Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Tiểu luận nghiên cứu thực trạng nhiễm giun tròn đường tiêu hóa, một số đặc điểm sinh học, bệnh học do giun dạ dày gây ra ở lợn, biện pháp phòng trị tại ba tỉnh miền núi phía bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 149 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chăn nuôi lợn ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu nông nghiệp.
Ngành chăn nuôi lợn là nguồn cung cấp một lƣợng thực phẩm lớn có giá trị dinh
dƣỡng cao cho con ngƣời và là nguồn cung cấp các sản phẩm phụ cho ngành công
nghiệp chế biến. Chủ trƣơng của nhà nƣớc hiện nay là phát triển chăn nuôi lợn
thành ngành sản xuất hàng hóa thực sự, nhằm tạo ra sản phẩm thịt có chất lƣợng
cao, không những phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nƣớc mà còn phục vụ cho
xuất khẩu.
Trong chiến lƣợc phát triển chăn nuôi đến năm 2020 đã đƣợc Thủ tƣớng
Chính phủ phê duyệt ngày 16 tháng 1 năm 2008, trong đó có chiến lƣợc phát
triển chăn nuôi lợn. Theo đó đến năm 2020, tổng đàn lợn nƣớc ta ƣớc đạt khoảng
35 triệu con, bình quân tăng 2,0% trên năm, chủ yếu tập trung phát triển tại các
vùng trọng điểm nhƣ đồng bằng sông Hồng, vùng trung du, duyên hải ven biển
miền trung và vùng Đông nam bộ. Sản lƣợng thịt xẻ các loại đạt 5500 ngàn tấn,
trong đó thịt lợn chiếm 63%. Sản lƣợng thịt xẻ trung bình đạt 56kg/ngƣời (Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2008). Để đạt đƣợc các chỉ tiêu trên, trong
những năm qua Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ chƣơng chính sách nhằm
thúc đẩy ngành chăn nuôi lợn phát triển nhƣ nâng cao chất lƣợng con giống, thức
ăn, kỹ thuật chăm sóc nuôi dƣỡng và phòng trừ dịch bệnh.
Tuy nhiên, trong những năm qua chăn nuôi lợn vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Tình hình dịch bệnh vẫn xảy ra thƣờng xuyên, ảnh hƣởng lớn đến quy mô phát
triển đàn. Cùng với những thiệt hại do các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây ra
cho đàn lợn nhƣ: dịch tả, lở mồm long móng, tai xanh… các bệnh giun tròn
đƣờng tiêu hóa của lợn cũng không kém phần gây thiệt hại cho ngƣời chăn nuôi.
Lợn bị nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hóa thƣờng gây ra các tổn thƣơng cơ học mở
đƣờng cho các vi khuẩn nội quan gây nhiễm trùng kế phát, làm tăng tiêu tốn thức
ăn, giảm tăng trọng từ 15 đến 20 % so với lợn không bị bệnh (Phạm Sỹ Lăng và
cs., 2006).
Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dƣơng Thái (1978) thì đàn lợn nuôi ở Việt
Nam nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hóa rất phong phú về chủng loại, trong đó có 5



1


loài lợn bị nhiễm với tỷ lệ cao và cƣờng độ nặng nhƣ giun đũa, giun tóc, giun
lƣơn, giun kết hạt và giun dạ dày. Các loài giun này khi lợn bị nhiễm chúng gây
ra những tác hại nhƣ: chiếm đoạt chất dinh dƣỡng của vật chủ, tiết độc tố làm cho
vật chủ còi cọc, chậm lớn, gầy yếu và sức đề kháng giảm.
Tại một số tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay, do điều kiện kinh tế còn khó
khăn, mặt bằng dân trí còn thấp, chăn nuôi lợn vẫn mang tính chất quảng canh, tận
dụng, chủ yếu theo phƣơng thức nhỏ lẻ tại các hộ gia đình, việc áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất trong chăn nuôi còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, do
phong tục tập quán chăn nuôi lợn của ngƣời dân ở vùng này chủ yếu là nuôi thả
rông. Do vậy, đàn lợn nuôi tại ba tỉnh nghiên cứu bị nhiễm giun tròn đƣờng tiêu
hóa càng nặng hơn. Điều đáng quan tâm là trong số các loài giun tròn ký sinh ở
đƣờng tiêu hóa lợn cũng là tác nhân gây bệnh cho ngƣời nhƣ: giun đũa Ascris
suum, giun tóc Trichocephalus suis, giun lƣơn Strongyloides ransomi và giun dạ
dày Gnathostoma spp.
Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về giun tròn đƣờng tiêu hóa
của lợn nhƣng chủ yếu tập trung ở các vùng khác. Tại 3 tỉnh nghiên cứu Cao
Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên chƣa có tác giả nào nghiên cứu về giun tròn
đƣờng tiêu của lợn một cách đầy đủ và toàn diện. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng
nhiễm giun tròn đƣờng hóa và đề xuất biện pháp phòng trị bệnh nhằm nâng cao
hiệu quả trong chăn nuôi lợn tại một số tỉnh miền núi phía Bắc là điều cần thiết
1.2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
- Xác định đƣợc tình hình nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hóa của lợn tại 3
tỉnh nghiên cứu. Đánh giá đƣợc tác hại của giun tròn đƣờng tiêu hóa gây ra đối
với khả năng sinh trƣởng và tình trạng sức khỏe của lợn.
- Đề xuất các biện pháp phòng trừ bệnh giun tròn đƣờng tiêu hóa ở lợn nhằm
nâng cao hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi lợn ở một số tỉnh miền núi phía Bắc

Việt Nam.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đƣợc thực hiện từ năm 2010 đến 2014, trên đàn lợn nuôi tại các
hộ nông dân của 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên.
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Đã xác định đƣợc 5 loài giun tròn đƣờng tiêu hóa lợn của ba tỉnh Cao
Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên là loài T. suis, S. ransomi, O. dentatum, A.suum và

