Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận giáo dục công dân: Vận dụng phương pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 8 ở trường THCS.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.69 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ - GIÁO DỤC CÔNG DÂN

TIỂU LUẬN
Đề tài: Vận

dụng phương pháp dạy học bằng tình huống

nhằm Giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học
môn Giáo dục công dân lớp 8 ở trường THCS.

Người hướng dẫn: TS. Phạm Việt Thắng
Học viên: Trần Thị Nguyệt
Lớp: Bồi dưỡng kiến thức pháp luật K2A


Hà Tĩnh, năm 2015
A. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Xuất phát từ yêu cầu đổi mới chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung,
chất lượng giáo dục học sinh phổ thông nói riêng, nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước trong giai đoạn hiện nay.
2. Xuất phát từ tầm quan trọng của các bộ môn Giáo dục công dân nói
chung, mảng kiến thức giáo dục pháp luật nói riêng trong việc hình thành,
phát triển nhân cách, rèn giũa, định hướng, giáo dục hành vi đúng đắn cho
học sinh. Đặc biệt, trong điều kiện phát triển xã hội chủ yếu dựa trên nền
kinh tế tri thức, cộng với trình độ phát triển cao của hoạt động dạy học và
giáo dục trên thế giới thì việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực
(trong đó có phương pháp dạy học tình huống) là việc làm cần thiết đối với
giáo viên dạy môn Giáo dục công dân.
3. Xuất phát từ thực trạng dạy và học bộ môn Giáo dục công dân trong nhà


trường phổ thông hiện nay còn nhiều hạn chế về tất cả các mặt từ nội dung,
đến phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Giảng dạy môn Giáo dục
công dân trong nhà trường phổ thông những năm gần đây gặt hái được nhiều
thành công. Tuy nhiên, phương pháp dạy học ở nhiều nơi vẫn chủ yếu vẫn
được diễn ra theo lối truyền thống, dạy chay học chay, truyền thụ thụ động,
một chiều, thầy giảng, trò ghi chép.
4. Phương pháp nghiên cứu tình huống (PPNCTH) là một phương pháp dạy
học tích cực với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại

2


hiệu quả cao, làm tăng tính thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình
thành năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn, làm tăng hứng thú học tập
của học sinh,… Giáo dục công dân là môn học có ý nghĩa cao trong việc
hình thành và hoàn thiện nhân cách học sinh. Việc áp dụng phương pháp dạy
học tình huống vào giảng dạy môn GDCD là cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn: “Vận

dụng phương

pháp dạy học bằng tình huống nhằm Giáo dục pháp luật
cho học sinh THCS qua dạy học môn Giáo dục công
dân” làm tiểu luận khoa học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Trên cơ sở tìm hiểu cơ sở lý luận liên quan đến phương pháp nghiên
cứu tình huống và những đặc thù của môn Giáo dục công dân, đề tài đi sâu
nghiên cứu việc áp dụng phương pháp này trong dạy học mảng kiến thức
pháp luật thuộc môn Giáo dục công dân với mục đích góp phần hình thành

và phát triển năng lực thực tiễn, thái độ, hành vi đúng đắn cho học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG
Phương pháp dạy học tình huống trong môn Giáo dục công dân tại
trường THCS.
IV. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

3


Nếu áp dụng PPNCTH vào giảng dạy mảng kiến thức pháp luật ở môn
Giáo dục công dân theo qui trình hợp lý, khoa học sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dạy học môn Giáo dục công dân.
V. NHIỆM VỤ VÀ GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Điều tra thực trạng việc dạy và học môn GDCD tại trường THCS Xuân
Lĩnh
- Nghiên cứu, tổng hợp và khái quát hóa các cơ sở lý luận của đề tài
- Nghiên cứu hiệu quả của việc áp dụng PPNCTH vào dạy học môn Giáo
dục công dân ở trường THCS Xuân Lĩnh
- Xây dựng tuyển tập hệ thống bài tập tình huống trong dạy học môn Giáo
dục công dân
2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: Những năm gần đây
- Không gian: Tại trường THCS Xuân Lĩnh
- Nội dung: nghiên cứu phương pháp dạy học tình huống và áp dụng vào
thực tiễn giảng dạy môn GDCD hiện nay.
VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc sách, nghiên cứu tài liệu và
tổng kết lý thuyết.
4



6.2 Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thực nghiệm, khảo sát
điều tra, đo đạc xử lý kết quả bằng thống kê toán học và các phương pháp
khác như phỏng vấn sâu, tổng kết kinh nghiệm, quan sát, lịch sử, logic.
VII. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
7.1 Đề tài nghiên cứu tổng kết, hệ thống hóa các cơ sở lý luận, các quan
điểm về PPNCTH trong dạy học.
7.2. Bước đầu vận dụng và rút ra kinh nghiệm cho công việc giảng dạy của
giáo viên GDCD
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BẰNG TÌNH HUỐNG NHẰM GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD
1.1 Cơ sở lý luận của việc sử dụng phương pháp dạy học bằng tình
huống trong dạy học môn GDCD ở trường Trung học cơ sở.
1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.1.1. Quan niệm về phương pháp dạy học
Trong các tác phẩm về lý luận dạy học, ta có thể tìm thấy nhiều định
nghĩa về phương pháp dạy học như:
Phương pháp dạy học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự
phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo của thầy, nhằm làm cho trò tự giác,
tích cực, tự lực đạt tới mục đích dạy học .
Bất cứ phương pháp nào cũng là hệ thống những hành động có mục
đích của giáo viên, là hoạt động nhận thức và thực hành có tổ chức của học
sinh nhằm đảm bảo cho trò lĩnh hội được nội dung trí dục.

