấn luyện,
xây dựng được một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta
đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhiệm vụ chính
trị mới rất nặng nề, khó khăn và phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải xây dựng được
một đội ngũ cán bộ ngang tầm, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ:
2.1. Về đội ngũ cán bộ: Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí minh và quan
điểm, đường lối của Đảng về công tác cán bộ, thời gian qua, chúng ta đã triển
khai tương đối đồng bộ các khâu như: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, vì vậy sau hơn 20
năm đổi mới, công tác cán bộ của nước ta đã đạt được những thành tích nhất
định. Đội ngũ cán bộ có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt: trình độ,
kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội ngày càng được nâng cao;
cán bộ Đảng, Nhà nước và đồn thể có bản lĩnh, kinh nghiệm đã lãnh đạo, vận
động nhân dân tích cực tiến hành đổi mới; cán bộ khoa học có tâm huyết, có
năng lực sáng tạo, tiếp thu nhanh khoa học công nghệ mới; cán bộ quản lý kinh
doanh năng động, thích ứng nhanh với nền kinh tế thị trường; cán bộ chiến sỹ
trong lực lượng vũ trang có ý thức cảnh giác cao, chịu đựng gian khổ, vượt qua
khó khăn giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội…
8


Bên cạnh những ưu điểm trên, do ảnh hưởng bởi mặt trái của kinh tế thị
trường dẫn đến tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội,
chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách
nhiệm, thiếu tự giác rèn luyện, phấn đấu, thiếu tinh thần đồng chí trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm trọng và ngày càng có xu hướng gia tăng
rất đáng lo ngại nhưng chúng ta chậm có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn và kịp
thời xử lý, điều đó đã làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ.
Ngồi ra, chất lượng đội ngũ cán bộ cịn nhiều mặt yếu kém; cơ cấu đội ngũ cán
bộ mất cân đối, thiếu đồng bộ, chưa hợp lý; thiếu cán bộ lãnh đạo quản lý giỏi,
cán bộ đầu ngành, cán bộ có trình độ cao, có khả năng dự báo, xử lý tốt những
vấn đề phức tạp nảy sinh; việc thực hiện chiến lược cán bộ mới chỉ tập trung
nhiều vào đối tượng cán bộ lãnh đạo quản lý, chưa chú ý đúng mức, toàn diện

đến các đối tượng cán bộ khác…
2.2. Về công tác cán bộ: Qua tổng kết công tác cán bộ của các địa
phương, ban, ngành và trong cả nước cho thấy, cơng tác này đã có nhiều chuyển
biến tích cực: cơng tác cán bộ bám sát nhiệm vụ chính trị, thể chế hóa, cụ thể
hóa được nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn đề ra trong chiến lược cán
bộ; nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán
bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị về
cơng tác cán bộ được giữ vững; Dân chủ, công khai trong cách đánh giá cán bộ,
đánh giá cán bộ không đơn thuần chỉ căn cứ vào q trình cơng tác, trình độ học
vấn, thành phần lý lịch, mà đã chú trọng hơn về tiêu chuẩn cán bộ, nhất là về
phẩm chất chính trị, đạo đức, kiến thức, năng lực, lấy hiệu quả thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao trong điều kiện công tác cụ thể làm thước đo chủ yếu.
Mặc dù công tác cán bộ của Đảng ta trong những năm qua đạt được một
số thành tựu đáng khích lệ nhưng nó vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, yếu
9


kém. Đại hội Đảng toàn quốc lần X cũng nêu rõ: "Nhiều khuyết điểm, yếu kém
trong công tác cán bộ chậm được khắc phục...chậm đổi mới cơ chế, phương pháp
và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ". Công tác
đào tạo bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu và nhiệm vụ công tác; nội dung chương
trình và phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa gắn với tổng kết thực tiễn của
công cuộc đổi mới; việc chiêu sinh, thi tuyển ở một số nơi cịn hình thức và chưa
đúng với khả năng của cán bộ; công tác quản lý văn bằng, chứng chỉ, học hàm,
học vị cịn lỏng lẻo. Bên cạnh đó, những chính sách đối với cán bộ, nhất là chính
sách về tiền lương, nhà ở, phương tiện, điều kiện làm việc...còn nhiều bất cập,
chưa được quan tâm đúng mức, thiếu công bằng, thực hiện không thống nhất và
đồng bộ. Do vậy, chưa tạo được động lực làm việc và phát huy khả năng công
tác của đội ngũ cán bộ, nhất là những cán bộ có tài.
Nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo chưa được cụ thể hóa; hệ thống tổ

