PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng Tháng Tám thành công, Bộ máy nhà nước Việt Nam
Dân chủ cộng hoà (nay là bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (CHXHCN)) được thiết lập. Sau 65 năm xây dung, củng cố và
phát triển, Bộ máy nhà nước ta đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sự
nghiệp đấu tranh bảo vệ nền độc lập, chủ quyền của dân tộc, thống nhất
toàn vẹn lãnh thổ và đạt được những thành tựu to lớn trong việc phát triển
kinh tế, giữ vững ổn định chính trị – xã hội của đất nước.
Trong những năm gần đây (từ sau Hiến pháp 1992), Bộ máy nhà
nước ta đã có những đổi mới, những cải cách quan trọng phù hợp với
Hiến pháp mới và phục vụ đắc lực cho sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Bên cạnh những kết quả
đạt được, tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước ở nước ta hiện nay
vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém, khuyết điểm trước yêu cầu của nhiệm vụ
mới như: Bộ máy nhà nước còn cồng kềnh, kém hiệu quả, vận hành chưa
nhịp nhàng, còn tồn tại cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp làm
cho bộ máy Nhà nước nhiều tầng nấc, nặng nề, công tác quản lý nhà nước
có lĩnh vực, có nơi còn buông lỏng, đội ngũ cán bộ viên chức tuy đã được
nâng cao một bước nhưng vẫn còn chưa ngang tầm với nhiệm vụ, phong
cách làm việc còn nặng về hình thức, giấy tờ, một bộ phận thoái hóa, biến
chất …sự lãnh đạo của Đảng có nơi còn chưa được tăng cường và đổi mới
kịp thời.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, đất nước ta đang tiến hành xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước và trước
sự phát triển như vũ bão của các nước trong khu vực và trên thế giới thì
1
yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước ta là một tất yếu khách quan và phải
được tiến hành một cách kiên quyết, có trọng điểm phù hợp với điều kiện
phát triển mới của nền kinh tế, giữ vững ổn định xã hội. Có thể hiểu: Cải
cách bộ máy Nhà nước là một quá trình thay đổi, “làm mới"có chủ định
nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước.
Trước thực trạng của Bộ máy Nhà nước XHCNVN và yêu cầu của
nhiệm vụ mới cùng với tầm quan trọng của việc tiến hành cải cách bộ máy
Nhà nước ta, em xin trình bày đề tài: "cải cách bộ máy nhà nước xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu:
Việc cải cỏch bộ mỏy nhà nước được sự quan tâm của toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân. Trên thực tế đó cú nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức như: “Cơ sở khoa học của việc cải cỏch bộ mỏy nhà
nước”; “Nâng cao chất lượng cải cỏch bộ mỏy nhà nước. Tuy nhiên những công
trỡnh nghiờn cứu trờn cũng chưa thể đáp ứng được nhu cầu cải cỏch bộ mỏy
nhà nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích: Để nâng cao hơn nữa chất lượng cải cỏch bộ mỏy nhà
nước có thể đáp ứng những nhu cầu mà thực tiễn đặt ra.
3.2. Nhiệm vụ: Làm rừ cơ sở lý luận và thực tiễn cải cỏch bộ mỏy nhà
nước trong giai đoạn hiện nay. Qua đó phân tích thực trạng, tỡm ra những
nguyờn nhõn tác động đến cải cỏch bộ mỏy nhà nước, trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp nâng cao chất lượng cải cỏch bộ mỏy nhà nước.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, thời gian nghiên cứu
Cải cách bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
5. Phương pháp nghiên cứu
2
Sử dụng phương pháp duy vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, phương pháp phân tích tài liệu, phương pháp tổng hợp…
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung của tiểu luận gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cải cỏch bộ mỏy XHCN
Chương 2: Thực trạng cải cỏch bộ mỏy nhà nước XHCN Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải phỏp nõng cao cải cỏch bộ mỏy nhà
nước XHCN Việt Nam
3
PH ẦN NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ Lí LUẬN VỀ BỘ MÁY CẢI CÁCH NHÀ NƯỚC XHCN
Những vấn đề lý luận về bộ máy cải cách nhà nước XHCN
1.1 Khái niệm và đặc điểm của bộ máy Nhà nước XHCN
1.1.1 Khái niệm
Bộ máy Nhà nước XHCN là một hệ thống các cơ quan Nhà nước
từ Trung Ương xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung
thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước XHCN.
1.1.2.Đặc điểm chung của bộ máy Nhà nước XHCN
Nhà nước xã hội chủ nghĩa không thể đứng bên trên hoặc bên lề của
quá trình kinh tế – xã hội mà nó phải đứng bên trong các quá trình đó.
Nhà nước phải thực hiện sự quản lý toàn diện mọi mặt của đời sống xã
hội, để đảm bảo ổn định về chính trị, củng cố quyền lực nhân dân. Toàn
bộ những hoạt động quản lý rộng lớn và phức tạp đó đòi hỏi Nhà nước
phải có một bộ máy đủ năng lực và sức mạnh để thực hiện các chức năng
xã hội.
Bộ máy Nhà nước XHCN được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền.
Mọi quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất ở nhân dân, bắt nguồn từ
nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình theo hai hình thức trực
tiếp và gián tiếp thông qua các cơ quan đại diện do mình trực tiếp bầu ra.
Bộ máy Nhà nước XHCN phải có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Đó là sự phối hợp và phân công trên cơ sở tổ chức lao động khoa
học về quyền lực Nhà nước để tránh sự trùng lặp, chồng chéo mâu thuẫn
trong việc thực hiện ba quyền.