2


G. doloresi. Trong đó loài G. doloresi mới đƣợc phát hiện tại vùng nghiên cứu.
- Xác định đƣợc tình hình nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hóa ở lợn tại ba tỉnh
nghiên cứu.
- Đã xác định đƣợc sức đề kháng của trứng giun dạ dày lợn G. doloresi đối
với một số loại hóa chất và các yếu tố ảnh hƣởng sự phát triển của trứng.
- Xác định bệnh tích đặc trƣng nhất do G. doloresi gây ra ở dạ dày lợn là
niêm mạc bị tổn thƣơng nặng, tụ huyết, xuất huyết, viêm loét tạo thành các
hang lớn.
- Đã xác định đƣợc hiệu lực tẩy giun G. doloresi của ba loại thuốc:
ivermectin 0,25%,; levamisole 7,5% và mebendazole 10%.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Xác định đƣợc thành phần loài giun tròn ký sinh ở tiêu hóa của lợn tại 3
tỉnh miền núi phía Bắc.
- Cung cấp những hiểu biết về đặc điểm sinh học của giun dạ dày và bệnh
lý lâm sàng do chúng gây ra ở lợn.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu học tập cho sinh
viên chuyên ngành chăn nuôi thú y và thú y các trƣờng Cao Đẳng và Đại học
Nông nghiệp. Làm tài liệu tham khảo cho các nhà khoa học nghiên cứu trong lĩnh

vực chăn nuôi và thú y.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Cung cấp đặc điểm dịch tễ nhiễm giun tròn đƣờng tiêu hóa ở lợn, đề xuất
các biện pháp phòng trị bệnh giun tròn đƣờng tiêu hóa của lợn đạt hiệu quả cao,
góp phần nâng cao năng suất trong chăn nuôi lợn.

3


PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số loài
giun tròn ký sinh ở đƣờng tiêu hóa lợn, những loài có tính chất phổ biến và gây tác
hại cho lợn. Còn những loài giun tròn khác chỉ đề cập mang tính chất khái quát về
thành phần loài đã đƣợc phát hiện ở Việt Nam. Do đề tài nghiên cứu về giun dạ
dày lợn cho nên chúng tôi giới thiệu vắn tắt về sinh lý tiêu hóa ở dạ dày lợn.
2.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
2.1.1. Đặc điểm giải phẫu và sinh lý dạ dày lợn
2.1.1.1. Cấu tạo dạ dày
Theo Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006), cấu tạo dạ dày lợn thuộc loại
dạ dày trung gian giữa dạ dày đơn và dạ dày kép. Dạ dày lợn đƣợc chia làm 5
vùng: vùng thực quản (nhỏ), vùng manh nang, vùng thƣợng vị, vùng thân vị và
vùng hạ vị. Trong đó vùng thực quản không có tuyến tiết dịch, vùng manh nang
và thƣợng vị có tuyến tiết ra dịch nhầy, không có men pepsin và axít HCl. Vùng
thân vị và hạ vị tiết ra men, HCl và dịch nhầy.
2.1.1.2. Đặc điểm tiêu hóa ở dạ dày lợn
Ở động vật nói chung, lợn nói riêng thức ăn khi đƣợc đƣa vào đƣờng tiêu
hóa, để cơ thể hấp thu đƣợc chất dinh dƣỡng thì thức ăn phải trải qua quá trình
tiêu hóa. Quá trình tiêu hóa thức ăn của lợn thông qua ba tác động đó là: cơ học,
hóa học và vi sinh vật học (Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996).
Hoàng Toàn Thắng và Cao Văn (2006) cho biết: HCl có vai trò rất quan

trọng trong quá trình tiêu hóa thức ăn ở trong dạ dày lợn. Để tiêu hóa đƣợc protein
trong thức ăn, HCl phải hoạt hóa pepsinnogen thành men pepsin, đồng thời làm
trƣơng nở protein trong thức ăn tạo điều kiện thuận lợi cho men pepsin tác dụng
phân giải. HCl còn tham gia vào quá trình điều chỉnh độ pH ở trong dạ dày lợn, men
pepsin hoạt động trong môi trƣờng axit với độ pH thích hợp nhất từ 1,5-2,5. Dịch vị
trong dạ dày lợn chứa men pepsin và chymosin, men pepsin có hoạt tính phân giải
mạnh, men chymosin làm ngƣng kết sữa nhanh. Cả hai men này đều có ở trong dạ
dày lợn con và lợn trƣởng thành (Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996).
Trong dạ dày lợn tinh bột cũng đƣợc tiêu hóa nhờ có men Amilaza của nƣớc
bọt và các men ở trong thức ăn thực vật, quá trình tiêu hóa bột đƣờng diễn ra khá
mạnh ở vùng manh nang và thƣợng vị. Ngoài ra tại vùng manh nang của dạ dày lợn

4


còn có quá trình lên men vi sinh vật tạo thành các axit béo. Môi trƣờng trong dạ dày
lợn là môi trƣờng toan tính, độ pH của dịch vị dạ dày lợn dao động từ 2,5-3,0
(Nguyễn Xuân Tịnh và cs., 1996; Hoàng toàn Thắng và Cao Văn, 2006)
2.1.2. Giun tròn ký sinh ở đƣờng tiêu hóa lợn đã đƣợc phát hiện trên thế giới
và ở Việt Nam
Những công trình nghiên cứu của các tác giả nƣớc ngoài đã phát hiện các
giống loài giun tròn ở đƣờng tiêu hóa lợn nhà và lợn rừng là loài Trichocephalus
suis (Schrank, 1788), Oesophagostomum dentatum (Rudolphi, 1803),
Oesophagostomum brevicaudatum (Shwartz et Alicata, 1930), Oesophagostomum
longicaudum