chức làm cơng tác cán bộ còn phân tán, chồng chéo, chức năng và trách nhiệm
chưa rõ ràng; công tác quy hoạch cán bộ có nơi chưa dám nhìn thẳng và né tránh
thực trạng. Trong nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý theo nhiệm kỳ
hằng năm và cuối nhiệm kỳ, hay trước khi bổ nhiệm chưa căn cứ vào nhiệm vụ
chính trị, năng lực thực tế, hiệu quả hồn thành nhiệm vụ, phẩm chất đạo đức mà
dựa vào ý chí chủ quan, tình cảm, nể nang. Có những nơi cấp ủy, tổ chức đảng
nơi cán bộ sinh hoạt và cơ quan quản lý cấp trên chưa sâu sát, chưa nắm chắc,
thiếu thông tin nhưng đã tiến hành bổ nhiệm, cất nhắc cán bộ; có những nơi hằng
năm đều tiến hành nhận xét, đánh giá cán bộ nhưng qua loa, chiếu lệ, không thực
hiện dân chủ, công khai trong thảo luận, bàn bạc, nhận xét cán bộ hoặc có tình
trạng lợi dụng phê bình để hạ bệ, bơi nhọ, cơng kích nhau, nhiều thơng tin thiếu
chuẩn xác, thậm chí đơm đặt nhưng không được kịp thời điều tra xác minh đã
làm lỡ nhịp hay cơ hội để đề bạt sử dụng…Từ chỗ đánh giá, nhận xét cán bộ

10


chưa chính xác, nên một số cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm nhưng phát huy tác
dụng không cao; cán bộ bất tài, kém đức, cơ hội, trục lợi cá nhân chậm bị thay
đổi, hoặc lại được điều chuyển đến vị trí tốt hơn, thậm chí được nhanh chóng
"thăng quan tiến chức", cịn những người thực đức, thực tài thì bị bỏ sót, khơng
được trọng dụng, thậm chí cịn bị vùi dập…
Công tác luân chuyển cán bộ tuy đạt được một số kết quả nhất định
nhưng việc luân chuyển giữa các ngành còn vướng mắc. Một số trường hợp cán
bộ ln chuyển, điều động mang tính giải quyết tình thế gây phản ứng trong nội
bộ địa phương nơi nhận cán bộ ln chuyển. Chính sách cán bộ cịn nhiều điểm
chưa hợp lý nhưng chậm được khắc phục. Công tác tham mưu, đề xuất của cơ
quan tham mưu làm công tác cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ
trong tình hình mới; thiếu phương pháp hiệu quả để phát hiện, bồi dưỡng, tạo
nguồn cán bộ lâu dài.

3. Một số giải pháp chủ yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ nước ta
trong giai đoạn hiện nay
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Xây dựng đội ngũ cán
bộ, trước hết và cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực
hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Có cơ chế và chính sách phát hiện,
tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trọng dụng những người có đức, có
tài”. Tại hội nghị trung ương 9 khóa X đã ban hành kết luận số 37-KL/TW về
“Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020”. Để góp
phần thực hiện hiệu quả kết luận này, đồng thời tiếp tục quán triệt và làm theo
tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công
tác cán bộ, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
11


3.1. Chú trọng bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ: Tăng cường giáo dục, bồi dưỡng giúp cho đội ngũ cán bộ có nhận thức
đúng về đạo đức cách mạng. Việc giáo dục đạo đức cách mạng muốn có hiệu
quả tốt phải tiếp tục đổi mới tồn diện, đồng bộ, có hệ thống, cả nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục, ở tất cả các khâu, các bước trong quy trình giáo
dục. Nhanh chóng cụ thể hóa những chuẩn mực đạo đức cách mạng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng phù hợp với yêu cầu của giai đoạn
cách mạng mới để cán bộ lấy đó mà phấn đấu, tu dưỡng. Biến những quan điểm,
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cách mạng thành lập trường chính trị, niềm tin
sâu sắc của cá nhân, tự giác, phấn đấu rèn luyện và tuân theo những yêu cầu của
đạo đức mới. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giáo dục nâng cao đạo đức cách mạng
cho cán bộ phải tiến hành bằng nhiều giải pháp, trước hết cần chú trọng giáo dục
chủ nghĩa Mác - Lênin, mục tiêu cách mạng, đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng. Đây là điều kiện, là nền tảng để hình thành, phát triển và củng cố đạo
đức cách mạng. Bên cạnh đó, cần đặc biệt coi trọng giáo dục, rèn luyện, nâng

cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên thông qua hoạt động thực tiễn,
thông qua đấu tranh tự phê bình và phê bình. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, giáo
dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ phải kết hợp chặt chẽ
biện pháp tư tưởng và tổ chức, lý luận và thực tiễn.
Trong giai đoạn hiện nay, những chuẩn mực đạo đức cách mạng của
người cán bộ được thể hiện: người cán bộ phải là người kiên định với con
đường XHCN, có sự nhạy bén chính trị, tỉnh táo trước mọi âm mưu, thủ đoạn
của kẻ thù; không mơ hồ và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện mơ hồ,
mất cảnh giác, những quan điểm, tư tưởng sai trái. Bất kỳ ở cương vị nào, hoàn
cảnh nào người cán bộ, đảng viên cũng phải là ngọn cờ dẫn đường, định hướng
chính trị, là chỗ dựa tin cậy của quần chúng nhân dân. Thường xuyên thực hiện

12


đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và tích cực vận
động nhân dân thực hiện có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước. Bản lĩnh, lập trường, quan điểm chính trị và lòng trung thành
của người cán bộ, đảng viên phải được biểu hiện ở quan điểm, thái độ đối với
cơng cuộc đổi mới, là người có tư duy đổi mới nhưng là một sự đổi mới cách
mạng, có nguyên tắc, dựa trên những giá trị chuẩn mực xã hội chủ nghĩa, chân
lý và quy luật của thời đại. Mọi sự đổi mới phải hướng tới lợi ích của quốc gia,
dân tộc, kiên quyết bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa và những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội
nhập kinh tế quốc tế, bản lính chính trị, lịng trung thành của người cán bộ cịn
được thể hiện ở ý chí phấn đấu để bảo vệ độc lập dân tộc, có lịng tự trọng và tự
tơn dân tộc, có thái độ cầu thị, tích cực học hỏi tri thức mới, kinh nghiệm hay
của thế giới, của bạn bè để làm giàu cho đất nước, cho nhân dân, “việc gì có lợi
cho dân thì làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh” và người cán bộ phải
thực sự là người “đầy tớ” trung thành của nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên bao

giờ cũng gắn với một tổ chức, một cơ quan, đoàn thể nhất định. Và như vậy,
trước hết họ phải có tinh thần gương mẫu trong lối sống, sinh hoạt, đồng thời
phải làm trịn trách nhiệm, nghĩa vụ của một cơng dân, một cán bộ, cơng chức
của tổ chức cơ quan đó...
Trong mối quan hệ với tiền nong, của cải, người cán bộ, đảng viên phải
ln thực hành cần, kiệm, liêm chính, chí cơng, vơ tư. Đây là tư tưởng xun
suốt của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Trong
điều kiện hiện nay, yêu cầu đối với người đảng viên là phải kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực, không tham ô, hối lộ, sống trong sạch. Trong cơ chế
thị trường, họ phải ra sức làm giàu chính đáng. Một trong những yêu cầu quan
trọng đối với họ phải là biết tiết kiệm: tiết kiệm tiền bạc, thời gian, công sức lao

13


động. Trong lúc nhân dân đang cịn nghèo đói thì sự lãng phí, xa sỉ, phơ trương,
hình thức…là những việc làm có tội với dân, với Đảng.
3.2. Xây dựng quy hoạch cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo
hướng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ: Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra một hệ thống các quan điểm và phương pháp về
công tác cán bộ, Người nhấn mạnh: “công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém. Vì vậy, Đảng phải ni dạy cán bộ như người làm vườn vun
trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người
có ích cho công việc chung của chúng ta”. Thấm nhuần tư tưởng của Người,
trong những năm qua, Đảng ta luôn coi công tác quy hoạch cán bộ là một nội
dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nề nếp,
chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Quy hoạch
cán bộ phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ tổ chức; căn cứ thực trạng
của đội ngũ cán bộ hiện có; dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ
cán bộ để chủ động có phương hướng đào tạo, bồi dưỡng phù hợp. Mỗi cấp, mỗi