5



Phương pháp dạy học đòi hỏi có sự tương tác tất yếu của thầy và trò,
trong quá trình đó thầy tổ chức sự tác động của trò đến đối tượng nghiên
cứu, mà kết quả là trò lĩnh hội được nội dung trí dục.
Những định nghĩa này đã nêu lên được một cách khái quát về phương
pháp dạy học. Qua quá trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ta thấy
rằng giữa dạy và học có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và phương pháp
học, chúng là hai hoạt động khác nhau về đối tượng, nhưng thống nhất với
nhau về mục đích, tác động qua lại với nhau và là hai mặt của một quá trình
dạy học. Trong sự thống nhất này phương pháp dạy giữ vai trò chỉ đạo, còn
phương pháp học có tính độc lập tương đối, chịu sự chi phối của phương
pháp dạy, nhưng phương pháp học có ảnh hưởng trở lại đối với phương pháp
dạy.
Phương pháp dạy có hai chức năng là truyền đạt và chỉ đạo. Phương
pháp học cũng có hai chức năng là tiếp thu và tự chỉ đạo.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý,
và bằng lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn
và kiểm tra, đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy,
hai chức năng này gắn bó hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau
được. Trong thực tiễn, nhiều giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi
nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải kết hợp hai chức năng trên đây bằng
chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của bài giảng, thầy vừa giảng vừa
truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu ban đầu và cả việc tự học
của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình cơ bản cho
phương pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại
vừa phải tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học
6



sinh phải tiếp thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ
lôgic bài giảng của thầy mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân ( tự định
hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm tra - đánh giá ). Người học sinh giỏi
thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của bài giảng của thầy, rồi
tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong phương pháp
học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm
nhập vào nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động.
Dạy tốt, học tốt, xét về mặt phương pháp phải là sự thống nhất của
dạy với học, và đồng thời cũng là sự thống nhất của hai chức năng riêng của
mỗi hoạt động truyền đạt và chỉ đạo trong dạy; tiếp thu và tự chỉ đạo trong
học. Nói cách khác, dạy học tối ưu phải là sự dạy học mà trong đó, về mặt
phương pháp, bảo đảm được cùng một lúc ba phép biện chứng:
Giữa dạy và học.
Giữa truyền đạt và chỉ đạo trong dạy.
Giữa tiếp thu và tự chỉ đạo trong học.
Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương
pháp học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi
chép và sơ bộ nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin,
biến nó thành học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư
duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.

7


Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của

nó là vận dụng kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận
thức.
Trong quá trình dạy và quá trình học thì quá trình dạy có vai trò chỉ
đạo trong cả ba giai đoạn của quá trình học, quá trình dạy hợp lý thì quá
trình học sẽ đạt kết quả cao.
1.1.1.2. Quan niệm về tình huống và phương pháp dạy học bằng tình huống
* Quan niệm tình huống:
“Tình huống là một hoàn cảnh thực tế, trong đó chứa đựng những mâu
thuẫn xung đột. Người ta phải đưa ra một quyết định trên cơ sở cân nhắc các
phương án giải quyết khác nhau. Tình huống cũng có thể là một hoàn cảnh
gắn với câu chuyện có cốt truyện, nhân vật, có chứa đựng xung đột, có tính
phức hợp được viết ra để minh chứng một vấn đề hay một số vấn đề của
cuộc sống thực tế. Tình huống dạy học là những tình huống thực hoặc mô
phỏng theo tình huồng thực, được cấu trúc hóa nhằm mục đích dạy học”.
Tình huống bao giờ cũng là tình huống có vấn đề.
“Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan
của bài toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và
có thể giải quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn
đề học tập là những tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu
thuẫn biện chứng giữa cái (kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải
tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải được giải quyết”.
“Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất hiện
khi anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế,
khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình
huống này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới.
Tình huống có vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu
8


quả. Nó quy định sự khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn

ra trong quá trình nêu ra và giải quyết vấn đề”.
Xét về khía cạnh tâm lý thì: “Tình huống là trạng thái tâm lý độc đáo
của con người gặp chướng ngại nhận thức, xuất hiện mâu thuẫn nội tâm, có
nhu cầu giải quyết mâu thuẫn đó, không phải bằng tái hiện hay bắt chước,
mà bằng tìm tòi sáng tạo tích cực đầy hứng thú, và khi tới đích thì lĩnh hội
được kiến thức, phương pháp giành kiến thức và cả niềm vui sướng của
người phát hiện kiến thức”.
Qua một số định nghĩa ta có thể hiểu tình huống có vấn đề trong dạy
học là: tình huống học tập mà khi học sinh tham gia thì gặp một số khó
khăn, học sinh ý thức được vấn đề, mong muốn giải quyết vấn đề đó và cảm
thấy với khả năng của mình thì hy vọng có thể giải quyết được, do đó bắt tay
vào việc giải quyết vấn đề đó. Nghĩa là tình huống đó kích thích hoạt động
nhận thức tích cực của học sinh, đề xuất vấn đề và giải quyết vấn đề đã đề
xuất.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một
nhiệm vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của
việc nghiên cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận
thức mới hoặc phương thức hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực.
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những
lúng túng về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó
thì những tri thức và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất

9


nhiên việc giải quyết vấn đề không đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có

của học sinh.
* Quan niệm về phương pháp dạy học bằng tình huống
Phương pháp dạy học bằng tình huống là phương pháp dạy học mà
trong đó giáo viên đặt học sinh vào một trạng thái tâm lý đặc biệt khi họ gặp
mâu thuẫn khách quan của bài toán nhận thức giữa cái đã biết và cái phải
tìm, tự họ chấp nhận và có nhu cầu, có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó là
bằng tìm tòi, tích cực, sáng tạo, kết quả là họ giành được kiến thức và cả
phương pháp giành kiến thức .
Với phương pháp này giáo viên đặt trước học sinh một vấn đề sau đó
cho các em thấy rõ lợi ích về mặt nhận thức hay mặt thực tế của việc giải
quyết nó nhưng đồng thời cảm thấy có một số khó khăn về mặt trí tuệ do
thiếu kiến thức cần thiết nhưng thiếu sót này có thể khắc phục nhờ một số nỗ
lực của nhận thức.
Dạy học bằng tình huống có những đặc điểm sau:
Giáo viên phải tạo ra được mâu thuẫn nhận thức, có điều học sinh
chưa biết cần tìm hiểu, việc đi tìm lời giải đáp chính là đi tìm kiến thức, kỹ
năng, phương pháp mới.
Giáo viên gây được sự chú ý ban đầu, từ đó kích thích sự hứng thú tạo
nên nhu cầu nhận thức, khởi động tiến trình nhận thức của học sinh. Học
sinh chấp nhận mâu thuẫn khách quan thành mâu thuẫn chủ quan.
Tình huống và vấn đề nêu ra phải rõ ràng, phù hợp với khả năng của
học sinh. Từ những điều quen thuộc, bình thường đã biết phải đi đến cái mới
(mục đích cần đạt được) học sinh cảm thấy có khả năng giải quyết được vấn
đề.
Dạy học bằng tình huống là một trong những yêu cầu quan trọng của
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, dạy học bằng tình huống là một
10


trong những phương pháp dạy học hiện đại, hay phương pháp dạy học tích

cực.
Giảng dạy theo phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức
rộng cả về lý luận và thực tiễn. Nếu chỉ có kiến thức lý luận lý thuyết thì
giáo viên không đưa ra được những tình huống, hoặc có đưa ra thì cũng
không đúng với nội dung hoặc không sát thực tế. Từ đó làm cho người học
không định hướng được cách giải quyết tình huống, hoặc giải quyết sai.
1.1.2. Ưu điểm và hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
1.1.2.1. Ưu điểm của phương pháp dạy học bằng tình huống
Với tư cách là một phương pháp giảng dạy tích cực, lấy người học
làm trung tâm, dạy học bằng tình huống có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ
hiểu và dễ nhớ các vấn đề phức tạp’’. Thông qua các tình huống được phân
tích, thảo luận, người học có thể tự rút ra những kiến thức lý luận bổ ích và
ghi nhớ những kiến thức này một cách dễ dàng trong thời gian dài. Nếu học
lý thuyết, người học có thể rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết
mà không hiểu nên rất mau quên thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp
người học hiểu được vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với quá trình giải
quyết tình huống đó.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng
cao khả năng tư duy độc lập, sáng tạo”. Nếu trong phương pháp dạy học
truyền thống, quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra gần như một chiều giữa
giáo viên và học sinh, trong đó giáo viên là người truyền đạt tri thức và học
sinh là người tiếp nhận tri thức đó thì phương pháp dạy học bằng tình huống
tạo ra một môi trường học tích cực có sự tương tác giữa học sinh và giáo
viên, giữa các học sinh với nhau. Trong đó, học sinh được đặt vào trong một
hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết tình huống và họ phải
11


dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập luận bảo vệ

quan điểm đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của giáo
viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án
giải quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người
học có thể chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau; học được những ý kiến,
quan điểm, thông tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức
của họ.
Thứ ba: “Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để
liên kết, vận dụng các kiến thức đã học được”. Để giải quyết một tình huống,
học viên có thể phải vận dụng đến nhiều kiến thức lý thuyết khác nhau trong
cùng một môn học hoặc của nhiều môn học khác nhau.
Thứ tư: “Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình
huống giúp người học có thể phát hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra
nhưng bản thân chưa đủ kiến thức giải quyết”. Cuộc sống vốn đa dạng và
phong phú nên không loại trừ khả năng phát sinh những tình huống mà
người học và thậm chí cả người dạy chưa gặp bao giờ. Trong tình huống
này, người dạy phải định hướng và khơi gợi khả năng tư duy độc lập, sáng
tạo của người học được vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng
người học sẽ tìm ra được những các lý giải mới làm bổ sung thêm kiến thức
cho cả người học lẫn người dạy.
Thứ năm: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học
có thể rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh
luận và thuyết trình”. Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học
có thể thành công trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ
dàng nhận ra những ưu điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi
trường thuận lợi để so sánh với các học viên khác trong quá trình giải quyết
tình huống. Từ đó họ sẽ có cơ hội học hỏi kỹ năng làm việc nhóm, tranh
12