4
Đội ngũ cán bộ, công chức của Nhà nước XHCN phải đáp ứng
những tiêu chuẩn chung là: Có tinh thần yêu nước, yêu CNXH, tận tụy
phục vụ nhân dân, có ý thức tổ chức kỷ luật, có trình độ lý luận và thực
tiễn, kiên định tư tưởng, quan điểm của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, có đủ năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để có thể
thực hiện những nhiệm vụ cụ thể được giao trong Bộ máy Nhà nước.Cán
bộ công chức của bộ máy Nhà nước XHCN luôn chịu sự giám sát của
nhân dân và có thể bị bãi nhiệm bất cứ lúc nào nếu không hoàn thành
được nhiệm vụ và không được sự tín nhiệm của nhân dân
Bộ máy Nhà nước hợp thành từ nhiều cơ quan và tổ chức Nhà nước
từ Trung Ương đến địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong phú và
đa dạng. Mỗi cơ quan, tổ chức có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ riêng
nhưng chúng hợp thành một thể thống nhất cùng thực hiện các mục tiêu
do Nhà nước đặt ra.
1.2 Bản chất và đặc trưng cơ bản của Nhà nước cộng hòa
XHCN Việt Nam
1.2.1 Bản chất
Về bản chất, Nhà nước XHCN không chỉ là những vấn đề có tính
nguyên tắc cơ bản được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác–Lênin
khẳng định như đã nêu ở trên mà m"hình các nước XHCN cụ thể còn phụ
thuộc vào đặc điểm dân tộc, truyền thống, văn hóa, trình độ kinh tế, xã hội
và các đặc điểm của thời đại được vận dụng vào mỗi quốc gia.
Bản chất bao trùm nhất chi phối cho mọi lĩnh vực của đời sống Nhà
nước Việt Nam hiện nay từ tổ chức đến hoạt động thực tiễn là tính nhân
dân của Nhà nước. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước
CHXHCNVN là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp trí thức".
5
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước CHXHCNVN
a.Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước
Quyền lực Nhà nước Việt Nam không thuộc về một cá nhân nào,
một nhóm người nào mà thuộc về toàn thể nhân dân.
Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước và thực
hiện nó bằng nhiều hình thức khác nhau. hình thức cơ bản nhất là nhân dân thông
qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình. Điều 6, Hiến pháp 1992
quy định:"Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân …”. Ngoài ra nhân dân
còn thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua các hình thức kiểm tra, giám sát hoạt
động của các cơ quan Nhà nước hoặc trực tiếp đưa ra kiến nghị của mình với các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền …
b.Nhà nước CHXHCNVN là một Nhà nước dân chủ thực sự và rộng
rãi
Bản chất dân chủ của Nhà nước ta thể hiện toàn diện trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị,văn hóa và xã hội
- Trong lĩnh vực kinh tế: Nhà nước ta thực hiện chủ trương tự do,
bình đẳng về kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi làm cho nền kinh tế đất nước
có tính năng động, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, đa sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh cho phép
mọi đơn vị kinh tế đều có thể hoạt động theo cơ chế tự chủ trong sản xuất,
hợp tác và cạnh tranh với nhau và đều bình đẳng trước pháp luật. Bảo đảm
lợi ích kinh tế của người lao động, coi đó là động lực đồng thời là mục
tiêu của dân chủ.
- Trong lĩnh vực chính trị: Nhà nước ta đã tạo ra cơ sở pháp lý vững
chắc, quy định những quyền tự do dân chủ trong sinh hoạt chính trị, xác lập và
6
thực hiện cơ chế dân chủ thông qua chế độ bầu cử và bãi miễn bầu cử nhân dân
trong các cơ quan dân chủ đồng thời Nhà nước thiết lập và thực hiện chế độ
dân chủ trực tiếp, tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào công cuộc quản lý
nhà nước, xã hội, đóng góp ý kiến, kiến nghị, thảo luận một cách dân chủ, bình
đẳng vào đường lối, chủ trương, dự thảo luật…
- Trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa và xã hội: Nhà nước thực hiện
chủ trương tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần, phát huy mọi khả năng
của con người. Quy định toàn diện và bảo đảm cho mọi người được
hưởng các quyền tự do như ngôn luận, tự do tín ngưỡng, học tập, lao
dộng, quyền bất khả xâm phạm thân thể, nhà ở…Tự do tư tưởng văn hóa,
xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
c. Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất
nước Việt Nam được thể hiện dưới bốn hình thức cơ bản
Một là, Nhà nước đã xây dựng cơ sở pháp lý vững vàng cho việc
thiết lập và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc tạo điều kiện cho mỗi dân
tộc đều có thể tham gia vào việc thiết lập, củng cố và phát huy sức mạnh
của Nhà nước (Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 đều thể hiện rõ).
Hai là, tất cả các tổ chức Đảng, Nhà nước, mặt trận, công đoàn, đoàn
thanh niên…đều coi việc thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, xây dựng
Nhà nước Việt nam thống nhất là mục tiêu chung, là nguyên tắc hoạt động
của tổ chức mình.