(Goodey,

1925),


Ascarops

strongylina

(Rudolphi,

1819),

Physocephalus sexalatus (Molin, 1861), Globocephalus longemucronatus (Molin,
1861), Globocephalus ursubulatus (Alessandrini, 1909), Strongyloides ransomi
(Schwartz et Alicata, 1930) Strongyloides papillosus (Wedl, 1856), Ascaris suum
(Goeze, 1782), Gnathostoma doloresi (Tubangui, 1925), Gnathosma hispidum
(Fedtschenko, 1872) (dẫn theo Phan Thế Việt và cs., 1977).
Ở Việt Nam, theo Phan Thế Việt và cs. (1977), Nguyễn Thị Lê và cs.
(1996) đã phát hiện và thống kê đƣợc 27 loài giun tròn ký sinh ở lợn, trong đó có
18 trên 27 loài (chiếm 66,7%) ký sinh ở đƣờng tiêu hóa, gồm: 1. Ký sinh ở dạ
dày: Ascarops strongylina, A. dentata; Physocephalus sexalatus, Gnathostoma
doloresi, G. hispidum, Simodsia paradoxa; 2. Ký sinh ở ruột: Trichocephalus
suis, Trichinella spiralis, Strongyloides papillosus, S. ransomi, Globocephalus
longesmusculatus, G. urosubulotus, Raillietostrongylus samoensis, Bourgelatia
diducta, Oesophagostomum dentatum, O. brevicaudatum, O. longicaudum,
Pseudocruzia orientalis.
2.1.2.1. Loài giun đũa Ascaris suum Goeze (1782)
* Lịch sử phát hiện
Goeze (1782) lần đầu tiên phát hiện đƣợc giun tròn Ascaris suum ký sinh
ở lợn nhà và lợn rừng.
* Đặc điểm sinh học
- Vị trí của Ascaris suum (giun đũa) lợn trong hệ thống phân loại động vật
Theo Phan Thế Việt và cs. (1977), Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) thì vị trí
của giun đũa lợn trong hệ thống phân loại động vật nhƣ sau:

Lớp Nematoda Rudolphi, 1808

5


Phân lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Ascaridida Skrjabin et Schulz, 1940
Phân bộ Ascaridata Skrjabin, 1915
Họ Ascaridae Baird, 1853
Giống Ascaris Linnaeus, 1758
Ascaris ovis Rudolphi, 1819
Loài Ascaris suum Goeze, 1782
- Đặc điểm hình thái
Những nghiên cứu của Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), Nguyễn Thị
Lê và cs. (1996) cho rằng, giun đũa lợn có màu trắng sữa, hình ống, hai đầu hơi
nhọn. Đầu giun đũa có 3 môi bao quanh miệng, 1 môi ở phía lƣng và 2 môi ở
phía bụng. Trên rìa môi có một hàng răng cƣa, cấu tạo của răng cƣa này khác
nhau giữa hai loài giun đũa, hàm răng cƣa ở môi giun đũa ngƣời không rõ bằng
răng cƣa của giun đũa lợn. Giun đực dài 12-25cm, đƣờng kính 3mm. Giun cái dài
từ 30-35cm, đƣờng kính 5-6mm. Trứng hình bầu dục hơi ngắn, kích thƣớc 0,0560,087 x 0,046-0,067mm, vỏ dày gồm 4 lớp, lớp vỏ ngoài là màng protit, màu
cánh dán, nhấp nhô làn sóng. Phân biệt giun đực và giun cái: giun đực có kích
thƣớc nhỏ, đuôi cong về mặt bụng, giun cái to hơn đuôi thẳng. Giun đực có hai
gai giao hợp dài bằng nhau, dài khoảng 1,2-2mm, không có túi giao hợp.
* Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của A. suum

Hình 2.1. Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của giun đũa lợn A. suum
Nguồn: Goeze (1782)

6



1. Lát cắt ngang đỉnh đầu, 2. Phần đuôi con đực, 3. Trứng (theo Mozgovoy, 1960)
- Vòng đời

Ascaris suum

Phân

Ký sinh ở ruột non lợn)

Trứng

t0, A0, pH

Trứng
(có khả năng gây
nhiễm)

Lợn nuốt
vào đƣờng
tiêu hóa
Phổi<-Gan<-Máu<-Niêm mạc ruột
Ấu trùng
0

0

0

Chú thích: t = 15-35 C; A = 80-95%; pH = 7-8

Sơ đồ 2.1. Vòng đời giun đũa lợn A. suum
Nguồn: Nguyễn Thị Kim Lan (2012)

Theo Phan Lục (2006), giun đũa ký sinh ở ruột non lợn. Sau khi thụ tinh,
giun cái đẻ khoảng 200.000 trứng trên một ngày đêm. Trứng theo phân ra môi
trƣờng ngoài, gặp ẩm độ thích hợp ở nhiệt độ từ 20oC-30oC, sau 2-3 tuần sẽ phát
triển thành trứng có sức gây nhiễm. Nếu lợn nuốt phải trứng có sức gây nhiễm, ở
đƣờng tiêu hoá ấu trùng đƣợc giải phóng ra và xuyên qua niêm mạc ruột, theo hệ
tuần hoàn vào gan. Sau 4-5 ngày ấu trùng đi tới phổi tiến hành lột xác, sau đó từ
phế nang vào khí quản cùng với niêm dịch lên hầu và đƣợc nuốt trở lại đƣờng tiêu
hóa, đến ruột non lột xác lần cuối phát triển thành giun trƣởng thành. Giun ký
sinh ở ruột non và tiếp tục đẻ trứng sau 2-2,5 tháng.
- Dịch tễ học
Những biến động về tỷ lệ nhiễm giun đũa theo lứa tuổi, tác giả Phan
Địch Lân và cs. (2005) cho biết: tỷ lệ lợn nhiễm giun đũa tăng dần từ dƣới 2
tháng đến 7 tháng tuổi, sau đó tỷ lệ nhiễm giảm dần. Lợn con dƣới 2 tháng tuổi
tỷ lệ nhiễm 39,2%, lợn 3 - 4 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 48,0%, lợn 5-7 tháng tuổi tỷ
lệ nhiễm 48,3%, trên 8 tháng tuổi tỷ lệ nhiễm 24,9%. Do vậy, nắm đƣợc sự biến
động nhiễm giun đũa theo tuổi để làm cơ sở cho kế hoạch tẩy trừ giun đũa và
phòng bệnh.