luận và thuyết trình từ những học viên khác. Phương pháp học bằng tình

huống cũng giúp người học phát triển các kỹ năng phát biểu trước đám đông
một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu; phân tích vấn đề một cách lôgic;
hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết để giải quyết các
tình huống thực tế; biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân, đồng thời có
khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết lắng
nghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến
thức của mình.
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy
kiến thức, kỹ năng và thái độ thì phương pháp dạy học bằng tình huống nếu
được áp dụng tốt có thể đạt được cả ba mục tiêu này.
Thứ sáu: “Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có
khả năng nghiên cứu và học tập suốt đời, tăng cường khả năng tự định
hướng trong học tập của học sinh, phù hợp với nhu cầu và sở thích của cá
nhân người học”. Thông qua việc phân tích và thảo luận vấn đề, học sinh
học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương
lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có thể tự định hướng học
tập và nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
Thứ bảy: “Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng
thú của phần lớn học sinh đối với môn học”. Trong phương pháp học bằng
tình huống, học sinh là người chủ động tìm kiếm tri thức và quyết định kiến
thức nào cần được nghiên cứu và học hỏi. Việc thảo luận cũng làm tăng
hứng thú của học sinh đối với việc học vì nó kích thích người học tham gia
tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra giải pháp, tranh
luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Sau khi thảo
luận, học sinh vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả lời
những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận.
13


Cuối cùng: Giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học

bằng tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học
sinh, đồng thời họ cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin,
giải pháp mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài
giảng của mình, nhất là từ những học sinh có tư duy nhanh nhẹn sáng tạo.
Qua quá trình hướng dẫn học sinh nghiên cứu tình huống, giáo viên cũng có
thể phát hiện ra những điểm bất hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có
những điều chỉnh nội dung tình huống sao cho phù hợp.
1.1.2.2. Hạn chế của phương pháp dạy học bằng tình huống
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên, phương pháp dạy và học bằng tình
huống còn có một số điểm hạn chế nhất định.
Thứ nhất: “Đối với các môn học là ngành khoa học xã hội, khi giảng
dạy bằng tình huống, các vấn đề xã hội thường được giải thích theo nhiều
quan điểm khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, quan niệm sống, vào vốn
kiến thức xã hội và kinh nghiệm của người học. Vì vậy, đôi khi cuộc thảo
luận về tình huống sẽ không hướng theo con đường và dẫn đến một kết cục
như người soạn thảo tình huống mong muốn, nhất là trong những lớp học
mà học viên đa dạng về trình độ và đến từ những vùng miền khác nhau, và
giáo viên không có kinh nghiệp trong việc điều phối, dẫn dắt cuộc thảo luận”.
Thứ hai: “Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi tinh thần tự
học, thái độ làm việc nghiêm túc và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, năng
động. Tuy nhiên, hiện nay có khá nhiều học sinh không quen với phương
pháp học bằng tình huống, họ không có kỹ năng làm việc nhóm, thụ động, ỷ
lại, không hợp tác từ đó làm giảm hiệu quả của phương pháp dạy học bằng
tình huống”.
Thứ ba: “Phương pháp dạy học bằng tình huống tốn nhiều thời gian
của người học”. Trong phương pháp học truyền thống, trong một khoảng
14


thời gian nhất định, giáo viên có thể cung cấp một lượng kiến thức tương đối

hoàn chỉnh, hệ thống, logic cho học sinh. Cùng lượng kiến thức đó, trong
phương pháp học bằng tình huống, học sinh phải tự mình tìm kiếm và đọc
tài liệu, xử lý thông tin nên sẽ tốn thời gian hơn gấp nhiều lần so với phương
pháp học truyền thống. Phương pháp dạy học bằng tình huống đòi hỏi giảng
viên phải là người tích cực, luôn đổi mới, cập nhật thông tin, kiến thức và kỹ
năng mới. Trong xã hội hiện đại, các điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
và pháp luật thay đổi một cách nhanh chóng nên “tuổi thọ” của một tình
huống rất ngắn. Có khi giảng viên mới xây dựng xong một tình huống, giảng
dạy được một lần đã phải thay đổi cho phù hợp.
Có ý kiến cho rằng dạy học bằng tình huống là cách để thầy “nghỉ
ngơi” vì trong khi người học phải làm việc, người dạy không có việc gì để
làm. Đây là một ý kiến sai lầm vì phương pháp dạy học bằng tình huống đòi
hỏi những kỹ năng phức tạp hơn trong giảng dạy, như cách tổ chức lớp học,
bố trí thời lượng, đặt câu hỏi, tổ chức và khuyến khích người học thảo luận,
dẫn dắt mạch thảo luận, nhận xét, phản biện… Đây thật sự là những thách
thức lớn đối với giáo viên trong quá trình ứng dụng phương pháp này.
1.1.3. Các loại tình huống và cách thức xây dựng một tình huống
1.1.3.1. Các loại tình huống dạy học
Áp dụng phương pháp dạy học bằng tình huống cho phép giáo viên sử
dụng tình huống một cách rất linh hoạt. Tình huống có thể được dùng trong
quá trình thuyết giảng hay để phục vụ giờ thảo luận như là trọng tâm của bài
học. Tùy thuộc vào từng bối cảnh sử dụng, có thể chia tình huống theo mức
độ phức tạp của nó thành những loại như sau:
Loại 1 – Tình huống đơn giản: “Loại này bao gồm các tình huống
dưới dạng các ví dụ minh họa với tình tiết đơn giản. Độ dài của các tình
huống này thường chỉ khoảng 4 - 5 câu. Các tình huống đơn giản có thể
15