ngành phải có kế hoạch tạo nguồn cán bộ, chú trọng các đối tượng: cán bộ lãnh
đạo, cán bộ quản lý, cơng chức có thành tích xuất sắc trong công cuộc đổi mới;
những công nhân, nông dân, trí thức, cán bộ và chiến sĩ ưu tú trong các lực lượng
vũ trang, cán bộ dân tộc thiếu số, cán bộ nữ, con em các gia đình có cơng với
cách mạng có thành tích, sáng kiến trong lao động, cơng tác.
Quy trình thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức nên tuân theo các bước:
dân chủ trước, tập trung sau; trước khi cấp uỷ bàn bạc và quyết định tập trung,
cần mở rộng dân chủ để phát hiện, giới thiệu nguồn cho quy hoạch. Mặt khác,
trước khi mọi người đề cử thêm, người đứng đầu cần nhận xét, đánh giá các ứng
cử viên do mình đề cử một cách công khai trong cuộc họp cơ quan, đơn vị. Theo
chúng tôi, trong công tác quy hoạch cán bộ, công chức cần bổ sung các hình thức
14


tự ứng cử và tiến cử, trong đó, việc tiến cử phải được bảo đảm bằng trách nhiệm,
danh dự cá nhân của cán bộ trong tập thể lãnh đạo. Ngoài ra, chúng ta nên thực
hiện đúng phương châm “động”, “mở” và “mềm” trong quy hoạch cán bộ. Một
chức danh cần quy hoạch nhiều người (tốt nhất là từ 3 đến 5 người); một người
có thể được dự trù vào 2, 3 chức danh. Hằng năm, cấp ủy cần rà soát, bổ sung
quy hoạch. Trong đó, bảo đảm sự liên thơng quy hoạch của khóa trước với khóa
sau; khơng bó gọn nguồn quy hoạch trong một địa phương, một ngành, một cơ
quan, đơn vị...Cần có nhiều loại quy hoạch cán bộ, khơng nên chỉ có một loại
quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý. Một số cán bộ có tài năng nhưng khơng
muốn hoặc khơng có sở trường làm lãnh đạo, quản lý thì cần quy hoạch, bồi
dưỡng họ trở thành các chuyên gia giỏi. Cần khắc phục quan điểm máy móc,
giản đơn và chủ nghĩa cơ cấu trong dự trù, bố trí sử dụng cán bộ, chẳng hạn như
quan điểm cho rằng, đã vào cấp uỷ thì làm lãnh đạo ngành nghề gì cũng được.
Trong quá trình quy hoạch, cần quan tâm đến chính sách tiến cử, bảo cử, thăng
chức vượt cấp của ông cha ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm trọng dụng
người tài. Chính sách này đã được thực tiễn lịch sử chứng minh là đúng đắn và

có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần phải bảo đảm sự dân chủ, công bằng, công khai
trong quy hoạch cán bộ. Nguyên tắc công khai trong quy hoạch cán bộ lãnh đạo,
quản lý là một nội dung mới trong Nghị quyết số 42 của Bộ Chính trị. Thực tế
cho thấy, việc cơng khai quy hoạch là đúng đắn, có nhiều ưu điểm hơn so với
việc không công khai, bởi nó động viên tinh thần và tạo cơ sở có tính pháp lý để
cán bộ, cơng chức cố gắng phấn đấu, trưởng thành.
Song song với công tác quy hoạch, chúng ta cần mở rộng diện đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị, tổ chức xã hội và các thành phần
kinh tế. Đặc biệt chú trọng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, tạo nguồn
cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp từ trung ương đến cơ sở, cán bộ khoa học

15


đầu ngành, cán bộ quản lý kinh doanh các doanh nghiệp lớn. Chương trình đào
tạo, bồi dưỡng phải lấy tiêu chuẩn cán bộ làm căn cứ; nội dung đào tạo phải
thiết thực, phù hợp với yêu cầu đối với từng loại cán bộ, cần chú trọng bồi
dưỡng cả phẩm chất đạo đức và kiến thức, lý luận và thực tiễn; bồi dưỡng kiến
thức cơ bản và hướng dẫn kỹ năng thực hành; bồi dưỡng kiến thức về quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế, khoa học, công nghệ, chuyên môn
nghiệp vụ và phong cách lãnh đạo...
Phương thức đào tạo, bồi dưỡng phải đa dạng: kết hợp đào tạo chính quy
với các hình thức khác, kết hợp việc đào tạo tại các trường với việc rèn luyện
qua thực tiễn công tác, rèn luyện trong lao động sản xuất và trong phong trào
quần chúng. Tăng cường mở rộng đào tạo trong nước, chú trọng đào tạo ở nước
ngoài. Khuyến khích và tạo thuận lợi cho các tổ chức, tập thể, cá nhân trong và
ngoài nước tài trợ, đưa người đi học ở nước ngoài. Nhà nước dành ngân sách
thích đáng để cử cán bộ giỏi đi nghiên cứu và học tập ở các nước phát triển.
Bên cạnh đó, có chế độ khuyến khích và bắt buộc đối với cán bộ trong việc tự
học, tự nghiên cứu; định kỳ kiểm tra kiến thức và trình độ nghiệp vụ đối với