Ba là, Nhà nước luôn chú trọng ưu tiên đối với dân tộc thiểu số
thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện để các dân tộc tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng tồn tại và phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Bốn là, chú ý tới điều kiện, hoàn cảnh của mỗi dân tộc, tôn trọng các
giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống của mỗi dân tộc, xây dựng bản sắc riêng
7
Nha` nước Việt Nam với đầy đủ tính phong phú mà vẫn đảm bảo tính thống
nhất, nhất quán.
d.Nhà nước CHXHCN Việt Nam thể hiện tính xã hội rỗng rãi
Nhà nước Việt Nam đã quan tâm đặc biệt và toàn diện, đầu tư thoả
đáng cho việc giải quyết các vấn đề xã hội như: Xây dựng các công trình
phúc lợi xã hội, phòng chống thiên tai, xoá đói giảm nghèo, chống thất
nghiệp, giải quyết việc làm, …Coi việc giải quyết các vấn đề này là nhiệm
vụ của mọi cấp, mọi ngành và của Nhà nước nói chung.
e.. Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác và
hữu nghị
Với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của
tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển”, thể hiện một đường lối đối ngoại cởi mở của Nhà nước ta như
Điều 4, Hiến pháp 1992 đã khẳng định: “Nước CHXHCN Việt Nam thực
hiện chính sách hòa bình, hữu nghị mở rộng giao lưu và hợp tác đối với
tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội
khác nhau, trên cơ sở độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau…
Dân chủ và tiến hành tiến bộ xã hội”.
Để thực hiện đúng bản chất của mình, Nhà nước CHXHCN Việt
Nam còn phải tiếp tục đổi mới nhiều mặt, cải tổ sâu sắc từ cơ cấu tổ chức
đến hình thức và phương pháp hoạt động cho phù hợp với các quy định
của pháp luật để từng bước xây dựng và phát triển thành Nhà nước pháp
quyền Việt Nam.
1.3. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước
XHCN Việt Nam
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là những
nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học,
8
phù hợp với bản chất của Nhà nước, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt
động của các cơ quan Nhà nước và toàn thể bộ máy Nhà nước.
ở nước ta, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước được ghi
nhận trong Hiến pháp, bao gồm những nguyên tắc cơ bản sau:
1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền lực nhân dân trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của Nhà nước XHCN: quyền
lực thuộc về nhân dân. Nó được thể hiện trên ba phương diện:
Thứ nhất, bảo đảm cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào
việc tổ chức ra Bộ máy Nhà nước, được thể hiện trước hết ở chỗ phải có đủ cơ
sở pháp lý và các biện pháp tổ chức phù hợp để nhân dân thể hiện ý chí của
mình, phát huy quyền làm chủ bầu ra các cơ quan đại diện để lập ra các hệ
thống cơ quan khác.
Thứ hai, vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng là phải bảo đảm cho nhân
dân tham gia đông đảo vào việc quản lý công việc của Nhà nước và quyết
định những vấn đề trọng đại của đất nước.
Thứ ba, Nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện
việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, nhân viên
nhà nước. Đây là vấn đề có tính chất nguyên tắc bảo đảm cho Bộ máy
Nhà nước hoạt động đúng mục đích và bảo vệ lợi ích của nhân dân.
1.3.2. Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước
Điều 4 Hiến pháp 1992 khẳng định: “Đảng Cộng Sản Việt Nam là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội “. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước thể hiện ở các mặt chủ yếu:
Đảng đề ra đường lối chính trị, những chủ trương phương hướng
lớn, quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy Nhà nước
9
Đảng lãnh đạo quá trình xây dựng pháp luật nhất là những đạo luật
quan trọng nhằm thông qua Nhà nước thể chế hóa các chủ trương, chính
sách của Đảng thành pháp luật, thường xuyên theo dõi hướng dẫn lãnh
đạo các cơ quan Nhà nước hoạt động theo đúng đường lối của Đảng
1.3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tại điều 6, Hiến Pháp 1992: "Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các
cơ quan khác của Nhà nước đều được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ ". Nội dung của nó được thể hiện trên ba mặt chủ
yếu: Tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, chế độ thông tin và báo cáo kiểm
tra xử lý các vấn đề trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà
nước.
1.3.4. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc
Đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đại đoàn kết dân tộc lại là
một chính sách lớn và được khẳng định trong Điều 5 Hiến pháp 1992: “…
Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các
dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những
phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình ".
1.3.5. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Tại Điều 12, Hiến pháp 1992: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa ". Nó đòi hỏi các
cơ quan trong Bộ máy Nhà nước phải đảm bảo thực hiện quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp một cách nhịp nhàng,
đồng bộ theo đúng pháp luật và trên cơ sở của pháp luật. Tuy nhiên để
thực hiện chủ trương củng cố và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCNVN cần phải tăng cường hơn nữa pháp chế
10
XHCN, đòi hỏi Nhà nước phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Ngoài 5 nguyên tắc trên, trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước XHCN còn có những nguyên tắc khác như:nguyên tắc tổ chức
lao động khoa học, nguyên tắc bảo đảm tính kinh tế, nguyên tắc công khai
hóa …
Chương 2:
THỰC TRẠNG CẢI CÁCH BỘ MÁY NHÀ N ƯỚC XHCN VIỆT
NAM
2.1. Thực trạng của việc tiến hành cải cách bộ máy Nhà nước
XHCNVN
2.1.1. Những thành tựu nổi bật
a. Trong hoạt động lập pháp
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Những
năm qua, hoạt động lập pháp của Quốc hội (QH) thường xuyên được coi
trọng và đã đạt được những thành tựu lớn: hệ thống pháp luật không
ngừng được xây dựng, hoàn thiện. Quy trình xây dựng pháp luật đã được
chính quy hóa bằng việc QH ban hành luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật (1996) và tiếp tục được đổi mới một bước thông qua việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của luật này vào năm 2002. Do vậy, chất lượng
hoạt động lập pháp đã được nâng lên một bước. Nhiều bộ luật với trình độ
pháp điển hóa cao lần lượt được ban hành như: bộ luật dân sự, bộ luật tố
tụng dân sự, bộ luật hình sự, bộ luật tố tụng hình sự …nhiều đạo luật mới
lần đầu tiên ra đời tại Việt Nam như: luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật
cạnh tranh, luật phá sản, luật thương mại, luật sở hữu trí tuệ, luật báo chí
…nhờ dó mà tạo lập được môi trường pháp lý bình đẳng, thuận lợi cho
11
mọi thành phần kinh tế tồn tại và phát triển. Số lượng và chất lượng của
các văn bản quy phạm pháp luật do QH và Uỷ ban thường vụ QH
(UBTVQH) ban hành ngày càng tăng lên. QH khóa VIII đã đã ban hành
được 32 luật, Hội đồng Nhà nước với vị trí là cơ quan cao nhất hoạt động
thường xuyên của QH ra được 43 pháp lệnh. Trong nhiệm kỳ khóa IX,
QH đã thông qua 41 luật và bộ luật, quy chế hoạt động của các cơ quan
QH, nội quy kỳ họp QH ;UBTVQH thông qua 44 pháp lệnh. Trong nhiệm
kỳ khóa X, QH đã thông qua 35 luật và bộ luật ; UBTVQH thông qua 44
pháp lệnh. Từ đầu nhiệm kỳ khóa XI đến nay, QH đã thông qua 47 luật và
bộ luật 3 quy chế 1 nội quy ; UBTVQH thông qua 27 pháp lệnh. Vậy là
trong hơn 60 năm qua, QH đã thông qua 4 bản Hiến pháp, 197 văn bản
luật và UBTVQH đã ban hành 195 văn bản pháp luật.Những văn bản đó
đã đi vào cuộc sống của nhân dân và giữ vai trò quan trọng trong quản lý
đất nước ở mọi lĩnh vực kinh tế – chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh –
quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, đối ngoại, trong quan hệ quốc tế …
Cùng với hoạt động lập pháp thì QH các khóa đã thực hiện ngày càng
hiệu lực và hiệu quả chức năng quyết định các vấn đề trọng đại của đất nước.
Các nghị quyết của QH về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội năm năm và
hàng năm ; về chính sách tài chính tiền tệ quốc gia ; về dự toán ngân sách ; về
các công trình trọng điểm quốc gia, về tổ chức nhân sự của Bộ máy Nhà nước
… Các hoạt động giám sát của QH về đầu tư, xây dựng cơ bản, giáo dục đào
tạo …đã góp phần thúc đẩy việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã đề
ra từng bước hoàn chỉnh hệ thống pháp luật.
Hoạt động lập pháp của QH đạt được những thành tựu trên là do
những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Hoạt động lập pháp được tiến hành chủ động, tự giác trên cơ sở kế
hoạch, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh được QH thông qua, bám sát
12
nhu cầu thể chế hóa, đường lối, chủ trương của Đảng, kế hoạch phát triển kinh
tế –xã hội của đất nước.
- Hoạt động lập pháp đã được tiến hành trên cơ sở pháp luật khá
chặt chẽ (theo luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thông qua ngày
12/11/1996 ).
- Hoạt động lập pháp thể hiện được tinh thần dân chủ, thực hiện
được nguyên tắc nhân dân thực hiện pháp luật phải là người xây dựng
pháp luật trên tất cả các mắt khâu của quy trình làm luật. Chính từ đây,
QH thực hiện được sứ mệnh của người đại biểu cao nhất của nhân dân.
- Tính sáng tạo trong hoạt động lập pháp: Hoạt động lập pháp của QH
luôn hướng tới tính hợp lý trong sự điều chỉnh của từng đạo luật, của cả hệ
thống pháp luật, khắc phục được những bất cập giữa nhu cầu điều chỉnh bằng
luật ngày càng gia tăng.
b. Hoạt động của các cơ quan hành pháp (Cơ quan hành chính Nhà
nước)
Hệ thống hành chính Nhà nước gánh vác nhiệm vụ v"cùng nặng nề và
phức tạp là quản lý và điều hành mọi hoạt động của tổ chức và cá nhân trong
xã hội, bảo đảm việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, của pháp
luật của Nhà nước, hàng ngày xử lý những vấn đề có quan hệ trực tiếp đến
quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân, nó thể hiện rõ nét nhất bản chất của một
Nhà nước có thật sự dân chủ không và Nhà nước đó hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả vì lợi ích của nhân dân hay không?
Theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, BCHTW Đảng
(Khóa VII), trong nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cũng đã đặt
trọng tâm vào cải cách hành chính và xác định mục tiêu là:"Xây dựng một
nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và
từng bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của
Nhà nước…”
13
- Về cải cách thể chế hành chính: Trong bảy lĩnh vực trọng điểm có
liên quan đến hoạt đông sản xuất kinh doanh, đầu tư của nước ngoài và
quyền lợi thiết thân của nhân dân, Chính phủ và các cán bộ có liên quan
đã bãi bỏ nhiều thủ tục rườm rà, chồng chéo, bớt đi nhiều khâu xét duyệt
không hợp lý và không cần thiết. Một số cơ quan hành chính địa phương
và cơ sở đã sửa đổi, đơn giản hóa hoặc hủy bỏ những thủ tục rắc rối do
mình đặt ra. Những cố gắng bước đầu đó đã được nhân dân và các doanh
nghiệp trong và ngoài nước hoan nghênh.
- Về điều chỉnh tổ chức bộ máy và các mối quan hệ trong hệ thống hành
chính: Điều chỉnh theo hướng giảm số cơ quan quản lý chuyên ngành, tiến tới
xoá bỏ cơ chế “chủ quản “của cơ quan hành chính đối với các doanh nghiệp.