7


- Tác hại
Theo các tác giả Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), Chu Thị Thơm và
cs. (2006), Lê Văn Năm (2010), Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) thì quá trình sinh
bệnh của giun đũa gắn liền với chu trình phát triển sinh học của cả ấu trùng và
giun trƣởng thành xảy ra ngay trong cơ thể vật chủ.
Trứng có sức gây nhiễm sau khi vào trong đƣờng tiêu hóa của lợn đến

ruột non, ấu trùng đƣợc giải phóng ra bám chặt vào niêm mạc ruột và phá vỡ
cấu trúc niêm mạc ruột lợn. Từ ruột ấu trùng theo máu tới gan, gây xuất huyết
gan và gây ra phản ứng bảo vệ của cơ thể vật chủ bằng việc tập trung các tế bào
bạch cầu ái toan, tế bào viêm và mô liên kết, tạo ra các nốt trắng xám ở trong
gan và các bề mặt gan làm ảnh hƣởng đến chức năng gan. Từ gan ấu trùng theo
máu đến tim, phổi gây xuất huyết phổi, viêm phổi, làm cho chức năng hô hấp
của phổi bị rối loạn.
Trong ruột, giun đũa phá hủy niêm mạc ruột gây ra viêm ruột, tạo điều
kiện cho các nhiễm trùng thứ phát, đồng thời làm cho quá trình đồng hóa và dị
hóa bị phá vỡ. Trong nhiều trƣờng hợp, giun gây tắc ruột cơ học, chƣớng hơi,
thậm chí thủng ruột và dẫn đến viêm phúc mạc cấp tính làm cho lợn bị tử vong.
Một số trƣờng hợp khác, giun chui vào ống mật, ống dẫn tụy làm tắc nghẽn mật,
dịch tụy, gây viêm cục bộ làm cho lợn bị đau đớn và có thể chết đột tử.
Độc tố do giun tiết ra còn phá hủy các chức năng của các men tiêu hóa,
các vitamin và các chất xúc tác khác khiến cho quá trình trao đổi chất bị rối loạn
hoặc bị phá vỡ. Do vậy, lợn bị nhiễm giun trở nên còi cọc, giảm khả năng kháng
bệnh và dễ mắc các bệnh thứ phát truyền nhiễm khác…
- Chẩn đoán
Đối với con vật còn sống: kiểm tra phân bằng phƣơng pháp phù nổi tìm
trứng giun. Có thể chẩn đoán bằng phản ứng biến thái nội bì (dùng kháng nguyên
pha loãng tỷ lệ 1: 200 tiêm nội bì vành ngoài tai hoặc nhỏ vào xoang kết mạc
mắt) phƣơng pháp chẩn đoán này hiệu quả rất cao, không gây phản ứng chéo với
lợn nhiễm các loài giun khác, có kết quả dƣơng tính sau khi lợn nhiễm giun đũa
từ 8 - 11 ngày.
Đối với con vật chết: mổ khám để tìm giun trƣởng thành, ấu trùng và kiểm
tra bệnh tích. Lợn dƣới 2 tháng tuổi: mổ khám tìm ấu trùng giun ở phổi và gan vì
giai đoạn này giun chƣa đẻ (Nguyễn Thị Kim Lan, 2012).

8



- Phòng trị
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) thì phòng bệnh giun đũa lợn
cần phải thực tốt các biện pháp sau: tẩy giun cho lợn 4 tháng một lần. Thực hiện
tốt vệ sinh chuồng trại, môi trƣờng, hạn chế khả năng lây nhiễm trứng cho lợn,
định kỳ tẩy uế chuồng trại bằng dung dịch NaOH 3% hoặc nƣớc nóng để diệt
trứng giun. Thu gom phân, chất thải đem ủ để diệt trứng giun, xử lý nƣớc thải
trƣớc khi thải ra môi trƣờng. Thức ăn, nƣớc uống phải đảm bảo sạch không bị ô
nhiễm trứng giun. Khẩu phần ăn phải đầy đủ chất dinh dƣỡng, cân đối, phù hợp
với từng lứa tuổi và nâng cao sức đề kháng cho lợn.
Các tác giả Phạm Khắc Hiếu và Lê Thị Ngọc Diệp (1997), Phạm Đức
Chƣơng và cs. (2003) Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) thông báo: có nhiều loại thuốc
tẩy trừ có hiệu lực cao đối với giun đũa. Các loại thuốc đƣợc sự dụng rộng rãi
nhất là: piperazin, mebendazol, albendazol, levamizol, ivermectin… thuốc có tác
dụng trị giun đũa ở các thời kỳ khác nhau: giun trƣởng thành, trứng và ấu trùng
đạt hiệu quả cao. Thuốc piperazin, liều 250 - 300 mg/kg thể trọng, pha vào nƣớc
cho uống hoặc trộn vào thức ăn cho lợn, hiệu lực tẩy sạch đạt 90-100% (Bùi Thị
Tho, 2003). Thuốc mebendazol, liều 20mg/kg thể trọng, trộn vào thức ăn hoặc
cho lợn uống có hiệu quả tẩy giun đũa đạt cao (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2011). Tác
giả Nguyễn Thị Kim Lan (2012) cho biết, thuốc ivermectin, liều 0,2 mg/kg thể
trọng, tiêm dƣới da cho lợn 1-2 lần, cách nhau 2 ngày có hiệu lực tẩy sạch giun
đũa đạt trên 90%.
2.1.2.2. Giun tóc Trichocephalus suis Schrank (1788)
* Đặc điểm sinh học
- Vị trí của Trichcephalus suis (giun tóc) lợn trong hệ thống phân loại
động vật.
Theo Phan Thế Việt và cs. (1977), Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) thì vị trí
của giun tóc lợn trong hệ thống phân loại động vật nhƣ sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933

Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928
Họ Trichocephalidea Baird, 1953

9


Phân họ Trichocephalinae Ransom, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank,1788
- Đặc điểm hình thái
Theo Phan Địch Lân và cs. (2005), Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) thì giun
tóc có hình sởi tóc, màu trắng. Cơ thể chia thành hai phần rõ rệt. Phần trƣớc nhỏ
nhƣ sợi tóc, dƣới lớp biểu bì là thực quản, thực quản có các hạt tế bào xếp thành
chuỗi hạt, phần này dài tới hai phần ba cơ thể. Phần sau ngắn và to, bên trong là
ruột và cơ quan sinh sản.
Giun đực cơ thể dài 20-52mm, đuôi hơi tù, phần đuôi cuộn tròn lại. Chỉ có
một gai giao hợp dài 5-7mm, đƣợc bọc một lớp màng có nhiều gai nhỏ bao phủ.
Giun cái dài 39-53mm, đuôi thẳng. Âm hộ ở đoạn cuối của thực quản. Trứng
giun tóc hình hạt chanh màu vàng nhạt, kích thƣớc 0,052-0,061 x 0,027-0,03mm.
* Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của T. suis

Hình 2.2. Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của giun T. suis
Nguồn: Schrank (1788)
1. vùng lỗ sinh dục; 2. đuôi con đực; 3. gai giao phối;
4. đuôi con cái; 5. gốc gai và mút gai giao phối (theo Skrjabin et al., 1975)