từng loại cán bộ; có quy chế kiểm sốt việc sử dụng cán bộ sau đào tạo, bảo
đảm làn đúng ngành nghề và chấp hành sự phân cơng. Kiện tồn hệ thống đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ: nghiên cứu sắp xếp hợp lý hơn hệ thống tổ chức đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ của các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể từ trung ương đến
địa phương theo hướng tập trung, thống nhất, có chỉ đạo chặt chẽ, có sự phân
công hợp lý để không chồng chéo, trùng lắp. Các trường đào tạo, bồi dưỡng ở
địa phương cần được củng cố, tăng cường để đảm nhiệm tốt việc đào tạo, bồi
dưỡng các loại cán bộ theo phân cấp; tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ
thuật, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, cải tiến việc biên soạn giáo trình, nâng cao
chất lượng đội ngũ giảng viên.

16


3.3. Thực hiện tốt công tác đánh giá, tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán
bộ: Để làm tốt việc đánh giá cán bộ, trước hết từng cấp, từng ngành, từng địa
phương, đơn vị phải trên cơ sở tiêu chuẩn chung để xác định tiêu chuẩn cho từng
chức danh cán bộ, cán bộ căn cứ vào đó tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu. Công tác
đánh giá cán bộ nhất thiết phải thực hiện nghiêm túc theo yêu cầu của Đại hội X
của Đảng là "lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất
và năng lực cán bộ. Đánh giá cán bộ lãnh đạo phải căn cứ vào hiệu quả cơng tác,
khả năng đồn kết, quy tụ, phát huy sức mạnh của tập thể, tạo ra sự tiến bộ và
kết quả cụ thể trong ngành, lĩnh vực, địa phương, đơn vị mình phụ trách; khơng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu". Đánh giá cán bộ cần tránh những định kiến chủ quan. Điều này Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: "phê bình việc" chứ khơng phải "phê bình
người", tức là nhận xét, đánh giá cơng việc cán bộ làm, chứ khơng phải kẻ vạch,
cơng kích vào tính cách riêng của bản thân người cán bộ. Khi đánh giá về đạo
đức phải xem xét ở các khía cạnh về lối sống, sinh hoạt, đối nhân xử thế và ý
thức tổ chức kỷ luật...Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chẳng những xem xét cơng

tác của họ, mà cịn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách
viết, cách nói của họ, mà cịn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói,
bài viết của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn
phải xem xét họ đối với người khác thế nào... Phải biết ưu điểm của họ, mà cũng
phải biết khuyết điểm của họ".
Đánh giá cán bộ không thể chỉ xét một lúc, một thời điểm, mà cần có một
q trình. Bởi vì, mọi việc đều có sự biến chuyển, con người cũng có sự thay đổi
về nhiều mặt, cho nên nhận xét về một con người không thể cố định bất biến mà
phải trong q trình vận động, biến đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy

17


cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa....
Một người cán bộ khi trước có sai lầm, khơng phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng
có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này khơng phạm sai lầm?
Q khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau".
Muốn đánh giá cán bộ đúng đắn, chính xác, người có trách nhiệm phải kiên nhẫn
tìm hiểu, theo dõi cán bộ trong một thời gian dài.
Mỗi một con người có nhiều mối quan hệ khác nhau, cán bộ là một thành
viên của một tập thể, một cộng đồng, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với nhau,
nên cũng có rất nhiều mối liên hệ. Cơng việc mà cán bộ phụ trách thường liên
quan đến nhiều việc, nhiều người. Do vậy, khi đánh giá cán bộ, bên cạnh ý kiến
nhận xét của cán bộ lãnh đạo quản lý, của cơ quan tham mưu, còn phải coi trọng
ý kiến của tập thể cán bộ và ý kiến của đông đảo quần chúng. Nếu chỉ riêng ý
kiến nhận xét, đánh giá của cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ phụ trách cơng tác tổ
chức cán bộ thì sẽ khơng thể thấy hết mọi mặt của người cán bộ, mọi vấn đề có
liên quan đến cán bộ. Những đồng nghiệp cùng làm việc với cán bộ từng thường
xuyên cộng tác, gánh vác, chia sẻ trách nhiệm với nhau, gần gũi, trao đổi với