Tiền đề cho việc điều chỉnh này là sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước,
thành lập một số Tổng công ty ở một số ngành kinh tế – kỹ thuật. Trên cơ sở đó
quy định lại chức năng quản lý Nhà nước của các Bộ và UBND đối với các
hoạt động kinh tế, đối với các doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa Trung Ương và
địa phương trong hệ thống hành chính Nhà nước cũng đã được giải quyết trong
luật ngân sách Nhà nước và pháp lệnh về quyền hạn và nhiệm vụ cụ thể của
Hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND các cấp.
- Về xây dựng đội ngũ công chức hành chính: Thủ tướng chính phủ
đã triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hành chính Nhà nước
các cấp, nâng cao chất lượng giảng dạy ở các trường chính trị, trường
hành chính tỉnh, thành phố, tiến hành cuộc đấu tranh chống tệ tham
nhũng, lãng phí của công, chống bệnh quan liêu, cửa quyền trong cơ quan
hành chính các cấp để xây dựng đội ngũ công chức nhà nước trong sạch,
có phẩm chất và năng lực.
Ngoài ra,trong hoạt động điều hành, Chính phủ cũng đã có những bước
tiến đáng kể: Kìm hãm được tốc độ lạm phát, ổn định giá cả, chấn chỉnh được
14
giao thông đường bộ và giao thông đ"thị, truy quét văn hóa phẩm đồi trụy, độc
hại, phản động …
Trong giai đoạn I (2001–2005) của chương trình tổng thể cải cách hành
chính Nhà nước giai đoạn 2001–2010 kết quả nổi bật thu được là: Thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng trưởng GDP năm sau cao hơn năm trước,
bình quân trong năm năm 2001 –2005 đạt mức kế hoạch 7,5%, tỷ lệ huy động
vốn GDP vào ngân sách Nhà nước vượt dự kiến, tổng vốn đầu tư vào nền
kinh tế tăng nhanh…) ; xoá đói giảm nghèo được đảy mạnh bằng nhiều hình
thức và thu được nhiều kết quả tốt ( Đến năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo còn 7%
theo tiêu chuẩn VN cho giai đoạn 2001–2005); chính trị–xã hội ổn định phục
vụ người dân và doanh nghiệp, góp phần phòng chống quan liêu, tham
nhũng ; bước đầu làm thay đổi quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước
với người dân và doanh nghiệp ; chức năng, nhiệm vụ, phương thức vận hành
của bộ máy hành chính Nhà nước có nhiều tiến bộ, từng bước đáp ứng yêu
cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế
quốc tế.
c. Hoạt động của cơ quan tư pháp
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng cùng với việc Cải
cách Bộ máy Nhà nước, tổ chức và hoạt động của các cơ quan Toà án,
Viện kiểm sát, Tư pháp đã từng bước được cải cách và kiện toàn: Một số
các văn bản pháp luật về lĩnh vực tư pháp đã được ban hành như:luật tổ
chức toà án nhân dân năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 1994 ; pháp
lệnh tổ chức toà án quân sự năm 1993 ; pháp lệnh về thẩm phán và hội
thẩm nhân dân năm 1993 ; luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
1992 ; pháp lệnh tổ chức viện kiểm sát quân sự năm 1993 …Với việc triển
khai thực hiện các văn bản đó, Nhà nước ta đã đưa công tác tư pháp vào
nền nếp, theo quy định của pháp luật với những đổi mới cụ thể:
15
- Đó là việc thành lập thêm các toà kinh tế, toà lao động, toà hành
chính trong hệ thống Toà án nhân dân. Như vậy, một số các vụ việc tranh
chấp trong lĩnh vực kinh tế và phá sản doanh nghiệp, một số vụ tranh chấp
lao động và khiếu nại đối với các quyết định của cơ quan hành chính sẽ
được giải quyết trước Toà án theo một trình tự, thủ tục được quy định chặt
chẽ ( trước đây giải quyết theo con đường hành chính ). Thẩm phán các
Toà án tỉnh, huyện được Chủ tịch nước bổ nhiệm trên cơ sở đề nghị của
Hội đồng tuyển chọn ở cấp tỉnh và cấp Trung ương gồm đại diện của cơ
quan tư pháp, Toà án, Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam và Hội luật gia (trước
đây do HĐND tỉnh, huyện bầu ra theo mỗi khóa của HĐND).
- Viện kiểm sát nhân dân địa phương phải chịu sự giám sát và có
trách nhiệm báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp (luật tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân – 1992 có sửa đổi và bổ sung ). Uỷ ban
kiểm sát có quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan
trọng trong hoạt động của viện (trước đây chỉ hoạt động mang tính chất tư
vấn, không có quyền quyết định ). Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã
thành lập bộ phận kiểm sát thi hành án.
- Ngoài ra, các hoạt động tư pháp khác cũng có những đổi mới nhất
định như: Cơ quan điều tra từng bước được tăng cường và tổ chức thành hệ
thống (Bao gồm cơ quan điều tra thuộc lực lượng CAND, trong quân đội và
của Viện kiểm sát nhân dân). Công tác thi hành án phạt tù đã được tăng
cường hơn, hệ thống trại giam đã được phân loại, củng cố. Công tác thi hành
án dân sự được bàn giao sang cho Bộ tư pháp(tách khỏi chức năng của Toà
án). Hệ thống thi hành án dân sự được thành lập từ trung ương đến cấp
huyện…Với những đổi mới bước đầu như trên, hệ thống tư pháp góp phần
quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giải
quyết các tranh chấp xảy ra, góp phần bảo đảm ổn định chính trị và trật tự,
an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của công dân.