dùng ngay trong bài thuyết giảng của giáo viên nhằm hai mục đích: (1) minh

họa cho kiến thức mà giáo viên vừa giảng và (2) kích thích học sinh tư duy
tại chỗ và dẫn dắt sang nội dung kiến thức tiếp theo”.
Loại 2 – Tình huống phức tạp: “Loại này bao gồm các tình huống
phức tạp hơn Loại 1 sử dụng với mục đích buộc học sinh chuẩn bị bài trước
khi lên lớp giờ thuyết giảng. Các tình huống phức tạp cần đủ dài vài bao
gồm một hoặc một số vấn đề nhằm gợi mở kiến thức bắt đầu giờ thuyết
giảng của một bài học mới. Các tình huống này cần được giao trước cho học
sinh cùng với tài liệu hướng dẫn để học sinh đọc. Các tình huống không cần
quá khó mà chỉ cần đủ để định hướng cho học sinh nghiên cứu và ghi nhớ
những khái niệm khởi đầu của bài học”.
Loại 3 – Tình huống đầy đủ: “Loại này bao gồm các tình huống phức
tạp nhất và được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất. Mục đích của loại tình huống này
là để học sinh áp dụng các kiến thức đã học qua giờ thuyết giảng vào giải
quyết các vụ việc trong thực tiễn và qua đó học thêm kiến thức mới. Loại
tình huống này yêu cầu học sinh không những phải nghiên cứu tài liệu được
giao mà còn phải thực hiện các bước chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên.
Phương pháp nêu vấn đề sẽ hỗ trợ để giải quyết tình huống, trong đó học
sinh là người làm việc chính và giáo viên là người hướng dẫn cho học sinh.
Về nội dung, tình huống này có độ phức tạp cao nhất. Nó thường bao gồm ít
nhất ba vấn đề xuyên suốt trong một hay nhiều bài học và do đó yêu cầu về
sự chuẩn bị của cả học sinh và giáo viên cũng ở mức độ cao nhất”.
Ngoài ba loại tình huống này ta cũng có thể phân chia các tình huống
theo độ mở của vấn đề trong tình huống. Theo cách phân loại này, giáo viên
có thể xây dựng các tình huống mở và các tình huống đóng. Tình huống mở
là các vụ việc mà trong đó lời giải để ngỏ hoặc có nhiều cách giải khác nhau.
Loại tình huống này rất tốt trong việc kích thích khả năng tư duy và rèn
16


luyện kỹ năng cho học sinh. Khi học sinh xử lý các tình huống thuộc loại

này, vấn đề mấu chốt không phải là bản thân kết luận mà là cách thức để đi
đến kết luận đó. Ngược lại, tình huống đóng là các tình huống dẫn tới một
kết quả cố định. Học sinh vẫn có thể chủ động xử lý tình huống xong giáo
viên sẽ định hướng cho học sinh tới kiến thức chính thống. Loại tình huống
này rất tốt để giáo viên bổ sung thêm cho học sinh kiến thức nội dung.
1.1.3.2. Cách thức xây dựng một tình huống dạy học
Đối với giáo viên tình huống được xây dựng nên là đề giải quyết một
vấn đề nào đó và qua quá trình đó giúp học sinh tiếp thu kiến thức. Vì vậy,
quy trình xây dựng bài tập tình huống của giáo viên thường đi theo chiều
ngược lại với quy trình giải quyết bài tập tình huống của học sinh. Quy trình
này có thể được mô tả bằng các bước sau:
Bước 1 - Xác định kiến thức cần truyền đạt.
Bước 2 - Hình thành vấn đề.
Bước 3 – Hình thành tiểu vấn đề.
Bước 4 – Xây dựng tình tiết sự kiện của tình huống.
“Việc xây dựng tình huống luôn bắt đầu từ nội dung kiến thức cần
truyền đạt tới học sinh. Nội dung kiến thức này có thể là một khái niệm nào
đó giáo viên muốn học sinh nắm bắt được và phân biệt được với những khái
niệm khác hay cũng có thể là một nguyên tắc ứng xử nào đó mà giáo viên
muốn học sinh hiểu và áp dụng được vào thực tiễn. Dựa trên những kiến
thức này, giáo viên xây dựng nên những vấn đề mà thông thường chính là
những câu hỏi xuất phát từ bản thân kiến thức cần học sinh tiếp thu. Việc
giải quyết vấn đề này có thể đòi hỏi trước tiên phải giải quyết một số vấn đề
nhỏ khác và nếu vậy những vấn đề nhỏ cũng phải được xác định. Trên cơ sở
các vấn đề và tiểu vấn đề, giáo viên sẽ xây dựng các tình tiết sự kiện để hình
thành một tình huống hoàn chỉnh. Ở bước cuối cùng này, giáo viên có thể có
17