10



- Vòng đời
Trichocephalus suis
(manh tràng)

Phân

Trứng

t0, A0, pH

Trứng
(có sức gây nhiễm)
Lợn nuốt
vào đƣờng
tiêu hóa

Cắm sâu đầu vào niêm mạc ruột
Ấu trùng
Sơ đồ 2.2. Vòng đời của giun tóc ở lợn T. suis
Chú thích: (t0 = 18 - 300C; A0 = 80 - 85%, pH = 7 - 8)
Nguồn: Nguyễn Thị Kim Lan (2012)

Các tác giả Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006), Nguyễn Thị Kim Lan (2012) cho
biết, giun tóc phát triển không cần vật chủ trung gian. Giun cái đẻ trứng trong
ruột già của vật chủ. Trứng theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ
18-300C, ẩm độ 80-85%) sau 15-28 ngày sẽ phát triển thành trứng có sức gây
nhiễm. Lợn nuốt phải trứng có sức gây nhiễm qua thức ăn nƣớc uống sẽ bị nhiễm
giun tóc. Khi trứng giun tóc có sức gây nhiễm vào ruột lợn sẽ nở ra ấu trùng, ấu
trùng tiếp tục phát triển thành giun trƣởng thành. Thời gian hoàn thành vòng đời
của giun tóc từ 30-52 ngày.

- Dịch tễ học
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) thì giun tóc ở lợn rất phổ biến,
qua kết quả mổ khám ở 7 tỉnh miền Bắc và miền Trung cho thấy tỷ lệ nhiễm từ
12,5-40,3%, với cƣờng độ nhiễm cao có trƣờng hợp thấy 1219 con giun tóc ở
ruột già của 1 lợn.
Bệnh giun tóc thƣờng xảy ra đối với lợn dƣới 6 tháng tuổi. Lợn nái và lợn
trƣởng thành nhiễm giun nhẹ hơn, ít thể hiện triệu chứng lâm sàng (Phạm Sỹ
Lăng và cs., 2009).
Nguyễn Thị Kim Lan (2011), khi nghiên cứu tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm
giun T. suis theo tuổi lợn ở Thái Nguyên đã kết luận rằng: trong 2016 lợn đƣợc
kiểm tra, không có lợn nào dƣới 1 tháng tuổi nhiễm T. Suis. Lợn 1-2 tháng tuổi
nhiễm 26,99%; lợn 2-4 tháng tuổi nhiễm 46,35%; lợn 4-6 tháng tuổi nhiễm

11


35,65%; lợn trên 6 tháng tuổi nhiễm 23,47%. Cƣờng độ nhiễm nặng ở lợn từ 1-2
tháng tuổi là 6%; lợn từ 2-4 tháng tuổi là 17%; lợn từ 4-6 tháng tuổi là 9%;
không có lợn nào trên 6 tháng tuổi bị nhiễm nặng.
Jarvis and Magi (2007) khi nghiên cứu về nội ký sinh trùng ở lợn tại một
trang trại nuôi lợn rừng ở Estonia cho thấy, tỷ lệ nhiễm giun tóc T. suis tƣơng đối
nặng, chiếm 21%.
- Tác hại
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2011) thì giun tóc ký sinh và gây bệnh ở ruột già
của lợn, đặc biệt là manh tràng và kết tràng. Trong quá trình gây bệnh ngoài tác động
chiếm đoạt dinh dƣỡng, giun tóc còn tạo nên các nốt loét ở niêm mạc ruột già
+ Tác hại cơ giới: phần đầu của giun cắm sâu vào thành ruột gây tổn
thƣơng, làm niêm mạc ruột già bị viêm và xuất huyết, gây rối loạn tiêu hóa, làm
cho lợn mắc hội chứng hồng lị (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2011).
+ Tác hại mang trùng: giun tóc ký sinh gây tổn thƣơng cơ học, tạo điều kiện

cho các nhân tố khác xâm nhập (xoắn khuẩn, phẩy khuẩn). Giun tóc thải ra độc tố
làm cho lợn bị trúng độc gầy còm, thiếu máu (Đào Trọng Đạt và cs., 1996).
Các tác giả Dwight and Bowman (1995), Phan Địch Lân và cs. (2005) cho
biết, lợn bị nhiễm giun tóc nặng thƣờng kém ăn, gầy yếu, thiếu máu, tiêu chảy,
kiết lỵ, phân có lẫn máu và mất nƣớc. Trên niêm mạc ruột đặc biệt là manh tràng
có nhiều nốt loét, sần sùi, xuất huyết, niêm mạc bong tróc từng mảng, ảnh hƣởng
đến quá trình sinh trƣởng và phát triển của lợn.
- Chẩn đoán
Tác giả Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) cho biết: để chẩn đoán giun tóc thì
dựa vào triệu chứng lâm sàng, lợn từ 1 đến 4 tháng tuổi bị nhiễm giun tóc thƣờng
có hội chứng lị. Xét nghiệm phân bằng phƣơng pháp phù nổi để tìm trứng giun.
Có thể mổ khám tìm giun trƣởng thành và kiểm tra bệnh tích ở ruột già.
- Phòng trị
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006), Nguyễn Thị Kim Lan (2011) thì việc
phòng bệnh giun tóc cần phải đƣợc thực hiện thƣờng xuyên ở chuồng trại và khu
chăn nuôi để hạn chế sự phát tán trứng giun. Định kỳ tẩy giun tóc cho lợn con
giai đoạn từ 2 đến 4 tháng tuổi. Trong các cơ sở chăn nuôi bị nhiễm bệnh, cần sự
dụng các hóa chất phun vào chuồng trại theo định kỳ nhƣ: dung dịch cresyl 3%,

12


nƣớc vôi 10% để diệt trứng giun. Phân và các chất thải của lợn phải đƣợc ủ bằng
phƣơng pháp nhiệt sinh học.
Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) cho biết: có thể dùng thuốc mebendazol để
tẩy giun tóc cho lợn, liều 5 mg/kg thể trọng, trộn vào thức ăn, cho lợn ăn một lần
duy nhất, cho kết quả điều trị tốt.
Thuốc ivemectin liều 0,2mg/kg thể trọng dùng để tẩy giun tóc cho lợn,
thuốc có hiệu lực tẩy đạt kết quả cao (Nguyễn Thị Kim Lan, 2012).
2.1.2.3. Giun kết Oesophagostomum dentatum Rudolphi (1803)