16
2..2. Hạn chế trong việc cải cách Bộ máy Nhà nước XHCN Việt
Nam
2.2.1. Hoạt động lập pháp
Ngoài những thành tựu đã đạt được nêu trên thì hoạt động lập pháp
vẫn còn có những hạn chế nhất định:
Vẫn chưa đáp ứng kịp với yêu cầu của việc tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Mặc dù Nhà nước ta đã ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ
sung nhiều văn bản pháp luật hiện hành, song hệ thống pháp luật vẫn chưa
hoàn chỉnh, chưa đồng bộ, vẫn còn có chỗ chồng chéo, mâu thuẫn; một số quy
định trong văn bản pháp luật mới ban hành chất lượng chưa cao, nội dung
chưa sát với cuộc sống, còn mang nặng tính chủ quan nên tính khả thi và dự
báo thấp hoặc nhiều quy định mang tính nguyên tắc chung, chưa cụ thể để thi
hành, áp dụng được ngay mà còn phải ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa,
hướng dẫn thi hành. Trong khi đó, nhiều văn bản hướng dẫn lại ban hành
không kịp thời nên pháp luật chậm đi vào cuộc sống và không tránh khỏi có
những cách hiểu, cách làm khác nhau dẫn đến sơ hở, lợi dụng trong việc thi
hành pháp luật, làm cho pháp luật chậm phát huy trong thực tiễn cuộc sống.
2.2.2. Hoạt động của cơ quan hành chính
Bên cạnh những kết quả đạt được, cải cách hành chính vẫn còn
chậm so với mục tiêu và yêu cầu đặt ra, cụ thể là:
- Chức năng,nhiệm vụ của nhiều cơ quan, tổ chức trong Bộ máy
hành chính Nhà nước còn chồng chéo ; còn nhiều khó khăn, vướng mắc
trong cơ chế quản lý, phương thức quản lý Nhà nước đối với doanh
nghiệp Nhà nước ; chưa tách bạch được quản lý hành chính nhà nước với
quản lý hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công ; tổ chức bộ máy có xu hướng
phình ra ; phương thức hoạt động chậm đổi mới.
17
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức còn thấp về tinh thần trách
nhiệm, về kiến thức, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng
hành chính, ngoại ngữ, tin học, công tác đào tạo, bồi dưỡng còn chậm
được đổi mới về nội dung và phương pháp.
- Chủ trương xã hội hóa các lĩnh vực: giáo dục- đào tạo, y tế, văn
hóa- xã hội, khoa học và thể dục thể thao triển khai còn chậm; cơ chế tài
chính cho các đơn vị sự nghiệp có thu chưa thật sự phù hợp; chức năng
quản lý Nhà nước dịch vụ công chậm được làm rõ.
2.2.3. Hoạt động của cơ quan tư pháp
Hệ thống tư pháp vẫn còn không ít những yếu kém, khuyết điểm
ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp
luật. Việc bắt, tạm giam, tạm giữ đã không tránh khỏi những trường hợp
oan, sai.Thời hạn tố tụng kéo dài ; nhiều vụ việc dân sự phải xử đi xử lại
nhiều lần, thậm chí có vụ còn để kéo dài nhiều năm. Công tác thi hành án
đạt hiệu quả thấp, còn một số lượng lớn bản án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng chưa được thi hành.Cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động của các
cơ quan tư pháp chưa được cải thiện…
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong cải cách bộ máy Nhà
nước XHCN Việt Nam
- Trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội vẫn còn nhiều khuyết
điểm, yếu kém, chưa hoàn chỉnh, phù hợp ; Hoạt động lập pháp tiến hành
chưa chủ động, tự giác, kế hoạch, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
được QH thông qua còn thiếu tính chặt chẽ, khoa học, chưa bám sát
đường lối, chủ trương, quan điểm và chỉ thị của Đảng ; còn tồn tại bệnh
chủ quan, duy ý chí trong làm luật; Các cơ quan hữu quan trong quá trình
xây dượng luật, pháp lệnh chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm, khả
năng của mình, chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau ; Việc tổ chức lấy
18
ý kiến góp ý vào các dự án luật, pháp lệnh còn mang tính hình thức, thiếu
chỉ đạo cụ thể, tốn nhiều thời gian, tiền của, công sức mà kết quả thu được
không nhiều ; Việc tổng hợp các ý kiến thiếu tính chu đáo, kịp thời.
- Trong cải cách hành chính, nguyên nhân của những hạn chế, yếu
kém đó là do chưa làm tốt công tác tư tưởng trong nội bộ hệ thống hành
chính Nhà nước, nhiều cán bộ lãnh đạo cơ quan chính quyền ở Trung
ương và địa phương chưa có nhận thức đúng đắn và ý thức trách nhiệm rõ
rệt về cải cách hành chính. Cải cách hành chính chưa thực sự được coi là
một trong những giải pháp quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã
hội. Ban chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ, cán bộ ngành và địa
phương hoạt động không mạnh và không sâu, có nơi còn hình thức, ít
nghiên cứu, chậm tổng kết, nhân rộng các sáng kiến cải cách hành chính ở
cơ sở.Thủ tướng chính phủ, Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chưa dành công sức cần thiết để chỉ đạo quyết liệt công tác
cải cách hành chính trong phạm vi trách nhiệm …
- Các hiện tượng tham nhũng đang lan tràn và trở thành quốc nạn cùng
với đó là sự tha hóa của một bộ phận cán bộ, đảng viên về phẩm chât, đạo
đức, lối sống.
- Chưa có cơ quan chuyên trách làm công tác cải cách dẫn đến chưa có
sự nghiên cứu, tổng kết nhân rộng các sáng kiến cải cách, chưa giành công
sức cần thiết để chỉ đạo quyết liệt công tác cải cách bộ máy Nhà nước trong
phạm vi trách nhiệm.
