Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 54 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Giáo dục - ĐHQGHN
và triển khai đề tài “Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ

NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp
ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ” tác giả luôn được sự quan tâm
giúp đỡ nhiệt tình và đầy trách nhiệm của của các thầy cô trong trường Đại
học Giáo dục - ĐHQGHN, các thầy cô trường Đại học Ngoại ngữ -

QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN KHOA NGÔN NGỮ VÀ VĂN HOÁ NGA
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ

ĐHQGHN, những người đã hết sức nhiệt tình giúp đỡ tác giả hoàn thành
nhiệm vụ.
Tác giả xin được dành những dòng chữ đầu tiên của luận văn này để
bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã quan tâm,
giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt là PGS.TS
Đặng Quốc Bảo, người thầy đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình

Chuyên ngành:
Mã số:

Quản lý giáo dục
601405



làm đề tài nghiên cứu này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song do khả năng nghiên cứu của tác giả
có hạn, kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học còn ít do đó luận

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

văn không tránh khỏi thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp chỉ
bảo tận tình của các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp để luận văn ngày càng
hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐẶNG QUỐC BẢO

Hà Nội, tháng 12 năm 2009
Tác giả luận văn

HÀ NỘI - 2009

Nguyễn Thị Lan Hương

1

Hµ Néi - 2009

2


DANH MỤC VIẾT TẮT


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

1. Lý do chọn đề tài

1

Cố vấn học tập

CVHT

2. Mục đích nghiên cứu

2

Đại học Quốc gia Hà Nội

ĐHQGHN

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

2

Học sinh sinh viên


HSSV

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

2

Học sinh

HS

5. Giả thuyết khoa học

3

Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga

Khoa NN&VH Nga

6. Phạm vi đề tài nghiên cứu

3

Ký túc xá

KTX

7. Phương pháp nghiên cứu

3


Sinh viên

SV

8. Cấu trúc luận văn

3

Trung học phổ thông

THPT

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

5

Trường Đại học Ngoại ngữ

Trường ĐHNN

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

5

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

1.1.1. Những quan điểm về tự học


5

1.1.2. Những quan điểm về việc dạy và học theo tín chỉ

7

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

9

1.2.1. Sinh viên

9

3

1.2.2. Quản lý, các chức năng quản lý

10

1.2.3. Dạy - Học

14

1.2.4. Tự học

16

1.3. Dạy học theo tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự học


17

1.3.1. Học chế tín chỉ

17

1.3.2. Dạy - học theo học chế tín chỉ

20

1.3.3. Dạy học theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự học

23

1.4. Quản lý tự học theo học chế tín chỉ

28

4


1.4.1. Vị trí, vai trò của công tác quản lý sinh viên trong các trường đại học

28

2.4.1. Những điểm mạnh

63

1.4.2. Quản lý tự học – Các nội dung quản lý tự học


28

2.4.2. Những điểm yếu

63

1.4.3. Các biện pháp quản lý tự học

32

Tiểu kết chương 2

65

Tiểu kết chương 1

33

Chương 3. NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC

66

34

CỦA SINH VIÊN KHOA NN&VH NGA TRƯỜNG ĐHNN-ĐHQGHN

Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC
CỦA SINH VIÊN KHOA NN&VH NGA TRƯỜNG ĐHNN -


ĐÁP ỨNG YẾU CẦU ĐÀO TẠO THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ

ĐHQGHN

3.1. Nguyên tắc xác định các biện pháp

66

2.1. Khái quát về trường ĐHNN-ĐHQGHN

34

3.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính kế thừa

66

2.1.1.Quá trình thành lập trường ĐHNN-ĐHQGHN

34

3.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính hệ thống

66

2.1.2. Mục tiêu chiến lược phát triển của Trường

34

3.1.3. Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn


67

2.1.3. Quy mô và chất lượng đào tạo của trường

36

3.1.4. Nguyên tắc đảm bảo tính chất lượng

67

2.1.4. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ

38

3.2. Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa

67

2.1.5. Đặc điểm của sinh viên

40

NN&VH Nga trường ĐHNN-ĐHQGHN…

2.2. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa NN&VH

43

3.2.1. Biện pháp 1. Thay đổi nhận thức của giảng viên và sinh viên


Nga trường ĐHNN-ĐHQGHN trước yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ
2.2.1. Đặc điểm của sinh viên và đặc điểm đào tạo của khoa NN&VH Nga

43

cường trao đổi, thảo luận và có chỉ đạo chặt chẽ

2.2.2. Đội ngũ cán bộ và giảng viên khoa NN&VH Nga

46

3.2.2. Biện pháp 2. Xây dựng hệ thống cố vấn học tập có chất lượng

2.2.3. Cơ sở vật chất của khoa NN&VH Nga

48

2.2.4. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa NN&VH Nga

49

2.3. Thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên

54

khoa NN&VH Nga
2.3.1. Thực trạng về công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận

54


thức về vai trò tự học
2.3.2. Thực trạng về hoạt động giảng dạy của giảng viên trong Khoa

56

2.3.3. Thực trạng hoạt động của đội ngũ cố vấn học tập

61

2.4. Đánh giá chung về thực trạng …

63

5

67

trước yêu cầu dạy và học theo học chế tín chỉ lấy tự học làm cốt, tăng

71

hướng dẫn sinh viên tự học có hiệu quả
3.2.3. Biện pháp 3. Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên thúc

75

đẩy giảng viên cải tiến phương pháp giảng dạy giúp sinh viên tự học tốt
3.2.4. Biện pháp 4. Hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp

79


với yêu cầu đào tạo theo tín chỉ tạo điều kiện cho sinh viên tự học
3.2.5. Biện pháp 5. Phối kết hợp đồng bộ giữa các đơn vị chức năng

81

hướng tới hoạt động tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ
3.3. Mối liên quan của các biện pháp

84

3.4. Khảo sát tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp

86

6


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

90

1. Kết luận

90

2. Khuyến nghị

91


TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Nhân loại đang bước vào thế kỷ 21 với sự phát triển nhanh chóng của
khoa học và công nghệ. Kinh tế tri thức đang ngày càng mở rộng, với quá
trình toàn cầu hoá có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc, từng cộng đồng, từng gia đình và cá nhân.
Việt Nam chúng ta cũng đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp,
văn minh hiện đại và hội nhập quốc tế. Điều đó đặt ra nhiệm vụ cho ngành
giáo dục- đào tạo là phải “…đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,
có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự
học, khả năng thực hành, lòng say mê và ý chí vươn lên”.
Tự học là một yêu cầu không thể thiếu đối với mỗi công dân nói chung,
thế hệ trẻ, sinh viên nói riêng. Tự học đã trở thành vấn đề cấp thiết đối với
giáo dục và đào tạo nước ta. Hoạt động tự học có ý nghĩa quyết định biến quá
trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo. Để hoạt động tự học của sinh viên đạt
được những thành quả như mong đợi thì đổi mới công tác quản lý giáo dục
được xem như giải pháp quan trọng.
Chuyển đổi phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ tạo sự thay đổi
lớn về phong cách, thói quen dạy - học của cả thầy và trò. Đối với hình thức
đào tạo này thì khối lượng giờ dạy trên lớp sẽ giảm đi, mà giờ tự học, tự
nghiên cứu của sinh viên sẽ tăng lên. Vì vậy việc tự học, tự nghiên cứu của

sinh viên có vai trò hết sức quan trọng, mang tính quyết định hiệu quả chất
lượng đào tạo.
Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga nói riêng và trường Đại học Ngoại
ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội nói chung, trong các hội thảo về nâng cao

7

8


chất lượng học tập của sinh viên, hội nghị nghiên cứu khoa học cũng đã nhiều

- Đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa

năm đề cập đến vấn đề tự học của sinh viên … và làm thế nào để kích thích

Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội.

sinh viên ngoại ngữ tích cực hơn nhằm nâng cao kết quả học tập. Đồng thời

- Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và

cũng đã có một số giải pháp như: đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng

Văn hoá Nga đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.

phát huy tính tích cực, tính sáng tạo, đặc biệt là công tác quản lý, tổ chức của

5. Giả thuyết khoa học


trường đối với hoạt động tự học song các biện pháp đó chưa được chú ý và

Nếu tìm được biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa

quan tâm đúng mức nên kết quả vẫn chưa được như mong muốn. Do vậy,

Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà

ngoài việc đổi mới phương pháp dạy học thì việc cải tiến một số biện pháp

Nội phù hợp, đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ thì chất lượng hoạt

trong công tác quản lý để nâng cao hoạt động tự học cho sinh viên của trường

động học tập của sinh viên sẽ được nâng cao, đáp ứng mục tiêu đào tạo của

là một vấn đề cấp thiết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, trường Đại học

nhà trường trong giai đoạn hiện nay.

Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đang chuyển đổi sang đào tạo theo học

6. Phạm vi đề tài nghiên cứu

chế tín chỉ thì vấn đề tự học càng trở nên là vấn đề đặc biệt quan tâm.
Chính vì vậy tôi đã chọn hướng nghiên cứu với tên đề tài: “Quản lý

Nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa
Ngôn ngữ và Văn hoá Nga Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà


hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại

Nội từ năm học 2006-2007 đến nay.

học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp ứng yêu cầu đào tạo theo

7. Phương pháp nghiên cứu

học chế tín chỉ” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.

7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:

2. Mục đích nghiên cứu

- Thu thập, nghiên cứu, phân tích xử lý tài liệu.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất biện pháp quản lý

7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

hoạt động tự học của sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở khoa

- Phương pháp quan sát

Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN đáp ứng

- Phương pháp điều tra bảng hỏi

yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.


- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

- Phương pháp chuyên gia.

3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động tự học của sinh viên các trường đại học
3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa
Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN

7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ:
- Sử dụng công cụ thống kê để xử lý số liệu.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động tự học của sinh viên.

dung luận văn trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.

9

10


Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI


và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội theo

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

học chế tín chỉ.