nhau nhiều việc, nhiều vấn đề, cho nên họ hiểu nhau hơn là giữa cán bộ lãnh đạo
với cấp dưới. Mỗi cán bộ cũng có nhiều mối quan hệ với quần chúng qua công
tác, qua sinh hoạt và nhiều hoạt động khác. Quần chúng là đối tượng mà cán bộ
hướng tới phục vụ. Vì vậy, ý kiến nhận xét của đơng đảo quần chúng thường rất
xác đáng. Ngồi việc mình nhận xét họ tốt hay xấu, cịn phải xét số nhiều người
khác đánh giá về họ như thế nào? Đối với cán bộ trong các ngành có đối tượng
phục vụ đông đảo rất cần quan tâm đến ý kiến của đối tượng ấy.
Để công tác đánh giá cán bộ được khách quan, các nơi cần thực hiện tốt
hơn công khai hóa việc đánh giá cán bộ cho tập thể cơ quan, đơn vị đều biết. Cá
nhân cán bộ được đánh giá nhất thiết phải được biết ý kiến đánh giá của tập thể,
18


của những người có thẩm quyền, của lãnh đạo cấp trên về mình. Đồng thời cán
bộ phải được có ý kiến phản hồi về những nhận xét chưa chính xác, chưa đúng
đắn và có quyền địi hỏi phải được điều chỉnh, sửa đổi, nhận xét lại về mình. Mở
rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai và minh bạch trong đánh giá cán
bộ sẽ huy động được tối đa trí tuệ của tập thể một cách thực chất, khắc phục
những ảnh hưởng của ý chí, chủ quan của cá nhân, đồng thời góp phần đắc lực
vào việc phát huy hiệu quả yếu tố cán bộ.
Việc lựa chọn, bố trí, sử dụng cán bộ phải căn cứ yêu cầu nhiệm vụ, công
tác đặt ra; phải xây dựng và thực hiện các quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm một
cách chặt chẽ. Các tổ chức cơ quan có nhu cầu tuyển chọn cán bộ, công bố công
khai nhu cầu, đối tượng, tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển. Kết quả sát hạch, thi tuyển
là một căn cứ chủ yếu đề ra quyết định tuyển dụng cán bộ. Lập hội đồng thi
tuyển, bảo đảm việc thi tuyển tiến hành một cách chặt chẽ, khách quan và cơng
bằng. Ngồi việc tuyển chọn qua hình thức thi cử, hình thức tuyển chọn cán bộ
qua bầu cử cũng cần phải quan tâm. Việc bầu cử phải thực hiện đúng pháp luật
của Nhà nước và Điều lệ của Đảng, đoàn thể. Các cán bộ được giới thiệu tham
gia vào các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phải

được tập thể cấp uỷ thảo luận và nhất trí giới thiệu theo đúng thể lệ, quy chế, quy
trình bầu cử. Người được bầu vào các chức vụ cấp trưởng phải đề xuất được đề
án, chương trình cơng tác trong nhiệm kỳ, cam kết hồn thành nhiệm vụ, giữ gìn
phẩm chất đạo đức cách mạng.
Việc thực hiện chế độ bổ nhiệm cán bộ phải có thời hạn, hết thời hạn giữ
chức vụ, cấp có thẩm quyền căn cứ vào mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ
và các yêu cầu công tác để xem xét quyết định có tiếp tục bổ nhiệm cán bộ giữ
chức vụ đó nữa hay khơng. Trong thời hạn đảm nhiệm chức vụ, người nào vì
việc cơng, lý do sức khoẻ, hoàn cảnh cá nhân được từ chức, miễn chức; người
19


khơng hồn thành nhiệm vụ, có sai phạm, uy tín giảm sút thì tuỳ theo mức độ mà
bị miễn chức, hoặc cách chức kịp thời. Cán bộ đứng đầu cơ quan, đơn vị có trách
nhiệm cùng với tập thể lãnh đạo đào tạo, bồi dưỡng người kế nhiệm. Để công tác
bố trí, sử dụng cán bộ có hiệu quả, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Khơng nên làm
như giã gạo. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi
không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc
lên. Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Đối với cán
bộ, chẳng những phải xem xét rõ ràng trước khi cất nhắc mà sau khi đã cất nhắc
phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của họ”. Trong
bố trí sắp xếp cán bộ, lưu ý giải quyết quan hệ giữa cán bộ trẻ và cán bộ già, cán
bộ cũ và cán bộ mới. Phải bố trí sao để cán bộ trẻ và cán bộ già, cán bộ mới và
cán bộ cũ có thể đồn kết, bổ sung, giúp nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ.
Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý giữa các vùng, các ngành,
các cấp nhằm sử dụng có hiệu quả và tạo nên sự đồng đều trong đội ngũ cán bộ;
bồi dưỡng toàn diện cán bộ, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có triển vọng, cán bộ
trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn. Căn cứ vào đặc điểm từng vùng,
từng ngành, từng cấp, nhu cầu công tác và năng lực, sở trường cán bộ, cấp uỷ
đảng lập quy hoạch, kế hoạch luân chuyển cán bộ theo một quy trình chặt chẽ và