hai cách để xây dựng tình tiết sự kiện. Thứ nhất, giáo viên có thể dựa trên

những vụ việc đã xảy ra và đã được giải quyết một cách sáng tạo. Nếu có
những vụ việc liên quan tới những nội dung kiến thức mà giáo viên đang
muốn học sinh tìm hiểu thì giáo viên có thể lấy tình tiết của vụ việc đó rồi
điều chỉnh tình tiết sự kiện cho phù hợp với yêu cầu của mình. Thứ hai, nếu
không tìm được vụ việc thực tế thì giáo viên có thể tự xây dựng nên một tình
huống giả định. Trong trường hợp này các tiêu chuẩn của một tình huống tốt
như phân tích trên đây phải được tuân thủ”.
Việc xây dựng được tình huống tốt là một công đoạn quan trọng trong
quá trình dạy học bằng tình huống .
1.2 Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học
môn GDCD lớp 8 ở trường Trung học cơ sở.
1.2.1 Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Ở địa bµn bản thân công tác là vùng nông thôn, miền núi còn gặp nhiều
khó khăn, các em chưa có điều kiện để giao lưu, học hỏi nhiều, đặc biệt các
thông tin về kiến thức pháp luật. Bởi thế các em còn rụt rè trong giao tiếp,
lúng túng trong việc xử lý những vấn đề liên quan đến pháp luật. Do đó có
những tình huống xẩy ra mà các em không lường trước được hậu quả của
nó. Đó chính là các em đang thiếu những kiến thức cơ bản về pháp luật.
Bên cạnh đó cơ sở vật chất còn thiếu thốn, tài liệu tham khảo còn hạn
chế, đặc biệt thiếu những tài liệu về kiến thức pháp luật. Mặt khác bộ môn
Giáo dục công dân lâu nay còn xem là môn phụ nên thường giáo viên dạy
trái cua, không được đào tạo bài bản nên dẫn đến sự lệch lạc trong việc dạy,
học . Đặc biệt kiến thức còn chung chung xa rời thực tế, học chưa đi đôi với
hành, học sinh chưa biết vận dụng kiến thức đã học vào trong thực tế một
cách thiết thực.
Với đối tượng học sinh THCS có độ tuổi 11 đến 15. Đây là lứa tuổi
phát triển mạnh mẽ về thể chất lẫn tinh thần, bởi vậy thường khó bảo, dễ xúc
động. Chính vì thế mà các em dễ bị ảnh hưởng môi trường xung quanh, biến
những cái xung quanh thành thói quen và hành vi của mình. Vì vậy người
giáo viên bên cạnh là người truyền đạt tri thức còn là người dâi theo hµnh vi,

viÖc lµm cña c¸c em ®Ó trùc tiÕp uèn n¾n, h×nh thµnh những quy tắc xử sự
cho các em.

18


Nắm bắt đợc các đặc tớnh ca cỏc em để thiết kế một giáo án phù
hợp với đối tợng bin nhng ni dung trong tit hc thành kĩ năng kĩ xảo
và có thể vận dụng vào thực tế cuộc sống trong những tình huống nhất định
để các em chuẩn bị hành trang bớc vào đời một cách vững vàng .
1.2.2 Thc trng ca vic s dng cỏc PPDH bng tỡnh hung nhm giỏo
dc phỏp lut cho hc sinh trong dy hc mụn GDCD trng Trung
hc c s.
1.2.3 Nhng thnh cụng v hn ch:
1.2.3.1 Nhng thnh cụng:
Vic s dng cỏc PPDH bng tỡnh hung nhm giỏo dc phỏp lut cho
hc sinh trong dy hc mụn GDCD trng THCS núi riờng ó cú nhng
thnh cụng nht nh. Chỳng ta bit rng PPDH bng tỡnh hung cũn gi l
phng phỏp gii quyt vn . Thng l xem xột, phõn tớch nhng vn ,
tỡnh hung c th thng gp phi trong i sng hng ngy v xỏc nh
cỏch gii quyt, x lớ vn , tỡnh hung ú mt cỏch hiu qu.
i tng l la tui thanh thiu niờn- la tui cú nhng bin i
mnh v c th cht v tõm lớ, luụn phi i mt vi nhng khú khn, thỏch
thc, vi nhng vn , nhng tỡnh hung a dng trong cuc sng. Phng
phỏp ny bc u giỳp hc sinh bit cỏnh gii quyt tớch cc, hiu qu i
vi nhng khú khn, thỏch thc ca cuc sng cú mt cuc sng an ton,
lnh mnh.
Mt khỏc cỏc em cú hng thỳ v thớch hc vi phng phỏp ny bi
gn vi nhng vn thc t nờn d nh v cú th vn dng vo cuc sng
thit thc v cú hiu qu.