1.1.1. Những quan điểm về tự học:

Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ

Trong lịch sử phát triển giáo dục, tự học là vấn đề được quan tâm

và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội đáp

nghiên cứu từ lâu cả về lý luận và thực tiễn, nhằm phát huy vai trò của người

ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.

học và nâng cao chất lượng của hoạt động tự học. Song từng giai đoạn lịch sử
nhất định, ở mỗi quốc gia tự học được nghiên cứu đề cập dưới nhiều khía
cạnh khác nhau.
Khổng Tử (551-479 trước công nguyên), nhà tư tưởng nổi tiếng và nhà
sư phạm vĩ đại của Trung Quốc, về phương pháp giáo dục ông đã đề cao việc
tự học, tự luyện, tu nhân, trú trọng phát huy mặt tích cực, sáng tạo, năng lực
nội sinh. Đề cập đến việc học tập, Khổng Tử xác định “Học nhi thời tập chí”,
việc học tập theo ông phải gắn liền với thực hành để thông suốt những điều đã
học. Ông đề cập và nhấn mạnh mối quan hệ tác động giữa việc học tập và tư
duy trong học tập, ông cho đó là hai yếu tố ràng buộc không thể thiếu của một
vấn đề: “Học nhi bất tư vong, tư nhi bất học tất đãi”. Ông cho rằng học mà
không nghĩ thì mờ tối, nghĩ mà không học thì khó nhọc, mất công. Do vậy,

với ông việc học tập và tự học là cần thiết và gắn bó mật thiết với nhau.
Socrat (469-309 trước công nguyên) đã từng nêu khẩu hiệu “Anh hãy
tự biết lấy anh” qua đó, mong muốn học trò phát hiện ra “chân lý” bằng cách
đặt câu hỏi để dần dần tìm ra kết luận.
Raja Roy Singh, nhà giáo dục Ấn Độ trong tác phẩm “Giáo dục cho thế
kỷ XXI, những triển vọng của Châu Á Thái Bình Dương” đã đưa ra quan
điểm về quá trình “Nhận biết dạy- học”, và ông chủ trương rằng người học
phải là người tham gia tích cực vào quá trình “Nhận biết dạy - học”. Theo ông
“Sự học tập do người học chủ đạo”
Một trong những đặc trưng cơ bản, quan trọng nhất trong xã hội học tập
là tư tưởng tự học tập suốt đời. Vì “việc học không bao giờ là muộn” (Ngạn

11

12


ngữ), hay “Bác học không có nghĩa là ngừng học” (Đác-uyn). Quan niệm tự

Toàn, “Tự học - chìa khoá vàng của giáo dục” của giáo sư Phan Trọng Luận,

học và học tập suốt đời nổi lên trong thời đại ngày nay như một chìa khoá mở

và nhiều công trình nghiên cứu về tự học của các giáo sư, tiến sĩ, các nhà

cửa đi vào thế kỉ 21 - thế giới của nền kinh tế tri thức.

nghiên cứu giáo dục như: Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Hà

Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương sáng ngời về ý chí quyết tâm


Thị Đức…với mục đích nâng cao hiệu quả tự học của sinh viên, góp phần

trong tự học, tự rèn luyện. Người luôn cho rằng học tập giúp con người tiến

nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.

bộ, nâng cao phẩm chất, mở rộng hiểu biết, làm thay đổi hiệu quả lao động.

1.1.2. Những quan điểm dạy và học theo tín chỉ:

Người đã động viên toàn dân: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập

Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ chức sao cho mỗi sinh

là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành cho được do đó

viên có thể tìm được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng thời trường đại

mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập”

học phải nhanh chóng thích nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực

Khi bàn về vấn đề tự học, giáo sư Tạ Quang Bửu cũng đã viết “Tự học

tiễn cuộc sống, vào năm 1982 Viện Đại học Harvard đã quyết định thay thế hệ

là khởi nguồn của phong cách tự đào tạo đồng thời là cái nôi nuôi dưỡng sự

thống chương trình đào tạo niên chế cứng nhắc bằng hệ thống chương trình


sáng tạo. Ai giỏi tự học ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, người đó sẽ tiến

mềm dẻo cấu thành bởi các môđun mà mỗi sinh viên có thể lựa chọn một

xa hơn”.

cách rộng rãi. Có thể xem đó là điểm mốc khai sinh học chế tín chỉ.

Tự học - tự đào tạo là một vấn đề được nghị quyết Đại hội Đảng toàn

Đến đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ được áp dụng rộng rãi hầu như trong

quốc lần thức VIII và Trung ương II (khoá VIII) đề cập đến rất đậm nét: “Tập

mọi trường đại học Hoa Kỳ. Tiếp sau đó, nhiều nước lần lượt áp dụng hệ

trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, sáng tạo của

thống tín chỉ trong toàn bộ hoặc một bộ phận của trường đại học của mình:

học sinh” (NQĐH VIII), “bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên

các nước Bắc Mỹ, Nhật Bản, Philippin, Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan,

cứu cho học sinh, phát triển mạnh phong trào tự học - tự đào tạo thường

Malaisia, Indonesia, Ấn Độ… Tại Trung Quốc từ cuối thập kỷ 80 đến nay hệ

xuyên và rộng khắp trong toàn dân…”


thống tín chỉ cũng lần lượt được áp dụng ở nhiều trường đại học. Vào năm

Trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc

1999, 29 Bộ trưởng đặc trách giáo dục đại học ở các nước trong Liên minh

tế hiện nay, nhất là khi nước ta chính thức là thành viên của tổ chức thương

Châu Âu đã ký Tuyên ngônBoglona nhằm hình thành Không gian Giáo dục

mại thế giới (WTO), đã đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục và đào tạo.

đại học Châu Âu thống nhất vào năm 2010, một trong các nội dung quan

Đòi hỏi GD-ĐT phải tự đổi mới. Một trong những nội dung đổi mới giáo dục

trọng của Tuyên ngôn đó là triển khai áp dụng học chế tín chỉ trong toàn hệ

được đề cập nhiều hơn cả là đổi mới phương pháp dạy - học, nhất là phương

thống giáo dục đại học để tạo thuận lợi cho việc cơ động hoá, liên thông hoạt

pháp học tập - tự học .

động học tập của sinh viên trong khu vực Châu Âu và trên thế giới.

Trong khoa học, đã có nhiều công trình nghiên cứu công phu về vấn đề

Trước năm 1975, một số trường đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại


tự học như: “Quá trình dạy - tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, giáo sư

Miền Nam Việt Nam đã áp dụng tín chỉ: Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học

Vũ Văn Tảo; “Luận bàn về kinh nghiệm tự học” của giáo sư Nguyễn Cảnh

Thủ Đức…

13

14


Trong quá trình “Đổi mới” ở nước ta từ cuối 1986 chuyển nền kinh tế

say mê mà chủ yếu là giải pháp tình thế dẫn đến kết quả học tập của các em

kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ

không được cao. Chính vì vậy, là một cán bộ quản lý sinh viên của khoa, tác

nghĩa, GDĐH ở nước ta cũng có nhiều thay đổi. Hội nghị Hiệu trưởng đại học

giả đi sâu vào việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp quản lý hoạt động tự học

tại Nha Trang hè 1987 đã đưa ra nhiều chủ trương đổi mới GDĐH, trong đó

của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học Ngoại ngữ -


có chủ trương triển khai trong các trường đại học quy trình đào tạo 2 giai

ĐHQGHN góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của sinh viên khoa

đoạn và môđun hoá kiến thức. Theo chủ trương đó, học chế “học phần” đã ra

NN&VH Nga nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục của Nhà trường

đời và triển khai trong toàn bộ hệ thống các trường đại học và cao đẳng nước

trong xu hướng đào tạo theo học chế tín chỉ.

ta từ năm 1988 đến nay. Học chế học phần được xây dựng trên tinh thần tích

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

luỹ dần kiến thức theo các môđun (môn học) trong quá trình học tập, tức là

1.2.1. Sinh viên:

theo ý tưởng học chế tín chỉ xuất phát từ Mỹ. Tuy nhiên, về một số phương

Thuật ngữ “sinh viên” có nguồn gốc từ tiếng La tinh “student” có nghĩa

diện, học chế học phần chưa thật sự mềm dẻo như học chế tín chỉ của Mỹ, do

là người làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó

đó nó được gọi là “sự kết hợp niên chế với tín chỉ”, tuy nhiên những khó khăn


được dùng tương đương với từ “student” trong tiếng Anh, “Etudiant” trong

về đời sống xã hội nói chung và trong các trường đại học nói riêng lúc đó

tiếng Pháp và “Cmgenm” trong tiếng Nga để chỉ những người đang theo học

chưa cho phép đặt vấn đề thực hiện học chế môđun hoá triệt để.

ở bậc đại học, được phân biệt với học sinh đang học ở phổ thông.

Vào năm 1993, khi những khó khăn chung của đất nước và của các

Theo X.L.Rubinsen quan niệm: “sinh viên” là đại biểu của một nhóm

trường đại học có phần dịu bớt, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương tiến thêm

xã hội đặc biệt được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng để chuẩn bị

một bước, thực hiện học chế học phần triệt để hơn, theo mô hình học chế tín

cho hoạt động lao động và sản xuất vật chất cho xã hội. Nhóm sinh viên rất cơ

chỉ của Mỹ. Trường Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh là nơi đầu

động được tổ chức theo một mục đích xã hội nhất định nhằm chuẩn bị thực

tiên áp dụng học chế tín chỉ từ năm 1993, rồi các trường Đại học Đà Lạt, Đại

hiện vai trò xã hội với trình độ nghề nghiệp cao trong lĩnh vực xã hội, sinh


học Cần Thơ, Đại học Thuỷ Sản Nha Trang… và một số trường đại học khác

viên là nguồn lực bổ sung cho đội ngũ tri thức được đào tạo thành người lao

áp dụng từ năm 1994 và các năm sau đó.

động có tay nghề cao tham gia hoạt động tích cực.

Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN bắt đầu chuyển đổi sang đào
tạo theo học chế tín chỉ từ năm học 2006-2007. Mặc dù trong các hội thảo về

Quy chế công tác HSSV trong các trường đạo tạo của Bộ Giáo dục và
đào tạo thì “sinh viên” là người đang học hệ Đại học và Cao đẳng.

nâng cao chất lượng học tập của sinh viên, hội nghị nghiên cứu khoa học cũng

Như thế, nếu không xét về hình thức gọi tên thì sự ra đời của thuật ngữ

đã đề cập nhiều đến vấn đề tự học của sinh viên nhưng nghiên cứu về hoạt

“sinh viên” đã gắn liền với lịch sử ra đời của trường đại học (hơn 700 năm đối

động tự học theo học chế tín chỉ thì vẫn còn mới lạ, nhất là đối với sinh viên

với SV thế giới và gần 300 năm đối với sinh viên Việt nam).

khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga, nhiều sinh viên ngay từ khi đăng ký dự thi
vào khoa đó không phải vì học giỏi ngôn ngữ đó, cũng không phải vì niềm

15


16


Theo cách phổ biến hiện nay trong xã hội thì khái niệm “sinh viên”

Thuật ngữ “quản lý” (từ Hán Việt) gồm hai quá trình tích nhau. Quá

được Nhà nước thể chế hoá, pháp lý hoá thuật ngữ này bằng luật định. Trong

trình “quản” gồm coi sóc, giữ gìn, duy trì ở trạng thái “ổn định”. Quá trình

Luật giáo dục đã thống nhất cách gọi đối với sinh viên như sau:

“lý” gồm sửa sang, sắp xếp, đổi mới đưa hệ thống (tổ chức) vào thế “phát

Sinh viên là người đang học tại các trường cao đẳng, trường đại học

triển”. Nếu chỉ “quản” thì tổ chức dễ trì trệ, nếu chỉ “lý” thì tổ chức phát triển
không bền vững. Do đó trong “quản” phải có “lý” và ngược lại để làm cho hệ

[3,tr.73].
Như vậy, tất cả những người đang học ở bậc cao đẳng và đại học đều
được gọi là sinh viên.

thống ở trạng thái cân bằng động, vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả
trong môi trường tương tác giữa các nhân tố bên trong và các nhân tố bên

Ngày nay, “học, học nữa, học mãi” (Lênin) là khẩu hiệu của toàn xã hội


ngoài tổ chức [9, tr.1].

và học tập là công việc suốt đời. Các trường cao đẳng và đại học mở rộng cửa

Quản lý là sự điều khiển một hệ thống hoạt động xã hội ở tầm vĩ mô

cho tất cả những ai có nguyện vọng và điều kiện không phân biệt lứa tuổi,

cũng như vi mô vì vậy có nhiều cách tiếp cận khác nhau, ở mỗi cách tiếp cận

giới tính, giàu nghèo… đều có thể học bằng nhiều con đường, hình thức khác

có những định nghĩa khác nhau.

nhau: chuyên tu, tại chức, văn bằng 2… Do đó, với khái niệm SV như trên thì

K.Marx đã từng nói đến sự cần thiết của quản lý: “Bất kỳ một lao động
xã hội nào được tiến hành trên một quy mô tương đối lớn cũng đều cần có sự

ngoại diên của nó rất rộng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài này chỉ nghiên cứu với đối tượng
là sinh viên hệ chính quy thì có thể thu hẹp nội hàm của khái niệm này như sau:

quản lý, nó xác lập mối quan hệ hài hoà giữa các công việc riêng rẽ và thực
tiễn những chức năng chung nhất xuất phát từ sự vận động của toàn cơ cấu

- Đó là những người đã tốt nghiệp trung học phổ thông

sản xuất khác với vận động của từng bộ phận độc lập trong nền sản xuất ấy.