có chế độ, chính sách thích hợp. Đảng phải mạnh dạn cất nhắc cán bộ và thường
xuyên luân chuyển cán bộ, chống bệnh ích kỷ, địa phương, kéo bè, chia rẽ phái
này phái kia ''phải kết thành một khối không phân biệt, không kèn cựa và giúp đỡ
nhau thì cơng việc mới chạy”.
3.4. Quan tâm đổi mới chính sách cán bộ: Chính sách cán bộ trong
giai đoạn hiện nay, theo tôi cần tập trung chủ yếu vào một số nội dung: cần tạo
môi trường làm việc thuận lợi để kích thích cán bộ hăng say, sáng tạo trên tinh
thần cạnh tranh bình đẳng. Tạo mọi điều kiện cho cán bộ phát huy tài năng, bố
20


trí đúng sở trường, đánh giá đúng năng lực, bảo đảm cho mọi cán bộ có năng
lực thực sự đều có cơ hội thăng tiến, thừa nhận và đánh giá đúng tài năng, khắc
phục chủ nghĩa thân quen, đánh giá phiến diện, cào bằng, tạo ra sinh khí làm
việc mới của các cơ quan trong hệ thống chính trị với tinh thần tận tụy, trách
nhiệm và chuyên nghiệp.
Tinh giản biên chế, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả lao động,
chống tham nhũng, lãng phí, mở rộng bảo hiểm xã hội, tăng tỉ lệ động viên thu
nhập quốc dân vào ngân sách Nhà nước, đổi mới cơ bản chính sách bảo đảm lợi
ích vật chất cho từng loại cán bộ, trước hết là chế độ tiền lương, nhà ở và
phương tiện đi lại. Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu
nhập của cán bộ, bảo đảm tái sản xuất mở rộng sức lao động. Trước mắt, trong
điều kiện khốn kinh phí như hiện nay, đề nghị các bộ, ban, ngành trung ương,
chính quyền và các cơ quan, đoàn thể địa phương cố gắng chi tiêu thật tiết kiệm
để có điều kiện nâng cao đời sống cán bộ, cơng chức thuộc quyền, đồng thời có
giải pháp hỗ trợ hợp lý về nhà ở, đất ở tạo điều kiện cho cán bộ an tâm cơng
tác, gắn bó với cơng vụ. Ngồi ra, kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập
thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong lao động sản xuất, trong phát minh
sáng chế khoa học và cơng nghệ, trong sáng tạo văn hóa nghệ thuật, trong quản
lý và công tác.

3.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ làm công tác
tổ chức cán bộ: Đây là đội ngũ có vai trị rất quan trọng trong cơng tác cán bộ,
do vậy, đội ngũ này phải thật sự là những người hội đủ cả đức lẫn tài, phải vừa
có tâm vừa có tầm; phải biết nhìn xa, trơng rộng, phải hiểu biết về con người,
thực sự quan tâm và yêu thương cán bộ, phải thật sự vơ tư trong sáng, phải có tư
chất của người làm công tác tổ chức cán bộ, phải được đào tạo, huấn luyện
nghiệp vụ về công tác này... Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ làm công tác
21


cán bộ phải tránh những chứng bệnh "tự cao, tự đại", "ưa nịnh", "do lịng u
ghét của mình mà đối với người", "đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp
mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau", nếu người cán bộ lãnh đạo mà phạm
một trong bốn bệnh đó thì cũng như mắt đã mang kính màu, khơng bao giờ thấu
rõ mặt thật của những cái mình trơng.
Lãnh đạo các ngành, các địa phương cần tiếp tục đổi mới tư duy về công
tác cán bộ, mạnh dạn phân công giao việc, tin tưởng vào năng lực của thế hệ kế
thừa, khắc phục tư tưởng bảo thủ - cấp trên cho rằng cấp dưới khơng bằng mình
nên ngại đề bạt. Phải mạnh dạn nhìn nhận và cổ vũ những nhân tố vượt trội,
đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích tinh thần vươn lên của những người yếu
kém. Lãnh đạo với cán bộ thuộc quyền phải có đầy đủ trách nhiệm với nhau,
giúp đỡ nhau trên tinh thần thương yêu đồng chí và đánh giá cán bộ phải đúng
thực chất, khơng phải nhất nhất cán bộ có khuyết điểm là không đề bạt, từng
trường hợp cần xem xét thận trọng, khách quan nhiều góc độ.
Trên cơ sở quy định của trên và thực tiễn lãnh đạo, điều hành, đề nghị các
cấp uỷ, tổ chức Đảng tiếp tục thể chế hoá trách nhiệm, quyền hạn giữa cá nhân
và tập thể lãnh đạo trong công tác cán bộ một cách rõ ràng. Đó là nền tảng quan
trọng nhất cho việc đồn kết nội bộ, nâng cao chất lượng quy hoạch cán bộ của
từng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, phải khơng ngừng nâng cao chất lượng hoạt
động của cơ quan tham mưu công tác tổ chức - cán bộ, thường xuyên đào đạo,