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CẢI CÁCH BỘ
MÁY NHÀ N ƯỚC XHCN VIỆT NAM
19
Bộ máy Nhà nước Việt Nam cần được tiến hành cải cách theo
những phương hướng và giải pháp cụ thể sau:
3.1. Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân
dân phấn đấu xây dựng một Quốc hội thực thi đầy đủ nhiệm vụ, quyền
hạn của mình theo luật định, xứng đáng với vai trò là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.điều đó đòi hỏi
QH phải mạnh về lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất
nước và giám sát tối cao. phương thức hoạt động của QH phải dựa trên hai
trụ cột chính là Uỷ ban và đại biểu QH.Vai trò của các Uỷ ban và Hội
đồng dân tộc phải được tăng cường. Coi trọng vai trò của các cá nhân đại
biểu QH bằng cách phát huy trí tuệ chuyên sâu, chuyên trách và trách
nhiệm của đại biểu của nhân dân.
Để xây dựng QH theo phương hướng trên cần tiến hành đồng bộ các giải
pháp sau:
3.1.1. Tiếp tục đổi mới phương lãnh đạo của Đảng, đổi mới nhận
thức về vị trí, vai trò của QH, tạo mọi điều kiện để QH làm đúng, làm đủ
nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định nhằm xây dựng một QH
mạnh, thực quyền.
3.1.2. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của QH theo hướng
dân chủ hóa, tạo mọi điều kiện để các kỳ họp của QH diễn ra thực sự dân
chủ, cải tiến các hình thức lấy ý kiến nhân dân đối với các dự án luật và
các hình thức tiếp xúc giữa đại biểu QH với cử tri, sớm ban hành luật
trưng cầu dân ý để nhân dân trực tiếp quyết định một số vấn đề hệ trọng
và thiết thực.
3.1.3. Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động lập pháp của QH trong
đó cần:
- Coi trọng nâng cao chất lượng việc lập chương trình xây dựng luật,
pháp lệnh dài hạn và hàng năm của QH, các chương trình này phải căn cứ vào
20
kế hoạch phát triển kinh tế– xã hội, yêu cầu quản lý Nhà nước, định hướng
xây dựng pháp luật được xây dựng trong các văn kiện của Đảng. Cần bảo
đảm tính liên tục, kế thừa, phải xác định các lĩnh vực ưu tiên và khả năng thực
thi trong công tác xây dựng pháp luật đồng thời thể hiện tính đồng bộ, thống
nhất trong hệ thống pháp luật.
- Về việc soạn thảo, thẩm tra và xem xét, thông qua các dự án luật,
pháp lệnh cần sớm phân công hợp lý cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra
đối với các dự án luật, pháp lệnh ; nâng cao chất lượng soạn thảo cả về nội
dung và kỹ thuật văn bản; quán triệt đầy đủ các quan điểm được thể hiện
trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng ; cần tập hợp trí tuệ của các nhà
khoa học, trưng tập các chuyên gia có kinh nghiệm, lấy ý kiến của nhân
dân trong việc xây dựng các dự án pháp luật …các luật ban hành cần bảo
đảm tính khả thi, dễ hiểu, phải được quy định cụ thể để giảm bớt tình
trạng phải chờ đợi quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được ;
Giảm dần pháp lệnh của UBTVQH và Nghị định của Chính phủ quy định
những vấn đề chưa có luật. Những pháp lệnh, nghị định này sau một thời
gian thực hiện, được kiểm nghiệm là đúng thì hoàn chỉnh để chuyển thành
luật. Phấn đấu trong một thời gian nhất định, Nhà nước có thể quản lý đất
nước chủ yếu bằng các đạo luật.
3.1.4. Phấn đấu tiến tới việc QH thực hiện đầy đủ quyền quyết
định ngân sách như Hiến pháp quy định, bảo đảm các diều kiện để QH
xem xét quyết định một cách thực chất các kế hoạch phát triển kinh tế –
xã hội, các chương trình Quốc gia, các dự án đầu tư lớn cũng như các vấn
đề quan trọng về tổ chức Bộ máy Nhà nước và nhân sự.
3.1.5. Nâng cao chất lượng giám sát của QH khắc phục tình trạng
giám sát theo bề rộng mà thiếu chiều sâu. Tập trung vào việc giám sát các
văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
21
3.1.6. Tăng cường hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban
của QH. Các cơ quan này phải chịu trách nhiệm chính về những vấn đề
trong các báo cáo của mình trình ra QH, đặc biệt là các báo cáo thẩm tra.
Thành lập thêm một số ủy ban của QH để tạo điều kiện cho các ủy ban
chuyên trách hoạt động của mình theo hướng chuyên sâu về các lĩnh vực
tư pháp, tài chính, ngân hàng…
3.1.7. Nâng cao chất lượng của đại biểu QH. Đại biểu QH phải có
đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật ( phải là những người có phẩm
chất chính trị và đạo đức tốt, có năng lực, trình độ, có điều kiện tham gia
các hoạt động của QH ), đồng thời chú ý đúng mực đến cơ cấu, tính đại
diện trong QH ; giảm hợp lý số đại biểu QH thuộc các cơ quan quản lý
hành chính Nhà nước; bảo đảm thực hiện nhiệm vụ của người đại biểu,
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Đại biểu
QH phải nâng cao bản lĩnh dám nói và dám đấu tranh với các biểu hiện vi
phạm pháp luật ; phát huy tính chủ động, tự lập, tự chịu trách nhiệm cá
nhân của đại biểu QH.