- Họ đã vượt qua kỳ thi tuyển sinh đại học và đỗ vào trường

Một nghệ sĩ vĩ cầm tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng”

- Họ thuộc nhóm thanh niên nam, nữ từ 17 đến 25 tuổi

[4, tr.480].

- Họ chưa có nghề nghiệp, việc làm xác định do đó còn lệ thuộc gia

Còn theo H.Koontz “ Quản lý là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo
sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân nhằm đạt được mục đích của tổ chức.

đình về kinh tế
- Họ là nhóm xã hội đặc biệt gồm những thanh niên xuất thân từ các

Mục đích của mọi nhà quản lý là hình thành môi trường mà trong đó con

tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá trình học tập, chuẩn bị

người có thể đạt được các mục đích của mình với thời gian, tiền bạc, vật chất

nghề nghiệp chuyên môn để bước vào một nhóm xã hội mới là tầng

và sự bất mãn cá nhân ít nhất” [12, tr.33].
F.W.Taylor (1856-1915), người được coi là cha đẻ của thuyết quản lý

lớp tri thức trẻ.
1.2.2. Quản lý, các chức năng quản lý


khoa học đã nêu lên tư tưởng cốt lõi trong quản lý là: “Mọi loại công việc dù

1.2.2.1. Quản lý:

nhỏ nhất đều phải chuyên môn hoá và phải quản lý chặt chẽ”. Theo ông:
“Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và cái đó làm thế
nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”.

17

18


Các tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng: “Hoạt
động quản lý là tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý
(người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức
nhằm cho tổ chức vận hành và đạt mục đích của tổ chức” [19, tr.1].
Tác giả Nguyễn Minh Đạo cho rằng: “Quản lý là sự tác động có tổ

+ Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về
các nguồn lực của tổ chức để đạt được mục tiêu này.
+ Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được
các mục tiêu, xác định các hoạt động ưu tiên.
- Chức năng tổ chức:

chức, định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý về mặt chính trị,

Tổ chức thực hiện kế hoạch là quá trình sắp xếp và phân phối các

văn hoá, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các


nguồn lực để thực hiện các mục tiêu đã đề ra, là sự sắp đặt một cách khoa học

nguyên tắc, các phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và

cho con người, công việc một cách hợp lý, là sự phối hợp các tác động bộ

điều kiện cho sự phát triển của đối tượng”[20, tr.7].

phận tạo nên một tác động tích hợp mà hiệu quả của nó lớn hơn nhiều so với

Tóm lại, hoạt động quản lý luôn tồn tại hai thành tố đó là chủ thể quản

tổng số các hiệu quả của các tác động thành phần. Công tác tổ chức bao gồm:

lý và khách thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là cá nhân hay một nhóm

+ Xác định cấu trúc bộ máy

người có chức năng quản lý, điều khiển tổ chức để tổ chức vận hành và đạt

+ Tiếp nhận và phân phối các nguồn lực theo cấu trúc bộ máy.

được mục tiêu. Khách thể quản lý là những người chịu sự tác động chỉ đạo

+ Xác lập cơ chế phối hợp giữa các bộ phận, các thành viên trong

của chủ thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung.

tổ chức

- Chức năng chỉ đạo:

1.2.2.2. Chức năng quản lý:
Chức năng của quản lý là tập hợp các nhiệm vụ mà chủ thể quản lý

Chỉ đạo là quá trình điều khiển, điều hành, tác động, huy động và giúp

phải thực hiện để đạt mục đích, mục tiêu quản lý đề ra. Có nhiều cách phân

đỡ con người, tổ chức trong hệ thống thực hiện nhiệm vụ. Chỉ đạo là quá trình

chia về chức năng quản lý nhưng cơ bản thống nhất ở bốn chức năng cơ bản:

tác động, liên kết các thành viên trong tổ chức, tập hợp, động viên họ hoàn

- Chức năng lập kế hoạch:

thành những công việc nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.

Lập kế hoạch là quá trình ấn định những nhiệm vụ, những mục tiêu và
phương pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó.
Lập kế hoạch là phương pháp tiếp cận hợp lý để đạt những mục tiêu

Nội dung của chức năng chỉ đạo bao gồm:
+ Chỉ huy, ra lệnh.
+ Động viên, khen thưởng

định trước, là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý vì nó gắn

+ Theo dõi, giám sát


liền với việc lựa chọn chương trình hành động trong tương lai.

+ Uốn nắn, sửa chữa, chỉnh lý

Kế hoạch là văn bản trong đó xác định mục tiêu, mục đích của một tổ
chức và những con đường, các biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu,
mục đích đó. Chức năng kế hoạch hoá có 3 nội dung cơ bản là:
+ Xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức;

19

- Chức năng kiểm tra:
Để hoàn thành chức năng lãnh đạo, người lãnh đạo hệ thống cần thiết
và phải thực hiện chức năng kiểm tra của quản lý. Lãnh đạo mà không kiểm
tra thì coi như không lãnh đạo.

20


Kiểm tra theo lý thuyết hệ thống chính là thiết lập mối quan hệ ngược
trong quản lý. Có 3 yếu tố cơ bản của công tác kiểm tra:

Học là quá trình con người lĩnh hội những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo
và những phương thức hành vi mới, do vậy ta thấy học chính là hoạt động

+ Xây dựng chuẩn thực hiện

nhằm tạo ra sự thay đổi kinh nghiệm của người học một cách bền vững. Để


+ Đánh giá việc thực hiện trên chính sách so với chuẩn

lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội, con người có nhiều cách chiếm lĩnh

+ Nếu có sự chênh lệch thì cần điều chỉnh hoạt động.

khác nhau. Đó có thể là do được truyền thụ, do tự quan sát, đúc kết từ lao

Bốn chức năng của quản lý có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành

động, môi trường sống…v.v.

một chu trình quản lý. Chu trình quản lý bao gồm bốn giai đoạn với sự tham

Học có thể diễn ra một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống hàng ngày và

gia của hai yếu tố quan trọng thông tin và quyết định. Trong đó thông tin có

nó diễn ra mọi nơi, mọi lúc. Cách học này diễn ra khi tiến hành công việc qua

vai trò là huyết mạch của hoạt động quản lý đồng thời cũng là tiền đề của một

lao động sản xuất, hoạt động vui chơi…, cách học này không có chủ định dẫn

quá trình quản lý tiếp theo.

đến kết quả tri thức mà người học nắm được sẽ rời rạc và không có hệ thống.

Sơ đồ 1.1. Các chức năng trong một chu trình quản lý


Ở người học chỉ hình thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm mang lại.
Nhưng thực tiễn có thể tự cải tạo tự nhiên, xã hội và bản thân con

Lập
kế hoạch

người thì đòi hỏi con người phải nắm được các quy luật của tự nhiên, xã hội
và quy luật về sự hình thành, phát triển con người. Nói cách khác, ngoài việc
lĩnh hội những tri thức mang tính kinh nghiệm ra, con người cần phải nắm bắt

Kiểm tra

TT QL

Tổ chức

được những tri thức khoa học, những năng lực thực tiễn mới mà cách học
ngẫu nhiên không tạo ra được. Để có được những năng lực đó người ta tiến
hành một hoạt động hướng vào để thực hiện mục tiêu đó là hoạt động học (có

Chỉ đạo

chủ định).
Quá trình dạy học là sự phối hợp thống nhất của hoạt động chỉ đạo của
thầy với hoạt động lĩnh hội tự giác, tích cực, tự lực, sáng tạo của trò, nhằm

1.2.3. Dạy - học:
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, dạy học bao gồm hai hoạt động:
hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò.
Dạy là quá trình hoạt động của thầy, thông qua sự truyền đạt nội dung

mà chỉ đạo (tổ chức, hướng dẫn, kiểm tra) hoạt động của trò, nhằm làm cho
trò đạt tới mục đích dạy học [21, tr.91].

21

làm cho cho trò đạt được mục đích dạy học [21, tr.91].
Quá trình dạy - học là một hệ thống toàn vẹn gồm ba thành tố cơ bản:
thầy, trò, tri thức. Ba thành tố này luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào
nhau, quy định lẫn nhau theo những quy luật riêng nhằm kết hợp chặt chẽ quá
trình dạy của thầy với quá trình học của trò làm cho dạy học cộng hưởng với
tự học tạo ra chất lượng và hiệu quả trong giáo dục.

22


Sơ đồ 1.2. Cấu trúc của quá trình dạy - học

Có nhiều cách tự học:
- Tự mình mò mẫm (người học không có điều kiện đi học, các tri thức

Tri thức

họ có được là do sự tìm tòi trải nghiệm của chính bản thân họ trong cuộc sống)
- Tự học không cần thầy hướng dẫn (người học đã có một trình độ học

Dạy

Học

Truyền đạt


Lĩnh hội

vấn nhất định, đã có một thời gian dài học với thầy)
- Tự học với sự hướng dẫn của thầy (hoạt động tự học này gắn với quá
trình dạy học).

Điều khiển

Tự điều khiển

1.3. Dạy học theo học chế tín chỉ đòi hỏi sinh viên phải biết tự học
1.3.1. Học chế tín chỉ:
1.3.1.1. Khái niệm tín chỉ.

1.2.4. Tự học
Tự học (self-learning) là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản

Hệ thống tín chỉ cho phép sinh viên đạt được văn bằng qua việc tích luỹ

thân người học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích

các kiến thức, kỹ năng khác nhau được đo lường bằng một đơn vị xác định,

nhất định.

căn cứ trên khối lượng lao động học tập trung bình của một sinh viên, gọi là

Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng

hợp…) và có khi cả cơ bắp (khi sử dụng công cụ), cùng các phẩm chất của
mình, rồi cả động cơ tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như trung
thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại,

tín chỉ (credit).
1.3.1.2. Đặc điểm của học chế tín chỉ:
- Kiến thức được cấu trúc thành các mô-đun (học phần)
+ Học phần là môn học có cấu trúc chặt chẽ, được giảng dạy
trọn vẹn trong một học kỳ và được đánh giá độc lập với các học phần khác.

lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn thành thuận lợi…)

+ Đơn vị đo khối lượng học tập của sinh viên và tín chỉ. Một tín

để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó

chỉ được quy định bằng một số tiết học trên lớp tương đương với 15 tiết lý

thành sở hữu của mình” [22, tr59-60].

thuyết; 30-45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ thực tập tại

Theo giáo sư Vũ Văn Tảo: “Học, cốt lõi là tự học, là quá trình phát
triển nội tại, trong đó chủ thể tự thể hiện và biến đổi mình, tự làm phong phú
giá trị con người mình bằng cách thu nhận, xử lý và điều chỉnh thông tin từ
môi trường sống xung quanh mình”[24, tr.1].
Theo quan điểm của tác giả Lê Khánh Bằng: “Tự học là tự mình suy
nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh

cơ sở; 45-60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn

+ Đối với học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp
thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị bài ở nhà.
+ Một tiết học được tính bằng 50 phút.
- Quá trình học tập là sự tích luỹ kiến thức của người học theo từng
học phần (tín chỉ).

vực khoa học nhất định” [16, tr.3].