* Đặc điểm sinh học
- Vị trí của Oesophagostomum dentatum (giun kết hạt) lợn trong hệ thống
phân loại động vật.
The Phan Thế Việt và cs. (1977), Nguyễn Thị Lê và cs. (1996), vị trí của
giun kết hạt lợn trong hệ thống phân loại động vật nhƣ sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz, 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz, 1928
Họ Trichostrongydae Witenberg 1925
Phân họ Oesophagostomatinae Railliet, 1916
Giống Oesophagostomum Molin, 1788
Loài Oesophagostomum dentatum Rudolphi, 1803
Loài Oesophagostomum brevicaudatum
Shwartz et Alicata,1930
Loài Oesophagostomum longicaudum Goodey, 1925
- Đặc điểm hình thái
Tác giả Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) đã mô tả: các loài thuộc
giống O. dentatum có đặc điểm hình thái chung là không có cánh đầu. Túi miệng
nông, có 9 tua ngoài và 18 tua trong, túi đầu to, gai cổ ở hai bên chỗ phình to của
thực quản. Giun đực cơ thể dài 8-9 mm x 0,14-0,38 mm, có túi đuôi. Sƣờn bụng
song song nhau, sƣờn lƣng chia thành sƣờn lƣng ngoài và sƣờn lƣng trong. Sƣờn
lƣng trong lại chia thành hai nhánh, có hai gai giao hợp dài 1,00-1,14mm. Giun

13


cái dài 8-11,2mm, đuôi dài 0,117-0,374mm, âm hộ ở trƣớc hậu môn, cách hậu
môn 0,208-0,388mm, âm đạo vòng về trƣớc, dài 0,1-0,15mm hơi xuyên vào cơ
quan thải trứng.

* Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của O. dentatum

Hình 2.3. Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của O. dentatum
Nguồn: Rudolphi (1803)
1. phần trƣớc cơ thể; 2. phần đầu cơ thể; 3. đuôi con cái;
4. mút và gốc gai giao phối; 5. gai điều chỉnh; 6. túi đuôi
(mặt lƣng); 7. nón sinh dục. (theo Popova, 1958).

- Vòng đời
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012), vòng đời của giun kết hạt không cần
vật chủ trung gian. Trứng có kích thƣớc 70-74 x 40-42m, gồm 8-16 phôi bào, sau
7-10 giờ ở ngoại cảnh, trứng nở thành ấu trùng giai đoạn I, sau 24 giờ ở nhiệt độ
22-240C ấu trùng giai đoạn I phát triển thành ấu trùng giai đoạn II, sau 2 ngày ở
ngoại cảnh ấu trùng giai đoạn II phát triển thành ấu trùng giai đoạn III là ấu trùng
cảm nhiễm. Nhƣ vậy, ấu trùng giun kết hạt phải trải qua hai lần biến thái để trở
thành ấu trùng có sức gây bệnh. Ấu trùng theo thức ăn, nƣớc uống vào đƣờng tiêu
hóa của lợn, chui qua niêm mạc ruột và tạo thành các hạt ở trên thành ruột, sau đó

14


ra xoang ruột phát triển giun trƣởng thành. Tuổi thọ của giun kết hạt lợn từ 8-10
tháng. Thời gian hoàn thành vòng đời giun kết hạt lợn từ 24-43 ngày.
Oesophagostomum
dentatum
(ruột già, kết tràng)

Phân

t0, A0, pH

Trứng

Ấu trùng giai
đoạn 1

Ấu trùng giai
đoạn 2

Ấu trùng giai
đoạn 3
Lợn nuốt
vào đƣờng tiêu hóa

Ấu trùng giai đoạn 5
(phát triển trong xoang ruột)

Lợn

Ấu trùng giai đoạn 4
(trong u kén ở thành ruột)

Sơ đồ 2.3. Vòng đời của giun kết hạt ở lợn O. dentatum
Chú thích: (t0 = 25 - 270C; A0 = 75 - 80%, pH = 7 - 8)
Nguồn: Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996)

- Dịch tễ học
Phan Địch Lân và cs. (2005) cho biết, tỷ lệ nhiễm giun kết hạt ở lợn tăng
dần theo tuổi, do lợn con có sức đề kháng tốt đối với giun kết hạt nên tỷ lệ nhiễm
thấp. Tuy ấu trùng gây nhiễm vào đƣờng tiêu hóa của lợn con, nhƣng không gây
ra những u kén ở ruột, ngƣợc lại đối với lợn lớn sau khi ấu trùng gây nhiễm xâm

nhập vào đƣờng tiêu hóa thì chúng gây bệnh rất nặng và trên ruột có rất nhiều u
kén. Thời gian sống của O. dentatum ở trong đƣờng tiêu hóa lợn tƣơng đối dài từ
8-10 tháng. Quá trình truyền lây giun này còn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
nhƣ nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng… ở mỗi vùng.
Ấu trùng giun kết hạt xuyên qua niêm mạc ruột lợn tạo thành những hạt hay
gọi là u kén, gây ỉa chảy, con vật bị kiết lị, phân có màng nhầy, đôi khi có máu,
niêm mạc ruột sung huyết, thủy thũng. Lợn kém ăn, thiếu máu, niêm mạc nhợt
nhạt, lợn con chậm lớn, lợn sinh sản giảm khả năng sinh đẻ. Lợn bị nhiễm giun
kết hạt nặng sẽ gầy dần và chết (Phạm Sỹ Lăng và cs., 2011).

15


- Chẩn đoán
Xét nghiệm phân để tìm trứng giun kết hạt, nhƣng phƣơng pháp này độ
chính xác không cao vì trứng giun kết hạt giống trứng các loại giun xoăn khác dễ
bị nhầm. Có thể nuôi trứng nở thành ấu trùng và kiểm tra trên kính hiển vi để xác
định hình thái, cấu tạo của ấu trùng. Mổ khám kiểm tra bệnh tích thấy các u kén
ở thành ruột và có giun ở bên trong (Phạm Văn Khuê và Phan Lục, 1996;
Nguyễn Thị Kim Lan, 2012).
- Phòng trị
Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) cho biết: phòng bệnh giun kết hạt cho lợn, cần
phải thực hiện các biện pháp phòng trừ tổng hợp, định kỳ tẩy giun cho lợn 3 đến
4 lần trên năm. Giữ vệ sinh chuồng trại và môi trƣờng, đảm bảo nguồn thức ăn,
nƣớc uống không bị ô nhiễm trứng giun. Phân lợn phải đƣợc ủ để diệt trứng và
ấu trùng giun. Nếu cơ sở chăn nuôi lợn có bệnh cần cho lợn uống phenothiazin
để phòng bệnh, thuốc Phenothiazin uống liên tục liều thấp có thể hạn chế giun
kết hạt đẻ trứng.
Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006) cho biết, có thể dùng levamisole liều 1215mg/kg thể trọng để tẩy giun kết cho lợn đạt hiệu quả tốt. Dùng ivermectin liều
0,2 mg/kg thể trọng cho kết quả tẩy trừ khả quan và an toàn.