bồi dưỡng, tạo điều kiện cho cán bộ tham mưu tiếp cận thực tiễn, sát cơ sở. Rõ
ràng để nâng cao chất lượng xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ thì trước hết cơ
quan - cán bộ phải sát thực tiễn để nâng tầm tư duy hiểu biết cán bộ.

22


KẾT LUẬN
Mặc dù ra đời đã trên 60 năm, nhưng tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là một trong những văn kiện quan trọng, là cẩm nang
về xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong mọi giai đoạn lịch sử cách
mạng. Có thể nói, tư tưởng và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ,
về đánh giá, sử dụng cán bộ là kết tinh truyền thống của cha ông ta trong lịch sử,
là đỉnh cao của "nghệ thuật" hay "phương sách" dùng người. Những tư tưởng đó
đã trở thành những bài học, những nguyên tắc trong trong công tác cán bộ của
Đảng. Nhờ đó mà Đảng và Bác Hồ đã tập hợp được nhiều "hiền tài", thu hút
được nhiều nhân sĩ yêu nước, lôi kéo được tất cả các lực lượng đồn kết xung
quanh mình làm nên kỳ tích Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, chiến thắng Điện
Biên vang dội năm châu, chấn động địa cầu, làm nên đại thắng mùa xuân 1975
lịch sử và những thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước. Những tư tưởng cơ
bản và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, đã trở thành nhiệm
vụ quan trọng, then chốt, thường xuyên của Đảng ta trước đây, cũng như ngày
nay. Trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, càng địi hỏi phải có một đội
ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng; trình độ lý luận, chun
mơn nghiệp vụ vững vàng, có năng lực tổ chức thực tiễn, ngang tầm với yêu cầu
của thời kỳ mới.
Học tập, làm theo tư tưởng và quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
cán bộ và sử dụng cán bộ trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" không chỉ để ôn
lại, nhắc lại những tư tưởng vĩ đại của Người mà còn để nghiêm túc kiểm điểm
những gì chúng ta đã làm được và chưa làm được. Điều quan trọng là hãy cùng

nhau suy ngẫm tìm ra câu trả lời tại sao những tư tưởng, những quan điểm và
nguyên tắc của Bác về cán bộ và cơng tác cán bộ có từ lâu mà mãi tới nay chúng
ta chưa thực hiện được, hoặc thực hiện chưa đầy đủ? Nguyên nhân tại đâu? Lý
23


do tại sao? Tìm được những câu trả lời cho các câu hỏi đó cũng chính là tìm ra
được các giải pháp hữu hiệu để xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước có
đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng u cầu thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hoá
đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta khẳng định rằng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ
và sử dụng cán bộ là những tư tưởng tiến bộ đầy tính khoa học và nhân văn, mãi
mãi là chìa khố, là kim chỉ nam cho chúng ta học tập, kế thừa và phát huy trong
sự nghiệp đổi mới, phần đấu vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh./.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Tập 2, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.
2. Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Di sản Hồ Chí Minh
trong thời đại ngày nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120 năm
ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2010), Nhà xuất bản Chính
trị - Hành chính, Hà Nội, 2010.
4. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam (Hệ cử nhân chính trị), Nhà xuất bản Lý luận chính
trị, Hà Nội, 2004.
5. GS Song Thành: Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nhà xuất bản Lý luận

chính trị, Hà Nội, 2009.
6. TS Bùi Thị Thu Hà (Chủ biên): 80 năm Đảng Cộng Sản Việt Nam - Những
chặng đường thắng lợi, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa.
7. TS Đinh Xuân Lý: Quá trình vận động thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007.

25


×