23

24


- Lớp học tổ chức theo từng học phần, sinh viên đăng ký học các học
phần ở đầu mỗi kỳ học. Một năm học có thể gồm 2 học kỳ chính (15 tuần học
và 3 tuần thi ) và có thể có một học kỳ hè (5 tuần học và 1 tuần thi), hay gồm
3 học kỳ (12 tuần học và 3 tuần thi) hoặc chia làm 4 học kỳ (10 tuần học và 2

dẻo hơn, đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế chương trình liên
thông giữa các cấp đào tạo đại học và giữa các ngành đào tạo với nhau.
- Tính mềm dẻo và khả năng thích ứng cao:
+ Với học chế tín chỉ, SV có thể chủ động ghi tên học các học
phần khác nhau dựa theo những quy định chung về cơ cấu và khối lượng của

tuần thi)
- Đánh giá thường xuyên, thang điểm 4 bậc (A, B, C, D hay 4, 3, 2, 1)

từng lĩnh vực kiến thức. Nó cho phép SV dễ dàng thay đổi ngành chuyên môn

- Quy định khối lượng kiến thức phải tích luỹ cho từng văn bằng. Dựa


trong tiến trình học tập khi thấy cần thiết mà không cần phải học lại từ đầu.

vào khối lượng tín chỉ đã tích luỹ để xếp năm học phù hợp cho người học.
- Có hệ thống cố vấn học tập: Mỗi cố vấn học tập phụ trách một số sinh
viên kể từ lúc vào trường cho đến khi ra trường. Cố vấn học tập phải nắm
vững tình hình học tập của sinh viên mình phụ trách, tư vấn cho sinh viên
chọn chương trình và tiến trình học phù hợp và giúp sinh viên đăng ký học

+ Với học chế tín chỉ, các trường đại học có thể mở thêm ngành
học mới một cách dễ dàng khi nhận được tín hiệu về nhu cầu của thị trường
lao động và tình hình lựa chọn ngành nghề của SV.
+ Học chế tín chỉ cung cấp cho các trường đại học một ngôn ngữ
chung, tạo thuận lợi cho SV khi cần chuyển trường cả trong nước và ngoài nước.
- Đạt hiệu quả cao về mặt quản lý và giảm giá thành đào tạo.

từng học kỳ.
- Chương trình đào tạo mềm dẻo, có nhiều khả năng lựa chọn cho sinh

+ Với học chế tín chỉ, kết quả học tập của sinh viên được tính theo từng

viên và tạo điều kiện dễ dàng cho sinh viên chuyển ngành hoặc học một lúc 2

học phần chứ không phải theo năm học, do đó việc hỏng một học phần nào đó

chương trình.

không cản trở quá trình học tiếp tục, SV không bị buộc phải quay lại học từ

- Không có thi tốt nghiệp, không tổ chức bảo vệ khoá luận tốt nghiệp

đối với các chương trình cao đẳng và đại học

đầu. Chính vì vậy giá thành đào tạo thấp hơn so với đào tạo theo niên chế.
+ Trường đại học lớn đa lĩnh vực có thể tổ chức những môn học chung

(Theo Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ

cho SV nhiều trường, nhiều khoa, tránh các môn học trùng lặp nhiều nơi;

ban hành theo Quyết định số 43/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/8/2007)

ngoài ra SV có thể học môn lựa chọn ở các khoa khác nhau. Cách tổ chức trên

1.3.1.2. Các ưu điểm của học chế tín chỉ:

cho phép sử dụng được đội ngũ giảng viên giỏi nhất và phương tiện tốt nhất

- Hiệu quả trong giáo dục và đào tạo:

cho từng môn học.

Học chế tín chỉ cho phép ghi nhận kịp thời tiến trình tích luỹ kiến thức

1.3.1.3. Các nhược điểm của học chế tín chỉ:

và kỹ năng của sinh viên để dẫn đến văn bằng. Với học chế này, sinh viên

- Cắt vụn kiến thức:

được chủ động thiết kế kế hoạch học tập cho mình, được quyền lựa chọn cho


Phần lớn các môđun trong học chế tín chỉ được quy định tương đối nhỏ,

mình tiến độ học tập thích hợp với khả năng, sở trường và hoàn cảnh riêng.

cỡ 3 hoặc 4 tín chỉ, do đó không đủ thời gian để trình bày thật sự có đầu, có

Điều đó đảm bảo cho quá trình đào tạo trong các trường đại học trở nên mềm

đuôi, theo một trình tự diễn biến liên tục, từ đó gây ấn tượng kiện thức bị cắt
vụn. Vì vậy người ta thường khắc phục bằng cách không thiết kế các môđun

25

26


quá nhỏ dưới 3 tín chỉ, và trong những năm cuối người ta thường thiết kế các

+ Xác định thời gian, chủ đề, nội dung, yêu cầu cho giờ lên lớp lý thuyết;

môn học hoặc tổ chức các kỳ thi có tính tổng hợp để SV có cơ hội liên kết,

+ Giới thiệu mục tiêu của bài học và các yêu cầu cần thực hiện;

tổng hợp các kiến thức đã học.

+ Trình bày cấu trúc nội dung dạy học và các yêu cầu cần thực hiện;

- Khó tạo nên sự gắn kết giữa sinh viên:


+ Lựa chọn và chuyển tải nội dung trình bày trên lớp;

Các lớp học môđun không ổn định, khó xây dựng tập thể gắn kết chặt

+ Chỉ rõ nội dung, vấn đề mà sinh viên sẽ phải thảo luận, làm bài

chẽ như các lớp theo khoá học nên việc tổ chức sinh hoạt đoàn thể của SV

tập trên lớp hoặc tự học ở nhà.

gặp không ít khó khăn. Vì nhược điểm này mà có SV nói học chế tín chỉ

- Giờ thảo luận:

“khuyến khích chủ nghĩa cá nhân, không coi trọng tính cộng đồng”. Tuy

Giờ thảo luận có thể được tổ chức theo các cách dưới đây

nhiên người ta thường khắc phục bằng cách xây dựng các tập thể tương đối ổn
định qua các lớp khoá học trong năm thứ nhất và đảm bảo sắp xếp một số
buổi xác định không bố trí thời khoá biểu để SV có thể cùng tham gia các sinh

+ Sinh viên chuẩn bị ở nhà (cá nhân hoặc nhóm) và tiến hành
thảo luận trên lớp.
+ Sinh viên được phân nhóm thảo luận ở nhà, tổng hợp kết quả

hoạt đoàn thể chung.

và gửi cho giảng viên trước giờ thảo luận trên lớp. Tại giờ thảo luận trên lớp,


1.3.2. Dạy - học theo học chế tín chỉ:

giảng viên phân tích những vấn đề cốt lõi của nội dung thảo luận và hướng

1.3.2.1. Nội dung hoạt động giảng dạy theo học chế tín chỉ:

dẫn sinh viên xử lý tiếp những nội dung cần mở rộng hay còn vướng mắc,

- Giới thiệu về học phần và đề cương học phần; hướng dẫn sinh viên
chuẩn bị tài liệu, dụng cụ học tập; thông báo các quy định của giảng viên đối
với sinh viên trong quá trình giảng dạy.

chưa giải quyết được khi thảo luận ở nhà.
+ Sinh viên được phân nhóm thảo luận ở nhà và chuẩn bị bài
thuyết trình của nhóm. Tại giờ thảo luận trên lớp, đại diện các nhóm trình bày

- Giảng dạy theo đề cương học phần

bài thuyết trình và cùng tranh luận, giảng viên phân tích những vấn đề cốt lõi

- Thực hiện giờ tư vấn học tập

của nội dung thảo luận và hướng dẫn sinh viên xử lý tiếp những nội dung cần

- Tổ chức kiểm tra - đánh giá thường xuyên và định kỳ

mở rộng hay còn vướng mắc, chưa giải quyết được khi thảo luận ở nhà.

- Đánh giá và tự đánh giá chất lượng giảng dạy

1.3.2.2. Hoạt động giảng dạy theo các loại giờ tín chỉ:

Một số yêu cầu cơ bản đối với giờ thảo luận:
+ Sinh viên thảo luận ở nhà hay ở trên lớp theo nhóm do giảng
viên chỉ định và không nên vượt quá 10 sinh viên/nhóm

- Giờ lý thuyết:
Ngoài việc hướng dẫn sinh viên nắm rõ được vấn đề đã nêu trong đề

+ Giảng viên giao cho từng nhóm nội dung thảo luận cụ thể và

cương học phần về mục tiêu, nội dung tự học, học liệu, cách thức kiểm tra-

nêu rõ yêu cầu cần đạt được, những sản phẩm phải báo cáo, các lưu ý về tài

đánh giá thường xuyên, giảng viên có trách nhiệm xây dựng kịch bản cho một

liệu tham khảo.
+ Điều hành và tổng kết thảo luận. Giảng viên nhất thiết cần

giờ lên lớp:

khẳng định những nội dung đúng, sửa chữa những nội dung chưa đúng của

27

28


sinh viên trong quá trình thảo luận, nhấn mạnh những điểm quan trọng của


Một số yêu cầu cơ bản đối với giờ tự học xác định:
+ Chỉ rõ mục đích, nội dung, yêu cầu để sinh viên tự học;

nội dung thảo luận.
- Giờ bài tập: Giờ bài tập là thời gian lên lớp dành cho sinh viên làm
bài tập hoặc chữa bài tập đã giao cho sinh viên tự làm ở nhà.
Một số yêu cầu đối với giờ bài tập:
+ Xác định rõ mục tiêu của bài tập
+ Chỉ rõ những nội dung lý thuyết sinh viên cần sử dụng và yêu
cầu phản ánh được nội dung đó trong quá trình làm bài tập

+ Nêu đầy đủ các công việc sinh viên phải làm
+ Quy định về cách thức báo cáo kết quả tự học của sinh viên
+ Hướng dẫn sinh viên cách tìm, xử lý thông tin khi tự học
+ Quy định rõ nội dung giờ tư vấn học phần tương ứng với thời
gian sinh viên thực hiện nội dung giờ tự học xác định.
+ Nhận xét kết quả tự học và trả bài cho sinh viên.