2.1.2.4. Giun lươn Strongyloides ransomi Schwartz et Alicata (1930)
* Đặc điểm sinh học
- Vị trí của Strongyloides ransomi (giun lươn) lợn trong hệ thống phân loại
động vật.
Theo Phan Thế Việt và cs. (1977), Nguyễn Thị Lê và cs. (1996), vị trí của
giun lƣơn lợn trong hệ thống phân loại động vật nhƣ sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Rhabditida Chitwood, 1933
Phân bộ Rhabditina Chitwood, 1933
Họ Strongyloididae Chitwood et McInstosch, 1934
Giống Strongyloides Grassi, 1879
Loài Strongyloides papillosus Wedl, 1856
Loài Strongyloides ransomi Schwartz et Alicata, 1930

16


- Đặc điểm hình thái
Các tác giả Nguyễn Thị Lê và cs. (1996), Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) cho
biết: ở Việt Nam có hai loài giun lƣơn ký sinh ở lợn. Loài S. ransomi (Schwartz et
Alicata, 1930) ký sinh ở ruột non lợn. Giun đực hình sợi, dài 0,87-0,90mm, lỗ huyệt
cách nút đuôi 0,07mm. Giun cái dài 2,1-4,2mm rộng 0,04-0,08mm. Lỗ sinh dục ở
1/3 phần sau cơ thể, cách mút đuôi là 0,36-1,53mm, hai buồng trứng là các ống
mỏng xuất phát gần lỗ sinh dục, một buồng trứng hƣớng lên phía đầu cơ thể, buồng
còn lại hƣớng phía đuôi. Tử cung chứa nhiều trứng, trứng có kích thƣớc 0,0370,060 x 0,025-0,042mm. Trứng hình thành ấu trùng ở bên trong.
Loài S. papillosusus (Wedl, 1856). ký sinh ở ruột non của bò và lợn, con
đực chƣa đƣợc mô tả, con cái hình chữ S, dài 4,8-6,3mm, rộng 0,042-0,078mm, lỗ
miệng có 4 môi (1 môi lƣng, 1 môi bụng và 2 môi bên), thực quản dài 0,7701,029mm, lỗ sinh dục có rãnh ngang, cách mút đuôi 1,8-2,3mm, hai bên có mấu
lồi kitin, đầu 2 buồng trứng rất gần lỗ sinh dục, một buồng chạy về phía trƣớc,

một buồng chạy về phía sau cơ thể. Tử cung chứa 4-75 trứng. Trứng có vỏ mỏng
và phẳng, kích thƣớc 0,048-0,060mm x 0,025-0,036mm.
* Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của S. ransomi

Hình 2.4. Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của giun lươn S. ransomi
Nguồn: Schwartz et Alicata (1930)
1. Phần đầu giun đực; 2. Cơ thể giun cái; 3. Đuôi giun cái (theo Schwartz et Alicata)

17


- Vòng đời
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) thì giun lƣơn cái đẻ trứng ở
ruột non, trứng theo phân ra ngoài đã có ấu trùng ở bên trong và đƣợc phát triển
theo hai hƣớng:
+ Trực tiếp: vào mùa hè ở nhiệt độ 20-300C sau 5-6 giờ trứng nở ra ấu
trùng. Sau 2-3 ngày ở nhiệt độ 25-300C, ấu trùng phát triển thành ấu trùng
cảm nhiễm.
+ Gián tiếp: ấu trùng phát triển ở ngoại cảnh thành giun đực và giun cái.
Sau giao phối, giun cái đẻ ra trứng có ấu trùng, ấu trùng có sức gây nhiễm ở
hƣớng phát triển trực tiếp hay gián tiếp hoàn toàn giống nhau, ấu trùng có chiều
dài 0,6-0,7mm, thực quản hình ống dài, không có chỗ phình to. Ấu trùng này vào
cơ thể ký chủ theo hai đƣờng:
. Chui qua da vào tổ chức liên kết vào đến cơ, theo máu về phổi, ấu trùng
chui qua mạch máu vào chi nhánh khí quản, theo đờm lên hầu rồi đƣợc nuốt
xuống ruột non, sau 6-8 ngày thì phát triển thành giun lƣơn trƣởng thành.
Qua đƣờng tiêu hoá, ấu trùng lẫn vào thức ăn, nƣớc uống vào đƣờng tiêu
hoá thì chui qua niêm mạc dạ dày vào mạch máu, đi đến phổi theo niêm dịch lên
hầu rồi đƣợc nuốt xuống đƣờng tiêu hóa và phát triển thành giun trƣởng thành.
Tuổi thọ của giun lƣơn ở gia súc non khoảng 5-9 tháng.