3.2. Tiếp tục cải cách nền hành chính Nhà nước, xây dựng một
hệ thống cơ quan quản lý thống nhất, thông suốt, có hiệu lực và hiệu quả,
đủ năng lực thực thi các nhiệm vụ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Tiến hành sắp xếp tổ chức
phân định rõ ràng chức năng, thẩm quyền giữa các cấp, thực hiện nguyên
tắc kết hợp quản lý ngành và quản lý lãnh thổ. Tăng cường công tác tổ
chức và hoạt động thanh tra; kiện toàn tổ chức chính quyền địa phương,
xây dựng đội ngũ cán b, công chức có đủ phẩm chất và năng lực hoàn
thành công việc trong Bộ máy Nhà nước. Đảng ta đã khẳng định: “xây
dựng một nền hành chính Nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại hóa “.
* Những giải pháp cụ thể
22
a. Chính phủ và bộ máy hành chính Nhà nước thống nhất quản
lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội …
- Quản lý kinh tế – xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị
và kỷ cương chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế
then chốt, bảo đảm môi trường cho nhân dân sản xuất kinh doanh, nâng
cao đời sống.
- Quản lý thị trường điều tiết thu nhập thông qua các công cụ quản
lý vĩ m"và vai trò của kinh tế Nhà nước, kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội.
- Tăng cường kiểm kê, kiểm soát sản xuất và phân phối, quản lý, sử
dụng có hiệu quả vốn và tài sản công với tư cách đại diện chủ sở hữu Nhà
nước, khắc phục tình trạng v"chủ, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí.
- Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường
an ninh, quốc phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại để các lĩnh vực này
tác động hỗ trợ nhau cùng phát triển.
b. Hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản
lý ngành và phân định rõ chức năng, thẩm quyền giữa các cấp chính
quyền theo hướng quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ nhằm tạo điều kiện và thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy
tính chủ động, khai thác mọi tiềm năng tại chỗ để phát triển kinh tế– xã
hội ở địa phương và đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển chung
của đất nước đặc biệt cần tăng trách nhiệm và thẩm quyền của chính
quyền địa phương trong vấn đề quy hoạch phát triển và kế hoạch đầu tư
cho khu vực công cộng, về thu chi ngân sách, về tổ chức và nhân sự hành
chính dịa phương… Ngoài ra phân định trách nhiệm và thẩm quyền của
các cấp chính quyền phải phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng
ngành, từng lĩnh vực hoạt động với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp
chính quyền trên từng địa bàn, phù hợp với điều kiện và khả năng của
23
từng địa phương có quy mô, vị trí khác nhau ; quan hệ phân cấp phải gắn
liền với việc tăng cường sự phối hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ,
được quy định thành thể chế.
c.. Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra coi đó là công
cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý Nhà nước, thiết lập kỷ
cương xã hội.
- Đổi mới tổ chức thanh tra phù hợp với chức năng quản lý Nhà
nước trong điều kiện mới ; phát triển mạnh tổ chức thanh tra việc thực
hiện thể chế về từng lĩnh vực trong toàn xã hội như tài chính, lao động,
giáo dục, y tế …
- Nghiên cứu tăng thẩm quyền cho các cơ quan thanh tra trong việc
xử lý hành chính tại chỗ các vi phạm pháp luật ; phân định rõ hơn trách
nhiệm của cơ quan thanh tra và Toà án hành chính trong việc giải quyết
các khiếu kiện đối với các cơ quan và cán bộ, công chức hành chính.
- Đẩy mạnh hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ cơ quan, tổ chức Nhà
nước.
d. Trong tổ chức bộ máy của từng cơ quan, đơn vị ở các Bộ,
Ngành, Tổng cục… từ Trung ương đến cơ sở cần được rà soát lại chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, phân công, biên chế của từng tổ chức xem có
gì bất hợp lý, trùng lặp; cắt giảm, điều chỉnh lại những thủ tục hành chính
rườm rà… Trên cơ sở đó, xem xét lại đội ngũ cán bộ công chức, nhất là
cán bộ lãnh đạo và quản lý, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ có chất lượng
để đảm bảo hoàn thành công việc một cách có hiệu quả ; xây dựng một
đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, năng lực là yếu tố quyết định
chất lượng của Bộ máy Nhà nước. Cán bộ công chức phải đặt lợi ích quốc
gia lên trên lợi ích cá nhân, phải sống và làm việc theo tinh thần "cần,
kiệm, liêm, chính, chí công v"tư “. Phải được bố trí và điều động theo nhu
24
cầu và lợi ích của đất nước thể được luân chuyển từ Trung ương đến địa
phương, địa phương lên Trung ương, địa phương đến địa phương.
3.3 Cải cách tư pháp theo những hướng sau: Tăng cường hiệu
lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, nâng cao chất lượng và đổi mới tổ
chức, hoạt động của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân,
các cơ quan điều tra… bảo đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để
các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện đúng chức năng và quyền hạn của
mình.
* Giải pháp cụ thể
3.3.1 Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về phẩm chất
chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn, đồng thời cần xây dựng chế
độ tuyển dụng, bổ nhiệm, bảo đảm tiêu chuẩn, chế độ trách nhiệm, kỷ luật
đối với từng chức danh như thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên…,
quan tâm hơn nữa đến chất lượng công tác đào tạo, đến giá trị thực của
các văn bằng. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch vững mạnh.
3.3.2. Tiếp tục kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp
trên cơ sở phạm vi thẩm quyền của các cơ quan đó, trước hết là thẩm quyền của
các cấp Toà án; đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tòa án, Viện
kiểm sát trên cơ sở nâng cao hiệu quả giám sát của QH và Hội đồng nhân dân
các cấp, phải có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm cho QH, UBTVQH thực hiện việc
giám sát các quyết định của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có
hiệu lực pháp luật
3.3.3. Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội chống
Tổ quốc, chống chế độ, tội tham nhũng và các tội hình sự khác, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân. Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công khai
trong hoạt động.
25