+ Nêu rõ tiêu chí đánh giá kết quả bài tập

1.3.3. Dạy học theo tín chỉ đòi hỏi SV phải biết tự học:

+ Chữa bài tập

1.3.3.1. Đặc điểm tự học của sinh viên ở các trường đại học:

+ Đánh giá, cho điểm

Tại “Báo cáo về tình hình giáo dục” của Chính phủ -2004 đã ghi rõ:…


+ Với giờ bài tập mà sinh viên báo cáo sản phẩm của quá trình

“Mục tiêu của của giáo dục không chỉ đào tạo nhân lực mà còn là phát triển

thực hiện như các bài tập lớn, giảng viên cần xây dựng kịch bản tổ chức giờ

con người Việt Nam với đầy đủ bản lĩnh sắc thái Việt Nam”. Cũng tại Báo

bài tập và thông báo trước để sinh viên chuẩn bị

cáo trên, còn nhấn mạnh: Đối với người học, giờ đây Học không phải chỉ có 4

- Giờ thực hành: Bao gồm giờ thực hành của học phần có cả lý thuyết
và thực hành; giờ thực hành của học phần thực hành, thực tập.
Một số yêu cầu đối với giờ thực hành:
+ Xác định rõ mục tiêu của giờ thực hành
+ Chỉ rõ các tài liệu có liên quan và điều kiện khác mà sinh viên

trụ cột “Học để biết, để làm, để cùng chung sống với nhau và để làm người”
mà còn cần phải biết tìm tòi, sáng tạo, biết độc lập, tự lực suy nghĩ, biết đưa
ra quyết định của mình và làm chủ được thị trường đưa đất nước tiến kịp các
nước phát triển.
Tự học luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình học tập và phát triển
của mỗi người. Bàn về vai trò của tự học nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã

cần chuẩn bị.
+ Phân công nhiệm vụ rõ ràng cho sinh viên

phát biểu: “Tự học tự đào tạo là con đường phát triển suốt mỗi cuộc đời, mỗi


+ Nêu rõ tiêu chí đánh giá kết quả thực hành

con người trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và cả mai sau, đó

+ Chỉ đạo hướng dẫn sinh viên thực hành, thực tập

cũng là truyền thống quý báu của người Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chất

- Giờ tự học xác định:

lượng và hiệu quả của giáo dục được nâng cao khi tạo ra được năng lực sáng

Giờ tự học xác định là bộ phận cấu thành tổng số giờ tín chỉ của học

tạo của người học, biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo dục. Quy

phần và được nêu rõ trong đề cương chi tiết của học phần. Nội dung của giờ

mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự học”. Trích thư gửi

tự học xác định là nội dung của học phần mà sinh viên phải tích luỹ (về kiến

Hội thảo khoa học nghiên cứu phát triển tự học, tự đào tạo 6/1/1998.

thức, kỹ năng) bằng phương thức tự học theo hướng dẫn của giảng viên.

29

Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu đào tạo của các trường đại học là:


30


“ Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật nghiệp vụ, có trình
độ, có lý tưởng cách mạng, có quyết tâm vươn lên những đỉnh cao của văn
hoá, khoa học hoặc chỉ đạo việc thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn do

Hoạt động tự học của SV đại học gắn liền với sự hướng dẫn của thầy.
Hoạt động này sẽ diễn ra ở 2 phạm vi: tự học trên lớp và tự học ngoài giờ lên lớp.
- Tự học trên lớp:

mình phụ trách, có tiềm lực để từng bước tiến hành giải quyết các vấn đề thực

+ Nghe giáo viên giảng và hướng dẫn

tiễn do cuộc sống đặt ra trong phạm vi “nghề nghiệp” của mình với phương

+ Ghi chép theo cách hiểu của bản thân

châm “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Trên ý nghĩa đó,

+ Trao đổi với thầy và bạn những vấn đề còn thắc mắc

việc tự học của sinh viên không còn giống tự học của học sinh ở phổ thông.

- Tự học ở ngoài lớp:

Đối với sinh viên đại học việc tự học có vai trò đặc biệt quan trọng. Phần lớn


+ Đọc giáo trình, tư liệu tham khảo

SV khi mới bước chân vào ngưỡng của đại học thường ngỡ ngàng và lúng

+ Lập nhóm học để tiến hành thảo luận theo nhóm

túng với cách giảng dạy và học tập mới bởi họ đã quá quen với cách học ở

+ Hoàn thành các bài tập được giao và tìm thêm những bài tập

phổ thông. Học đại học là đi sâu vào một chuyên ngành để chuẩn bị cho một
nghề trong tương lai. Do đó, sinh viên phải tự trang bị cho mình những hiểu
biết cơ bản, vững vàng về nghề đó, đồng thời phải có nhiều hiểu biết khác nữa

cùng dạng để làm nhằm rèn luyện những kiến thức cần học cho thuần thục
+ Tiến hành làm các đề án, các đề tài nghiên cứu khoa học, luận
văn tốt nghiệp…

theo yêu cầu của cuộc sống. Giờ đây, công việc tự học của sinh viên trở nên

Để việc tự học được thuận lợi, SV ngay từ khi bước chân vào giảng

rất quan trọng, rất nặng nề, nó trở thành một bộ phận cấu thành của giáo dục

đường đại học cần chuẩn bị tâm lý sẵn sàng với cách học mới. Khi đã chuẩn

đại học. Do phương pháp học tập ở trường đại học khác cơ bản so với phương

bị tâm lý thì việc sắp xếp, tổ chức thời gian cho việc tự học cần được tiến


pháp học ở phổ thông, ở đại học không có sự kiểm tra hàng ngày của giáo

hành một cách khoa học với các hoạt động cụ thể. Từ đó SV mới có thể tiến

viên nên việc học tập của sinh viên phần lớn là tự học. Sinh viên tự đề ra kế

hành tự học một cách nề nếp và có kế hoạch

hoạch và tự thực hiện kế hoạch. Các bài kiểm tra chính là kết quả học tập và

Ngày nay khi khoa học, công nghệ thông tin phát triển mạnh, thông tin

nghiên cứu của sinh viên. Việc tự học của sinh viên đại học còn có một đặc

bùng nổ thì những kiến thức nhà trường chỉ là kiến thức nền tảng để trên cơ

điểm; đó là hoạt động tự học diễn ra liên tục, trong một phạm vi lớn nhằm

sở đó người học vươn ra tiếp thu kiến thức trong gia đình và ngoài xã hội.

lĩnh hội rất nhiều tri thức. Sinh viên đại học phải tự tìm tòi tài liệu, chọn đọc

Vấn đề tự học lúc này trở thành con đường cơ bản để nâng cao trình độ hiểu

tài liệu sao cho thích hợp với môn học và phải tỏ ra thật sự khoa học trong

biết cho bản thân. Để hoàn thành tốt chương trình ở bậc đại học và cũng là để

công tác tự học mới đạt được kết quả. Tự học của sinh viên đại học với sự nỗ


chuẩn bị cho mình một hành trang tốt khi bước vào cuộc đời, mỗi sinh viên

lực cao, tự giác cao; sinh viên thực sự làm chủ thời gian, phương pháp, phải

cần xây dựng cho mình kế hoạch học tập khoa học và sáng tạo phù hợp với

quan tâm đến chất lượng học tập của bản thân để từ đó có phương hướng

năng lực của bản thân

nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho mình, chuẩn bị cho ngày mai lập nghiệp

1.3.3.2. Tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ:

bằng sự tự tin tuyệt đối.

31

32


Tự học được đánh giá là rất quan trọng và nó càng trở nên quan trọng
hơn đối với đào tạo theo tín chỉ. Học theo tín chỉ là phải áp dụng phương pháp

tiên đặt câu hỏi hơn là trả lời, không nên nôn nóng hiểu sâu, mà phải hiểu
những vấn đề cơ bản trước.

học tích cực, đó là phương pháp lấy tự học và học cái cốt lõi là chính. Phương

- Học ở nhà:


pháp học này phát huy tính năng động và sáng tạo của sinh viên. SV phải tự

Học cách tự đọc tài liệu, tham khảo giáo trình để hiểu sâu “linh hồn”

hình thành tính tự giác học tập, khi đã có nhu cầu thì SV sẽ tự tìm được

của từng chương và tiến tới cả học phần. Cụ thể việc đọc sách, tài liệu phải

phương pháp học tập phù hợp. Mô hình đào tạo này vừa là thách thức nhưng

được thực hiện theo các bước sau:

cũng là cơ hội cho SV mới rèn luyện và thích nghi, để tự tin hơn trong xu thế

+ Bước 1: Đọc lướt để nắm ý chung

hội nhập.

+ Bước 2: Đọc kỹ để nắm ý chi tiết

Đào tạo theo học chế tín chỉ sinh viên phải vừa tiếp thu kiến thức trên

+ Bước 3: Đọc và nắm thông tin theo từng chủ để
+ Bước 4: Ghi chép lại những vấn đề đọc được.

lớp thông qua bài giảng của giảng viên, vừa thảo luận, làm bài tập trên lớp và
tìm kiếm tích luỹ kiến thức ngoài lớp học (qua các tài liệu mà giảng viên yêu

Tự triển khai những vấn đề cụ thể của học phần như giải bài tập, thiết


cầu đọc, qua các bài tập, thí nghiệm mà giảng viên giao) vừa tự học ở nhà, thư

kế, chuẩn bị câu hỏi cho các giờ thảo luận trên lớp. Tăng cường trao đổi bài

viện…Giờ học trên lớp giảm mà tăng thời gian thảo luận, học nhóm và thời

theo nhóm.

gian tự học. Để lĩnh hội được kiến thức đòi hỏi mỗi sinh viên phải hiểu rõ

1.3.3.3. Những khó khăn trong việc tự học theo tín chỉ:

được bản chất của học chế tín chỉ, từ đó mới tìm ra được phương pháp học tập

Khó khăn chủ yếu liên quan đến việc tự học là sinh viên chưa có
phương pháp học, thái độ học tập đúng. Sinh viên chưa có động cơ tự học,

phù hợp với từng loại hình lớp học.
- Học lý thuyết trên lớp:

chưa tìm hứng thú học, tự học chưa trở thành nhu cầu của họ. Đặc biệt, nhiều

Giờ học lý thuyết sinh viên không chỉ ghi chép những lời thầy cô giảng

sinh viên chưa có các kỹ năng quan trọng của việc tự học, chưa có phương

trên lớp một cách thụ động mà phải nghe, suy ngẫm và nắm được “linh hồn”
những vấn đề mà thầy cô truyền đạt. Thầy cô đặt vấn đề thế nào? Tại sao lại
đặt vấn đề như vậy? Nguyên tắc để giải quyết vấn đề là gì? Sinh viên chưa


pháp tự học đúng đắn, hợp lý và khoa học. Cụ thể:
- SV chưa lập được kế hoạch, thời gian biểu tự học khoa học và phù
hợp với điều kiện của mình.

cần nắm rõ những chi tiết cụ thể. Vì thế sinh viên không đến lớp sẽ không có

- SV chưa có kỹ năng tìm tài liệu

được bức tranh tổng quát của học phần, của từng chương, từng mục.