1.2.3.2 Nhng hn ch:
S dng PPDH bng tỡnh hung cũn mt nhiu thi gian. Cỏc tỡnh
hung a ra cũn di nờn cỏc em nm bt chm nờn vic x lớ tỡnh hung
mt nhiu thi gian. Bi vy khi s dng PPDH bng tỡnh hung giỏo viờn
cn lu ý:
- Tỡnh hung a ra phi phự hp vi ch phỏp lut trong bi hc
- Phự hp vi trỡnh nhn thc hc sinh
- Tỡnh hung phi gn gi vi cuc sng hc sinh d hỡnh dung
- Tỡnh hung ngn gn, d hiu nhng phi cha ng nhng mõu
thun cn gii quyt, gi ra cho hc sinh nhng suy ngh gii quyt liờn quan
n ni dung bi hc.
1.2.3.3 Nguyờn nhõn:

19


Về phía người dạy phải tìm hiểu và lựa chọn tình huống cho phù hợp
với bài học, đối tượng. Tình huống trong SGK còn dài nên giáo viên phải
sưu tầm hoặc suy nghĩ tình huống giả định.
Về phía người học, các em giải quyết tình huống còn chậm, nhiều em
lười suy nghĩ nên giờ học nhiều lúc chưa sôi nổi. Đặc biệt nhiều em chưa
biết liên tưởng lồng tình huống đó vào nội dung bài học.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Chương I đã đi sâu phân tích các nội dung cơ bản làm cơ sở lý
luận cho đề tài nghiên cứu như trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu
vấn đề trên thế giới và Việt Nam, giải thích những khái niệm cơ bản liên
quan đến đề tài. Đặc biệt các nội dung liên quan đến PPNCTH trong dạy học
như khái niệm, cấu trúc tiến trình thực hiện, ưu nhược điểm của phương
pháp và khả năng vận dụng vào giảng dạy môn Giáo dục công dân trong các
nhà trường phổ THCS nói riêng.

Tóm lại, phương pháp dạy học tình huống là phương pháp đưa
người học lên chiếm giữ vị trí trung tâm của buổi học. Chính vì thế mà
không phải tình huống, không phải giáo viên mà chính mỗi cá nhân sẽ là
nhân tố quan trọng nhất quyết định yếu tố thành công của phương pháp dạy
học tình huống hiện nay.
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN
GDCD NHẰM GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG
TRUNG HỌC CƠ SỞ.
1.Tiến trình thực hiện.
Đối với học sinh lớp 8 chủ đề pháp luật rất thiết thực và gần gũi với
các em. Đây cũng là vấn đề bức thiết của xã hội hiện nay nói chung và ở địa
bàn Hà Tĩnh nói riêng. Đó là giáo dục cho các em có nghĩa vụ tôn trọng, bảo
vệ tài sản Nhà nước và lợi ích công cộng. Chẳng hạn khi dạy bài 17: GDCD
lớp 8 : “Nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ tài sản Nhà nước và lợi ích công cộng”,
tôi đã tiến hành như sau:

20


GV giới thiệu bài
- GV nêu tình huống: Ông A đào móng làm nhà và đã đào được một hiện
vật thuộc đồ cổ. Theo em, hiện vật là đồ cổ đó thuộc quyền sở hữu của ai?
Nếu là ông A em sẽ làm như thế nào? Vì sao?
- HS giải quyết tình huống.
GV dẫn dắt vào bài: Hiện vật thuộc đồ cổ này thuộc sở hữu của Nhà nước.
Và để hiểu hơn về những tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, chúng ta tìm
hiểu bài học hôm nay.
Hoạt động 1: Tìm hiểu phần đặt vấn đề.
- GV nêu tình huống: Trên đường đến trường, Lan thấy một người đang
đốt rừng làm rẫy. Đến lớp, Lan kể cho các bạn nghe. Có bạn đã trách Lan

thiếu tinh thần trách nhiệm, không biết bảo vệ rừng- tài sản quý của Nhà
nước. Nhưng Lan nghĩ đấy là trách nhiệm của những người được giao quản
lí tài sản và các cấp chính quyền; chỉ các cán bộ kiểm lâm hoặc Ủy ban nhân
dân mới có quyền can thiệp và xử lí những việc đó.
- HS thảo luận theo nhóm với các câu hỏi sau: ( Gv chia lớp thành 4
nhóm)
1, Ý kiến của các bạn đúng hay ý kiến của Lan đúng? Vì sao?
2, Nếu là Lan, em xử lí như thế nào?
3, Qua tình huống trên, em rút ra bài học gì?

21


Sau khi thảo luận xong, GV yêu cầu đại diện từng nhóm trình bày. Sau đó
GV nhận xét và chốt vấn đề:
- Ý kiến của Lan là đúng vì rừng là tài sản quốc gia, Nhà nước giao cho
kiểm lâm, ủy ban nhân dân quản lí.
- Em sẽ báo với cơ quan có thẩm quyền can thiệp.
- Phải có trách nhiệm với tài sản Nhà nước.
Từ đó GV nêu câu hỏi: Em hãy kể tên một số tài sản nhà nước và những
công trình công cộng mà em biết?
HS suy nghĩ trả lời.
Tài sản nhà nước: đất đai, rừng núi, …
Công trình công cộng: đường sá, cầu cống…
GV nhận xét và khẳng định: Những tài sản và công trình công cộng trên là
tài sản thuộc quyền sở hữu của nhà nước.
Từ đó Gv chuyển sang nội dung bài học.
Hoạt động 2: Nội dung bài học
Từ tình huống trên học sinh rút ra:
1) Khái niệm tài sản nhà nước.