- Chưa có kỹ năng đọc sách, khả năng tổng hợp tài liệu chưa tốt…
- Chưa biết cách chất vấn, tìm thắc mắc để tự hỏi (tự hỏi mình, hỏi bạn

- Học thảo luận trên lớp:
Giờ thảo luận trên lớp là giờ để làm rõ những vấn đề của giờ lý thuyết
áp dụng vào những bài toán cụ thể. Nếu như giờ lý thuyết sinh viên chủ yếu là
nghe, suy ngẫm thì giờ thảo luận sinh viên phải nói nhiều và tranh luận. Ưu

33

bè, hỏi thầy giáo hay bất cứ ai có khả năng)
- Chưa biết cách vận dụng điều mới học được để trả lời các câu hỏi, để
làm bài tập…

34


- Chưa biết cách tận dụng hết các điều kiện thuận lợi trong hoàn cảnh
của mình và không biết cách khắc phục khó khăn trong quá trình tự học

Ngoài ra, các yếu tố khách quan, những yếu tố ngoại lực ảnh hưởng đến

Nếu như đào tạo theo niên chế, sinh viên phải học theo tất cả những gì
nhà trường sắp xếp thì ngược lại, đào tạo theo học chế tín chỉ có nhiều ưu
điểm vượt trội. Sinh viên có thể chủ động học theo điều kiện và năng lực của

việc tự học của SV như: cơ sở vật chất, môi trường…

mình. Sinh viên được phép lựa chọn nội dung, phương thức học tập, kế hoạch

1.4. Quản lý tự học theo học chế tín chỉ.

học để đạt được mục tiêu đã chọn. Trong quá trình học có thể tuỳ yêu cầu của

1.4.1.Vị trí, vai trò của công tác quản lý sinh viên trong các trường đại học:

xã hội, sở thích và khả năng của mình, sinh viên có thể thay đổi mục tiêu, nội

Trong số những người được giáo dục - đào tạo để có đủ sức làm chủ

dung, phương pháp học tập. Nói một cách hình tượng là, tổ chức đào tạo đã

nền khoa học, công nghệ hiện đại của nước nhà sau này thì SV là người tiêu

vạch ra cho sinh viên một bản đồ trên đó có những hướng đi khác nhau mà

biểu, là những người đang được đầu tư, đang được đào tạo ở giai đoạn cuối

sinh viên có thể chọn để đi tới mục tiêu đào tạo. Chính vì vậy việc quản lý


cùng trong nhà trường một cách có hệ thống. Đó là nguồn lực con người lao

hoạt động tự học cực kỳ quan trọng đối với sinh viên. Giúp các em có sự lựa

động có chất lượng và có trình độ cao, có chuyên môn sâu, là lực lượng ưu tú

chọn đúng đắn phù hợp với khả năng của mình. Với ý nghĩa quan trọng đó

về học vấn trong thanh niên, được Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, gia

quản lý tự học theo học chế tín chỉ có những nội dung sau:

đình và toàn xã hội quan tâm chăm sóc và đặt nhiều tin tưởng, hy vọng.
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo nói chung và công tác quản lý nói

- Thay đổi nhận thức của giảng viên và sinh viên trước yêu cầu dạy
- học theo học chế tín chỉ.

riêng thì công tác quản lý SV góp phần hỗ trợ tích cực cho hoạt động dạy -

Bất kỳ một hoạt động nào muốn đạt được kết quả tốt thì trước hết bản

học, cũng như đảm nhận mọi mặt của công tác quản lý. Quản lý SV từ các

thân con người đó phải có nhận thức đúng đắn về việc làm của mình, phải có

khâu hành chính, giáo vụ, đến giáo dục ngoài giờ, giáo dục chính trị tư tưởng,

mục đích, động cơ rõ ràng. Theo thuyết “nhu cầu” về động cơ của A.Maslow,


đạo đức và tổ chức phong trào SV… sẽ hỗ trợ và tạo điều kiện về vật chất và

các nhu cầu được xếp theo hình tháp từ thấp tới cao: nhu cầu cơ bản - sinh

tinh thần học tập để SV rèn luyện trở thành nguồn nhân lực có chất lượng và

học; nhu cầu về an toàn, nhu cầu về sự được thừa nhận, nhu cầu được tôn

trình độ cao. Công tác quản lý sinh viên có ý nghĩa quyết định trong việc đổi

trọng và nhu cầu tự thể hiện. Động cơ tự học của sinh viên cũng có nhiều thứ

mới bền vững yếu tố con người về chất lượng nhận thức thức tri thức và hành

bậc khác nhau. Bên cạnh đó mỗi giảng viên, sinh viên phải biết thích ứng với

động. Quản lý SV là mảng công tác trọng tâm thiết yếu của nền giáo dục đại

một môi trường, hoàn cảnh mới với những yêu cầu, đòi hỏi mới chưa hề có

học nước ta.

trong kinh nghiệm của bản thân. Chúng ta cần đến sự “thích ứng” khi phải

1.4.2. Quản lý tự học - các nội dung quản lý tự học:

làm quen, xâm nhập vào môi trường đó - như một điều kiện, một phẩm chất

Nghị quyết đại hội IX “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn


quan trọng của con người tồn tại, phát triển. Nói ngắn gọn, “thích ứng” là sự

diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học … Phát huy tinh thần độc lập

thay đổi, điều chỉnh bản thân (về ý thức, thói quen, hành vi…) cho phù hợp

suy nghĩ sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn

với những yêu cầu của hoàn cảnh mới nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển.

thiện học vấn và tay nghề…”

35

36


- Xây dựng hệ thống cố vấn học tập có chất lượng hướng dẫn sinh

năng tư vấn học phần, phát triển tài liệu, dụng cụ học tập, phương pháp kiểm
tra - đánh giá để giúp giảng viên nâng cao chất lượng giảng dạy.

viên tự học có hiệu quả:
Đối với đào tạo tín chỉ thì hệ thống cố vấn học tập có vai trò hết sức to

Giảng viên phải chuẩn bị bài giảng nghiêm túc, giảng dạy theo đúng đề

lớn. Để việc học tập của sinh viên đạt kết quả tốt thì việc đăng ký các học

cương môn học đã được phê duyệt; sử dụng các phương pháp dạy tiên tiến


phần phù hợp với bản thân là một việc làm hết sức quan trọng. Nhiều sinh

phù hợp với đào tạo tín chỉ; cung cấp danh mục tài liệu, hướng dẫn sinh viên

viên tự bản thân các em chưa đánh giá được đúng năng lực học tập cũng như

tự học, tự nghiên cứu và phải có hình thức kiểm tra và đánh giá kết quả học

chưa lường hết được hoàn cảnh điều kiện cụ thể của mình dẫn đến lựa chọn,

tập của sinh viên. Hoạt động giảng dạy trong phương thức đào tạo tín chỉ có

đăng ký các môn học không phù hợp do vậy kết quả học tập không cao. Lúc

nhiều điểm khác biệt và phức tạp hơn nhiều so với đào tạo theo niên chế. Để

này các em rất cần sự hỗ trợ, tư vấn từ các cố vấn học tập. Cố vấn học tập

tổ chức quản lý tốt hoạt động giảng dạy nhà trường phải có quy chế, quy định

chính là những người nắm vững quy chế đào tạo, các quy định hướng dẫn của

hướng dẫn phù hợp và một hệ thống quản lý theo dõi kiểm tra một cách chặt chẽ.

nhà trường về công tác đào tạo tín chỉ; phải nắm chắc năng lực, hoàn cảnh

- Hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị:

điều kiện của sinh viên, tư vấn sinh viên chọn chương trình, tiến trình học phù


Trong đào tạo tín chỉ, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy,

hợp và giúp sinh viên đăng ký học từng học kỳ.
- Quản lý hoạt động dạy của giảng viên thúc đẩy giảng viên cải tiến

học tập có ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả học tập của sinh viên. Để nhà
trường phát triển, đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ đào tạo ra những sản phẩm có
chất lượng thì càng đòi hỏi phải đầu tư và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất,

phương pháp dạy học:
Hoạt động dạy của giáo viên mang tính quyết định chất lượng giáo dục

trang thiết bị cho hoạt động dạy - học như phòng làm việc riêng cho thầy để

- đào tạo nói chung và chất lượng dạy học nói riêng. Bởi vậy quản lý hoạt

có điều kiện tư vấn trả lời sinh viên, phương tiện Internet, thư viện với đầy đủ

động dạy là một biện pháp quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện nâng cao

học liệu cho người học, máy tính, projetor, phòng thí nghiệm…
- Phối kết hợp đồng bộ giữa các đơn vị chức năng hướng tới hoạt

chất lượng dạy-học.
Quản lý hoạt động dạy của giảng viên là quản lý chương trình, nội

động tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ.

dung và phương pháp dạy học thông qua quy chế chuyên môn, thông qua chỉ


Đào tạo theo học chế tín chỉ mang lại nhiều lợi ích trong công tác giáo

đạo việc đổi mới phương pháp dạy học, thông qua kiểm tra đánh giá việc thực

dục đào tạo ở trường đại học: nó làm cho sinh viên chủ động hơn trong học

hiện mục tiêu giảng dạy của giảng viên đối với từng học phần. Trưởng bộ

tập, đặc biệt nó tạo ra một tác phong công nghiệp đối với mọi hoạt động của

môn chịu trách nhiệm kiểm tra, đánh giá hoạt động giảng dạy của giảng viên

nhà trường.

theo đề cương học phần đã ban hành của tổ bộ môn mình. Đầu mỗi học kỳ,

Tuy nhiên việc triển khai học chế tín chỉ cũng gặp rất nhiều khó khăn

Tổ trưởng bộ môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn để thông báo, thảo luận về

về phía những người trực tiếp thực hiện: trước hết, đối với sinh viên, những

những nội dung chuyên môn hay những vấn đề về phương pháp giảng dạy, kỹ

người đã được “chăn dắt” từ trường phổ thông khi bước vào đại học hết sức
ngỡ ngàng về mọi mặt, học chế tín chỉ tạo nên bước chuyển khá đột ngột, họ

37


38


phải mất thời gian dài để thích ứng. Đối với giảng viên, khó khăn lớn nhất là

- Phối kết hợp đồng bộ giữa các đơn vị chức năng hướng tới hoạt động

tình trạng quá tải hiện nay của hoạt động giảng dạy làm họ không còn đủ thời

tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ.

gian đầu tư vào việc cải tiến phương pháp giảng dạy và các hoạt đông khác

Tiểu kết chương 1.

mà học chế tín chỉ đòi hỏi. Hơn nữa, học chế tín chỉ làm cho mức độ tự do

Sau khi trình bày các khái niệm và các thuật ngữ có liên quan tới đề tài

của giáo viên giảm nhiều vì học phải được gắn với các giờ học và lớp học xác

với mục đích cuối cùng làm sáng tỏ khái niệm về Biện pháp quản lý hoạt

định phân bố trong suốt cả học kỳ, rất khó bố trí tập trung thời gian cho các

động tự học của sinh viên theo học chế tín chỉ, chương 1 của luận văn đã đi

hoạt động ở ngoài trường. Từ đó cần có những vận động để hoạt động hoá

vào tìm hiểu mục đích và nội dung của công tác quản lý hoạt động tự học của


sinh viên và nâng cao trách nhiệm của giáo viên thì việc triển khai học chế tín

sinh viên theo học chế tín chỉ cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến công tác

chỉ mới thuận lợi.

quản lý hoạt động tự học của sinh viên. Qua đó, toàn bộ chương 1 đã cho

Chính vì vậy cần phải có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng đối với tất

chúng ta một cơ sở lý luận về công tác quản lý hoạt động tự học của SV theo

cả các đơn vị chức năng, tất cả cán bộ quản lý, giảng viên. Để việc đào tạo

học chế tín chỉ. Những cơ sở lý luận này là nền tảng và định hướng cho việc

theo học chế tín chỉ đạt hiệu quả phải có sự chỉ đạo rất kiên quyết của Ban

tìm hiểu thực trạng cũng như đề xuất các giải pháp cho công tác quản lý hoạt

Giám hiệu, vai trò lãnh đạo của Hiệu trưởng, sự phối hợp đồng bộ giữa các

động tự học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Nga trường Đại học

đơn vị trong trường, giảng viên nhận thức được trách nhiệm và tham gia vào

Ngoại ngữ - ĐHQGHN đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.

quá trình đào tạo bằng cả tấm lòng của người thầy.

1.4.3. Các biện pháp quản lý tự học
Các biện pháp quản lý là tổ hợp các phương pháp, cách thức tiến hành
của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã
đề ra. Các biện pháp quản lý hoạt động tự học bao gồm:
- Thay đổi nhận thức của giảng viên và sinh viên trước yêu cầu dạy học theo học chế tín chỉ lấy tự học làm cốt, tăng cường trao đổi thảo luận và
có sự chỉ đạo chặt chẽ
- Xây dựng hệ thống cố vấn học tập có chất lượng hướng dẫn sinh viên
tự học có hiệu quả.
- Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên thúc đẩy giảng viên cải
tiến phương pháp dạy học giúp sinh viên tự học tốt.
- Hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với yêu cầu đào tạo
theo tín chỉ tạo điều kiện cho sinh viên tự học.

39

40


Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TỰ HỌC CỦA SINH

giao phó, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập

VIÊN KHOA NN&VH NGA TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐHQGHN

quốc tế của đất nước”.

2.1. Khái quát về trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.1.1. Quá trình thành lập trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN

Với sứ mạng đó, Nhà trường đã không ngừng phấn đấu phát triển quy

mô và loại hình đào tạo, nâng cao chất lượng đạo tạo, chất lượng nghiên cứu

Năm 1955, Trường Ngoại ngữ đặt tại khu Việt Nam Học xá (Bạch Mai-

khoa học, đào tạo chuyên gia ngoại ngữ chất lượng cao theo danh mục các

Hà Nội) được thành lập theo đề nghị của Bộ Giáo dục và được Thủ tướng

ngành đào tạo, loại hình đào tạo ở các trình độ đại học và sau đại học để giảng

Chính phủ đồng ý. Ngày 5 tháng 9 năm 1955, Trường khai giảng khoá học

dạy ngoại ngữ ở các cấp học, bậc học, nghiên cứu ngôn ngữ và văn hoá nước

đầu tiên. Năm 1958, Trường Đại học Ngoại ngữ được sát nhập vào trường

ngoài; xây dựng và phát triển các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ, văn hoá

Đại học Sư phạm Hà Nội và trở thành khoa Ngoại ngữ, đến năm 1963 phát

nước ngoài và việc dạy - học ngoại ngữ ở Việt nam cho phù hợp với điều

triển thành 4 khoa ngoại ngữ: khoa Nga văn, khoa Anh văn, khoa Trung văn,

kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
Hiện nay, Nhà trường có 9 khoa đào tạo, 5 trung tâm nghiên cứu và 01

khoa Pháp văn.
Ngày 14 tháng 8 năm 1967, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số


trường THPT chuyên Ngoại ngữ với 8 ngành đào tạo chính là các thứ tiếng

128/CP thành lập trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội trên cơ sở 4

Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc, Đức, Nhật, Hàn Quốc, Ả Rập. Năm học 2007-

khoa ngoại ngữ được tách ra từ trường Đại học Sư phạm Hà Nội

2008 Nhà trường đã mở thêm một số ngành mới là tiếng Tây Ban Nha và

Ngày 10 tháng 12 năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/CP

tiếng Thái Lan (hiện này tiếng Thái Lan được giảng dạy là ngoại ngữ 2). Nhà

thành lập Đại học Quốc gia Hà Nội trên cơ sở sát nhập 3 trường đại học:

trường đào tạo liên kết trong nước trong nước bằng tiếng Anh các chuyên

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và

ngành Quản trị kinh doanh, Tài chính ngân hàng, Kinh tế đối ngoại với trường

Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội. Là thành viên của Đại học Quốc

ĐH Kinh tế-ĐHQGHN và Du lịch-tiếng Anh với trường ĐH KHXH&NV -

gia Hà Nội, năm 1995 trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội được đổi

ĐHQHGHN… Đào tạo liên kế ngoài nước bằng tiếng Pháp các chuyên ngành


tên thành Trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN.

Kinh tế-Quản lý, Quản lý doanh nghiệp, Công nghệ thông tin ứng dụng vào

2.1.2. Mục tiêu chiến lược phát triển của Trường

quản lý kinh tế và Quản trị Du lịch; đào tạo bằng tiếng Trung Quốc các

Trong giai đoạn hội nhập và phát triển, Trường Đại học Ngoại ngữ-

chuyên ngành NN&VH Trung Quốc, Tiếng Hán-Thương mại với trường ĐH

ĐHQGHN xác định rõ sứ mạng của Nhà trường, đó là “Đào tạo và bồi dưỡng

Thiểm Tây và ĐH Hoa Đông, Thượng Hải, Trung Quốc... Đây chính là bước

giáo viên ngoại ngữ cho hệ thống giáo dục quốc dân và hầu hết các lĩnh vực

đột phá, một hướng đi mới của Nhà trường nhằm thu hút sinh viên, và một lần

kinh tế xã hội của đất nước; đào tạo cán bộ biên dịch, phiên dịch, chuyên gia

nữa khẳng định vị thế của Nhà trường trong bối cảnh hội nhập.

nghiên cứu ngoại ngữ; đồng thời thực hiện đào tạo ngoại ngữ và tiếng Việt

Hàng năm Nhà trường tuyển sinh khoảng 1200 sv đại học chính quy,

cho người nước ngoài, từ đó định ra các mục tiêu cơ bản để hoàn thành nhiệm


200 học viên sau đại học, 2000 sv hệ vừa học vừa làm, 200 sv hệ chuyên tu,

vụ chiến lược mà Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và đào tạo và ĐHQGHN

100 sv hệ của tuyển, 380 học sinh THPT. Sinh viên, học viên tốt nghiệp của

41

42


trường đáp ứng tốt yêu cầu sử dụng ngoại ngữ trong mọi lĩnh vực, phục vụ

khai và áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo chung của

công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Công tác quản

toàn trường. Về chất lượng giáo dục đã từng bước cải thiện đáp ứng được xu

lý đào tạo, giảng dạy và học tập ngày càng được chuẩn hoá và tin học hoá.

thế phát triển chung của xã hội. Tuy nhiên tỷ lệ sinh viên đạt kết quả học tập

Nhà trường đã chủ động đầu tư mạnh mẽ cho cơ sở vật chất, đổi mới phương

xuất sắc còn khiêm tốn dưới 1%, tỷ lệ tốt nghiệp loại giỏi giữ ở mức ổn định

pháp giảng dạy, cải tiến phương pháp và quy trình kiểm tra đánh giá người

trên 10%. tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp loại TB khá và loại trung bình giảm từ


học, áp dụng hình thức kiểm tra đánh giá tiên tiến theo chuẩn quốc tế. Nhà

trên 20% xuống còn 16.88% và từ trên 1% xuống còn 0.54%. Nhà trường cần

trường có nhiều chương trình trao đổi đào tạo sinh viên với các trường đại học

có các biện pháp tích cực hơn nữa nhằm nâng dần tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp

của Hoa Kỳ, Nhật Bản,Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, CHLB Nga…

loại xuất sắc và tiến tới không còn sinh viên tốt nghiệp loại trung bình.
- Về hình hình thực hiện quy chế rèn luyện của sinh viên đã có những

2.1.3. Quy mô và chất lượng đào tạo của Trường:
Là trường đào tạo chính quy về ngoại ngữ được thành lập sớm nhất

thành công đáng ghi nhận, cần nhân rộng và có hình thức khen thưởng xứng

(1955) và nhiều năm sau đó là trường đại học duy nhất đào tạo giáo viên

đáng đối với những sinh viên có tư cách đạo đức trong sáng, lành mạnh, là

ngoại ngữ cho cả nước, trong suốt 50 năm xây dựng và phát triển, Trường đại

tấm gương cho những sinh viên khác noi theo. Dưới đây là bảng thống kê về

học Ngoại ngữ - ĐHQGHN luôn khẳng định vai trò của trường đầu ngành

tình hình thực hiện quy chế rèn luyện của sinh viên trong 3 năm học từ 2007-2009


ngoại ngữ, là trường có quy mô đào tạo ngoại ngữ lớn nhất của cả nước. Tính

Bảng 2.2. Thống kê tình hình thực hiện
quy chế rèn luyện của sinh viên

đến năm học 2008-2009, nhà trường đã đào tạo hàng chục tiến sĩ, hơn 500
thạc sĩ, gần 20.000 cử nhân hệ chính quy, hơn 30.000 cử nhân hệ vừa học vừa

Năm học

Tổng số
sv

Số lượng sv (tính theo %)
XS

làm, gần 1.500 cử nhân hệ văn bằng 2…
- Chất lượng đào tạo đại học chính quy đã từng bước nâng cao, đáp ứng
được mục tiêu của ngành giáo dục và nhu cầu phát triển của xã hội. Dưới đây
là bảng thống kê kết quả tốt nghiệp của sinh viên trong 3 năm từ 2007-2009

2006-2007
2007-2008
2008-2009

giỏi

khá


TB

yếu

4584
2
11
55
32
1
4562
3
13
55
35
2
4254
2
15
56
26
1
(Nguồn từ Phòng Chính trị và Công tác HSSV)

kém

0
0
0


Bảng 2.1. Thống kê kết quả tốt nghiệp của sinh viên
Năm học

Nhận xét: Trong 3 năm học qua, số lượng sinh viên thực hiện quy chế

Tổng số
sv

Số lượng sv (tính theo %)
XS

2006-2007
2007-2008
2008-2009

4584
4562
4254

giỏi

khá

0.52
11.69
48.41
0.18
10.39
53.01
0.18

11.49
52.51
(Nguồn từ Phòng Đào tạo)

rèn luyện đạt loại xuất sắc duy trì ở tỷ lệ 2%, loại giỏi tăng dần từ 11% lên

TB khá

TB

25.28
21.30
16.88

1.29
1.52
0.54

Nhận xét: Đảng uỷ và Ban Giám hiệu luôn luôn trú trọng và đề cao cải
tiến chất lượng đào tạo, các đơn vị đào tạo đã có nhiều cố gắng chủ động triển

43

15%, loại khá giữ ở mức 55%- 56%; loại trung bình đạt trên 26%, trong khi tỷ
lệ yếu là không đáng kể, lần lượt đạt tỷ lệ 1% và 2%, không có sinh viên nào
đạt loại kém. Đây là một con số đáng mừng, nó chứng tỏ rằng ngoài kết quả
học tập được đánh giá là tương đối tốt thì sinh viên trường Đại học Ngoại
ngữ-ĐHQGHN không ngừng phấn đấu và rèn luyện vì ngày mai lập nghiệp.

44



Tuy nhiên, trong những năm học tiếp theo, Nhà trường phấn đấu không để

+ Khoa NN&VH Nga

sinh viên nào vi phạm quy chế rèn luyện, không có sinh viên bị đánh giá rèn luyện yếu.

+ Khoa NN&VH Pháp

2.1.4. Cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ

+ Khoa NN&VH Trung Quốc

Hiện nay, Nhà trường có cơ cấu tổ chức như sau:

+ Khoa NN&VH Phương Tây
+ Khoa NN&VH Phương Đông

- Ban Giám hiệu:
+ Hiệu trưởng

+ Khoa Tại chức

+ Phó Hiệu trưởng phụ trách Đào tạo và công tác HSSV

+ Trường PTTH chuyên Ngoại ngữ

+ Phó Hiệu trưởng phụ trách Nghiên cứu khoa học


- Các đoàn thể: Đảng uỷ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên.