2) Lợi ích công cộng.

22


Khi tìm hiểu nghĩa vụ của công dân đối với tài sản nhà nước và lợi ích
công cộng, GV cho HS hiểu được nghĩa vụ tôn trọng bảo vệ tài sản nhà
nước, trong đó có nghĩa vụ tôn trọng bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên
nhiên.
Để lồng nội dung này GV có thể đưa ra tình huống:
TH 1: Trên đường đi học về, Hoàng phát hiện thấy có mấy người đang chặt
trộm gỗ trong rừng. Thấy vậy họ liền đe dọa Hoàng không được nói cho ai
biết điều nầy, nếu ai biết sẽ đánh Hoàng.
Trong trường hợp này, theo em Hoàng nên làm gì ? Vì sao?
-HS thảo luận theo nhóm
-Đại diện các nhóm trình bày
- GV nhận xét và rút ra kết luận từ tình huống trên: Công dân có nghiã vụ
tôn trọng và bảo vệ tài sản nhà nước và lợi ích công cộng. Khi các tài sản
của nhà nước và lợi ích công cộng bị đe dọa, chúng ta phải có hành động
phù hợp để bảo vệ hoặc tìm cách báo ngay cho cơ quan chức năng.
Từ những tình huống trên HS rút ra nội dung bài học và từ đó các em
có thể liên hệ và vận dụng những kiên thức đó vào trong cuộc sống một cách
dễ dàng và có hiệu quả.
Khi tìm hiểu về trách nhiệm của HS trong việc bảo vệ tài sản nhà
nước và lợi ích công cộng. GV có thể nêu tình huống: Trong giờ giải lao 1
buổi lao động, Trung và Dũng đã đùa nghịch và vô ý làm gãy bàn giáo viên.

23



Vậy theo em Trung và Dũng đã có vi phạm gì? Nhà trường sẽ xử lí như thế
nào?
Từ đó GV cho HS thấy được trách nhiệm của công dân:
- Có ý thức bảo vệ tài sản, lợi ích công cộng.
- Tuyên truyền giáo dục, thực hiện quy định của pháp luật.
- Đấu tranh với những hành vi xâm phạm đối với tài sản nhà nước và lợi ích
công cộng.
Hoạt động 3: GV củng cố khắc sâu nội dung bằng cách: Gv đưa ra một tình
huống cho HS đóng vai và diễn trước lớp. Từ đó HS khắc sâu và liên hệ bản
thân.
Như vậy qua việc giải quyết những tình huống trên GV giúp HS nắm
được khái niệm tài sản Nhà nước và lợi ích công cộng, từ đó HS xác định
được nghĩa vụ của mình đối với tài sản nhà nước và lợi ích công cộng.
Trên đây là một số bước thực hiện phương pháp dạy học bằng tình
huống nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh trong dạy học môn Giáo dục
công dân ở trường THCS. Nhưng không phải ai cũng đạt được hiệu quả cao
mà cần phải căn cứ vào thực tế địa phương, đối tượng học sinh để có
phương pháp hình thức tổ chức các hoạt động cho phù hợp và thiết thực thì
mới nhằm phát huy được hiệu quả của nó.
Quả thật phương pháp tổ chức rất quan trọng. Chính vì vậy mà người
dạy trước hết phải được đào tạo về chuyên môn và không ngừng học tập,

24


trau di kin thc, d gi ỳc rỳt kinh nghim qua ng nghip c bit l
phi hiu bit v tỡnh hỡnh c im a phng ni mỡnh cụng tỏc.
2. Kt qu t c.
Do vấn đề còn mới mẻ và đặc biệt địa phơng trờng đóng còn gặp
nhiều khó khăn về kinh tế, văn hoá, giáo dục, ảnh hởng không nhỏ đến quá

trình giáo dục HS cũng nh vận dụng linh hoạt các vấn đề .
Nhng bên cạnh đó đợc sự quan tâm của Đảng và nhà Nớc đối với
ngành giáo dục cũng nh nhà trờng và địa phơng. Bản thân tôi đã cố
gắng nghiên cứu , tìm tòi để vận dụng những vấn đề đang đợc Đảng và nhà
Nớc cũng nh ngành quan tâm đó là giáo dục phỏp lut cho HS . Từ đó mà
đã hình thành đợc những chuẩn mực đạo đức v quy tc ng x cho HS để
các em biến những kiến thức thành những hành vi thiết thực cụ thể trong
cuộc sống hàng ngày . Điều đó cho thấy các em biết vận dụng những điều đã
học thành những kĩ năng , kĩ xảo và hơn nữa thấy ở các em ngày càng tiến bộ
về mọi mặt , đặc biệt là có ý thức trách nhiệm với bản thân và cộng đồng .
Kết quả đối chứng qua sự điều tra ở 2 lớp nh sau :
Vn dng Kết quả học Kết quả thực hiện GD phỏp lut
PPDH

tập

bng tỡnh
Lớp

hung
trong dạy
- học
- Giỏi : 50 %

- 100 % HS có hng thỳ, ý thức thực

- Khá : 45 %

hin tt.
25



×