+ Phó Hiệu trưởng phụ trách Cơ sở vật chất

- Đội ngũ cán bộ giảng dạy: hơn 700 cán bộ, giảng viên toàn trường trong
đó, 01 tiến sỹ khoa học; 61 tiến sỹ; 255 thạc sỹ, 19 Giáo sư, Phó Giáo sư.

- Các phòng ban chức năng:

Đội ngũ cán bộ và giảng viên của trường Đại học Ngoại ngữ được giáo

+ Phòng Tổ chức cán bộ
+ Phòng Đào tạo

dục, rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong kháng chiến và trong xây

+ Phòng Chính trị và Công tác HSSV

dựng chủ nghĩa xã hội, nên họ đều giữ được phẩm chất đạo đức nghề nghiệp

+ Phòng Hành chính Tổng hợp

của những người thầy, cô giáo xã hội chủ nghĩa, những người đi trước tận

+ Phòng Quản trị Bảo vệ

tâm, tận tuỵ với đàn em, với học trò, với sinh viên của mình. Họ luôn có lối

+ Phòng Hợp tác Quốc tế


sống lành mạnh, có ý thức bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, gương mẫu trong việc

+ Phòng Tài chính - Kế toán

chấp hành chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, giảng viên của trường

+ Phòng Thiết bị

cũng được quan tâm, đầu tư về thời gian và vật chất. Từ năm 2000

+ Phòng Khoa học - Công nghệ

đến nay nhà trường đã cử 200 lượt cán bộ đi học sau đại học, bồi

- Các trung tâm:
+ Trung tâm Nghiên cứu giáo dục ngoại ngữ và Kiểm định chất lượng

dưỡng chuyên môn sâu, trao đổi học thuật ở nước ngoài, cử 61 cán

+ Trung tâm Đào tạo từ xa và Bồi dưỡng giáo viên

bộ đi khảo sát, trao đổi và học tập kinh nghiệm về tổ chức, quản

+ Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy -

lý của các trường đại học trong và ngoài khu vực… Do thường

học ngoại ngữ


xuyên được tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ

- Các khoa đào tạo

nên chất lượng đội ngũ cán bộ giảng viên của trường ngày càng

+ Khoa Sư phạm tiếng Anh

được nâng cao, đáp ứng nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu khoa học

+ Khoa các nước nói tiếng Anh

của nhà trường.

+ Khoa Anh

45

46


Đây là thời kỳ cơ thể đã hoàn thiện và ổn định sau những biến đổi sâu

2.1.5. Đặc điểm của sinh viên:
Như đã trình bày ở chương 1, SV là những người học ở bậc cao đẳng,
đại học. Do vậy sinh viên có những đặc điểm chủ yếu sau:
- SV là một bộ phận trong thanh niên, đó là những thanh niên ưu tú, có
trình độ tri thức vượt trội, có vị thế và uy tín, được xã hội tôn vinh
- Là một lực lượng đông đảo, được quản lý có tổ chức, có vai trò và vị


sắc của tuổi dậy thì. Thời kỳ này các cơ quan trong cơ thể với các chức năng
của nó đã tương đối hoàn thiện và hài hoà. Đặc biệt là trọng lượng của não
của SV thời kỳ này đã đạt đến mức tối đa. Sự hoạt động của các tế bào thần
kinh trong não ở cũng trở nên hoàn hảo. Điều này tạo điều kiện hết sức thuận
lợi cho hoạt động nhận thức của SV.
- Về đặc điểm xã hội của SV

trí quan trọng ở các thành phố lớn. SV là nguồn chất xám quý giá, giữ vai trò

Đương nhiên SV vẫn là đối tượng đang còn được tiếp tục giáo dục

quan trọng trong sự phát triển của đất nước. SV là những trí thức tương lai

nhưng xã hội đang nhìn nhận họ như một chủ thể có ý thức, có trách nhiệm và

nên họ cũng có đặc điểm chung của trí thức thể hiện ở khả năng ham học hỏi,

đánh giá các hoạt động của họ theo tiêu chuẩn của “người lớn”. Họ vừa là một

và khả năng tiếp thu tri thức, khoa học mới, nhạy bén với các vấn đề chính trị,

công dân với đầy đủ tư cách pháp lý của nó, vừa là một sinh viên.

xã hội, công nghệ…

Nói chung, về mặt kinh tế, SV còn phụ thuôc gia đình, nhưng ngày nay,

- Môi trường học tập thay đổi: Khi ở gia đình và học ở trường phổ

trong điều kiện kinh tế thị trường, SV đã năng động hơn và có ý thức tự lo


thông, họ có sự giám sát, quản lý chặt chẽ của cha mẹ, thầy cô giáo. Nhưng

cuộc sống của mình, một số SV đã kiếm việc làm thêm để có thu nhập, giảm

đến đại học thì không còn khép kín như thế. Vì môi trường đại học, SV có

bớt gánh nặng về kinh tế cho gia đình, đồng thời chủ động hơn trong chi tiêu

tính chủ động cao, cùng với sự trưởng thành về xã hội, tâm - sinh lý; qua đó

và có điều kiện kinh tế để học thêm. Tuy nhiên, vì SV chính thức chưa trực

nhiều nhu cầu được khơi dậy và xuất hiện, phát triển theo hướng đa dạng,

tiếp tham gia lao động sản xuất, chưa độc lập về kinh tế, lại còn đang là đối

phong phú hơn như: nhu cầu tìm hiểu, mở rộng kiến thức tăng lên, nhu cầu

tượng của sự giáo dục nên một mặt nào đó họ còn chưa được coi là người lớn

đời sống vật chất và tinh thần, nhu cầu được học tập, tự do, tự đào tạo rèn

hoàn toàn.

luyện để bản thân tự khẳng định, hoàn thiện vị trí của mình.

- Về đặc điểm tâm lý của sinh viên:

- Ở độ tuổi thanh niên: Đây là giai đoạn tâm - sinh lý các em phát triển


+ Sự phát triển tự ý thức là một trong những đặc điểm tâm lý quan

mạnh nên đại bộ phận SV còn nông nổi, thiếu kinh nghiệm sống, tò mò…Do

trọng nhất ở SV. Tự ý thức và tự đánh giá của con người về hành động và kết

đó, SV đánh giá các hiện tượng đời sống xã hội một cách nông cạn nên dễ có

quả tác động của mình, đánh giá về tư tưởng, tình cảm, phong cách đạo đức

thái độ cực đoan. Nhận thức chưa đầy đủ, dễ bị kích động.. Đây là một trong

và hứng thú, về tư tưởng và động cơ của hành vi, là sự đánh giá toàn diện về

những nhược điểm mà nhà trường, các nhà giáo dục cần lưu ý để khắc phục

chính bản thân mình và vị trí của mình trong cuộc sống

và hướng các em đi đúng mục tiêu đào tạo.
- Về đặc điểm cơ thể của SV:

+ Sự hình thành và phát triển thế giới quan, niềm tin và nắm vững các
chuẩn giá trị, các yêu cầu của nghề nghiệp được thể hiện, bộc lộ rõ nét.

47

48



+ Sự xuất hiện và phát triển tình yêu nam nữ là nét đặc trưng về mặt
tình cảm ở lứa tuổi này.

Là một trường đại học đào tạo về ngoại ngữ với khối thi tuyển sinh là
khối D nên ngoại ngữ là môn học chính và cũng là niềm say mê, hứng thú của

- Về đặc điểm nhân cách của SV

sinh viên. Mỗi ngoại ngữ gắn liền với một đất nước, một nền văn hoá. Với

Đặc điểm nhân cách của SV được thể hiện rõ, gồm

đặc điểm của môn học là phải được thực hành trong môi trường giao tiếp (có

+ Nhu cầu phát triển của SV phong phú, đa dạng

thể trực tiếp hoặc gián tiếp) nên nhìn chung sinh viên trường Ngoại ngữ rất

+ Hứng thú của SV từ rộng đến chuyên sâu

bạo dạn xông xáo, cởi mở, thích các hoạt động tập thể và rất nhanh nhạy trong

+ Quan điểm sống của SV hình thành rõ nét

việc tiếp thu và nắm bắt những cái mới.

+ Đời sống nội tâm của SV phong phú và phức tạp.
Dưới góc độ nhà quản lý, cần phải đi sâu, đi sát để có thể nắm bắt
được tâm tư tình cảm của SV để có thể có những định hướng cho SV
Có thể nói, đây là giai đoạn mà nhân cách của SV đang được định hình.


Hơn nữa, do yếu tố giao thoa văn hoá nên sinh viên của trường có một
tính cách chung là thẳng thắn, mạnh bạo, dám nghĩ, dám làm và có một lối
sống khá tự do, phóng khoáng. Tính năng động cũng là một đặc điểm nổi trội
của sinh viên của trường.

Vì vậy, nhà trường, gia đình và xã hội phải có những biện pháp phù hợp để

2.2. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa NN&VH Nga

SV trở thành những nhân cách tốt.

trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN trước yêu cầu đào tạo theo học

Như vậy, một đặc điểm nổi bật của SV đó là đặc điểm về sự hình thành
và phát triển nhân cách. Sự phát triển nhân cách SV được thể hiện trong

chế tín chỉ.
2.2.1. Đặc điểm của sinh viên và đặc điểm đào tạo của khoa NN&VH Nga:

phương thức giáo dục đối với sinh viên biến quá trình đào tạo thành quá trình

- Đặc điểm của sinh viên khoa NN&VH Nga:

tự đào tạo. Vì sinh viên là bộ phận tinh tuý của thanh niên Việt Nam, được xã

Do những nguyên nhân khách quan, khá nhiều năm gần đây tình hình

hội tôn vinh, là “nguyên khí quốc gia”, là những hiền tài, những nhà trí thức


đào tạo tiếng Nga không được khả quan như trước, điều này ít nhiều làm ảnh

trẻ tương lai, có trình độ học vấn cao. Họ chính là nguồn cung cấp chất xám

hưởng đến số lượng và chất lượng sinh viên dự thi vào NN&VH Nga. Những

quý báu, bổ sung cho tầng lớp trí thức Việt Nam về số lượng và chất lượng tốt

sinh viên còn theo đuổi ngành ngôn ngữ và văn hoá Nga cũng có nhiều lý do

nhất để góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

khác nhau: Một số do bản thân họ có niềm say mê tiếng Nga, muốn tìm hiểu

Do đó, trong công tác giảng dạy và giáo dục, chúng ta phải biết khai

về con người và văn hoá của đất nước này; một số khác thi vào khoa Nga là

thác, sử dụng, phát huy những yếu tố tích cực cũng như thế mạnh, hạn chế

do lực học hạn chế do vậy họ chọn thi vào khoa Nga cho chắc chắn có một

những điểm yếu của sinh viên để đề ra mục tiêu, chương trình, kế hoạch, cách

chỗ đứng trong một trường đại học, hoặc thi vào khoa Nga để làm một bước

thức và nội dung hoạt động đào tạo giáo dục SV cho phù hợp. Qua đó giúp

đệm học thêm một ngành khác nữa. Hiện nay số lượng sinh viên học tiếng


cho nhân cách công dân - SV được bộc lộ và đi đúng hướng mà nhà trường và

Nga tại các trường đại học nói chung và học tại khoa NN&VH Nga thuộc

xã hội mong đợi.

trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN nói riêng giảm đi nhiều. Nhiều sinh

* Đặc điểm sinh viên trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN

viên thi đỗ vào khoa NN&VH Nga có tâm lý chán nản, thất vọng vì đang phải

49

50


×