Giun lƣơn
ký sinh


Trứng

Ấu trùng
(giai đoạn 1)

Giun lƣơn
ký sinh ♀

♀x♂

Trứng

Ấu trùng
gây nhiễm
(giai đoạn 3)

Ấu trùng
(Giai đoạn 1)

Trứng

Ấu trùng
gây nhiễm
(giai đoạn 3)

Ấu trùng

giun lƣơn
Sơ đồ 2.4. Vòng đời giun lươn Strongyloides sp
Nguồn: Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996)

18


Nghiên cứu gây nhiễm thực nghiệm ấu trùng giun lƣơn S. ransomi có sức
gây bệnh qua đƣờng tiêu hóa và qua da của lợn ở tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Thị
Kim Lan và cs. (2010), đã xác định đƣợc thời gian hoàn thành vòng đời của
S.ransomi ở lợn là 7-8 ngày và 10-11 ngày. Tác giả nhận xét rằng, thời gian giun
lƣơn hoàn thành vòng đời trong cơ thể lợn ngắn chỉ 7-11 ngày, khi nhiễm qua da
thời gian này chậm hơn nhiễm qua đƣờng tiêu hóa. Số trứng giun lƣơn thải ra tỷ
lệ thuận với số ấu trùng đã gây nhiễm cho lợn. Tuy nhiên, lợn gây nhiễm thải
trứng giun lƣơn liên tục, số lƣợng biến động theo thời gian không nhiều.
- Dịch tễ học
Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2011), lợn con đang trong thời kỳ sinh trƣởng
mạnh dễ bị bệnh và bệnh phát triển nhanh hơn, nặng hơn so với lợn trƣởng thành.
Lợn trƣởng thành biểu hiện lâm sàng ít hơn. Song chúng là nguồn mang trùng và
là nguồn bệnh nguy hiểm nhất cho lợn con.
Đoàn Thị Phƣơng và cs. (2010) đã nghiên cứu sự biến động nhiễm giun
lƣơn S. ransomi theo tuổi lợn ở tỉnh Thái Nguyên kết quả nhƣ sau: lợn dƣới 1
tháng tuổi nhiễm 58,09%; lợn từ 1-2 tháng tuổi nhiễm 56,64%; lợn từ 2-4 tháng
tuổi nhiễm 46,97%; Lợn từ 4-6 tháng tuổi nhiễm 35,21%; lợn trên 6 tháng tuổi
nhiễm 20,22%.
- Tác hại
Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) cho biết, quá trình sinh bệnh, ngoài tác
động chiếm đoạt chất dinh dƣỡng của lợn, giun lƣơn còn gây tác hại nặng cho lợn
thông qua các tác động cơ giới, tác động độc tố và tác động mang trùng. Ấu trùng
giun lƣơn chui vào mạch máu của phổi, đến các phế nang, làm tổn thƣơng tổ

chức các cơ quan, gây viêm phổi. Giun trƣởng thành sống trong niêm mạc ruột
non gây viêm ruột, rối loạn tiêu hóa. Trong quá trình sống ký sinh, giun lƣơn còn
tiết ra độc tố làm lợn bị trúng độc, gầy còm, thiếu máu, rối loạn tiêu hóa. Ấu
trùng giun lƣơn chui vào niêm mạc ruột gây tổn thƣơng, phá vỡ tuyến phòng vệ.
Khi ấu trùng xuyên qua da để lại các vết ban đỏ trên da, tạo điều kiện cho các vi
khuẩn từ môi trƣờng ngoài xâm nhập vào cơ thể, gây nên các bệnh ghép khác với
bệnh giun lƣơn.
Theo Johanes (1996) thì lợn bị nhiễm giun lƣơn thƣờng bị viêm ruột, ỉa chảy
có lẫn máu, có thể bị chết do mất nƣớc. Khi mổ khám lợn thấy xác chết gầy còm,

19


nhợt nhạt, xoang bao tim và xoang ngực tích nƣớc màu vàng. Gan màu vàng nhạt,
có nhiều điểm trắng trên bề mặt gan, ruột non viêm cata và xuất huyết.
- Chẩn đoán
Các tác giả Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006), Nguyễn Thị Kim Lan (2012) cho
biết, do kích thƣớc của giun rất nhỏ nên phải có kỹ thuật mổ khám và thu thập giun
tốt mới thấy đƣợc giun lƣơn. Vì vậy, phƣơng pháp chẩn đoán chủ yếu là xét nghiệm
phân bằng phƣơng pháp phù nổi để tìm trứng giun lƣơn đối với phân lợn mới thải và
phân ly ấu trùng bằng phƣơng pháp Baerman đối với phân thải sau 5 - 6 giờ.
- Phòng trừ
Theo Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), Phạm Sỹ Lăng và cs. (2011) thì
biện pháp phòng bệnh giun lƣơn cho lợn hiệu quả nhất là thực hiện tốt công tác
vệ sinh thú y nhƣ: giữ cho chuồng trại luôn khô ráo, thông thoáng có thể hạn chế
sự tồn tại của ấu trùng giun lƣơn. Định kỳ sử dụng thuốc diệt trùng nhƣ cresyl
5%; dung dịch NaOH 3% để diệt ấu trùng giun. Ở các cơ sở chăn nuôi có mầm
bệnh, có thể sử dụng một trong các dƣợc liệu đặc hiệu để tẩy dự phòng cho lợn
nái trƣớc khi đẻ và cho lợn con từ 7-10 ngày tuổi. Cần phải khử trùng trƣớc khi
cho lợn nái vào chuồng đẻ. Thực hiện công tác ủ phân bằng phƣơng pháp nhiệt

sinh học để diệt trứng giun lƣơn.
Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006) cho biết, có thể dùng levamisole liều 7,5 mg/kg
thể trọng để tẩy giun lƣơn cho lợn đạt hiệu quả tốt. Dùng ivermectin liều 0,3 mg/kg
thể trọng, tiêm cho lợn mẹ từ 1-2 tuần trƣớc khi đẻ, thuốc dùng 2 liều, mỗi liều
cách nhau 1-2 ngày, để ngăn chặn sự lây nhiễm từ lợn mẹ sang lợn con.
Bùi Thị Tho (2003), có thể dùng mebendazole liều 1mg/kg thể trọng trộn
với thức ăn theo tỷ lệ 30‰, liên tục 10 ngày cho hiệu quả điều trị tốt. Dùng
albendazole liều phòng ngừa 5mg/kg thể trọng cho uống hoặc trộn vào thức ăn
với nồng độ 30‰, dùng liên tục trong 5-10 ngày, có thể ngăn chăn đƣợc sự cảm
nhiễm của giun lƣơn.
2.1.2.5. Giun dạ dày lợn
* Đặc điểm sinh học
- Vị trí của giun dạ dày lợn trong hệ thống phân loại động vật.
Theo Phan Thế Việt và cs. (1977), Nguyễn Thị Lê và cs. (1996), vị trí của
giun dạ dày lợn trong hệ thống phân loại động vật nhƣ sau:

20


Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Rhabditia Pearse, 1942
Bộ Spirurida Chitwood, 1933
Phân bộ Spirurina Railliet, 1914
Liên họ Spiruroidea Railliet et Henry, 1915
Họ Spiruridae Oerley, 1885
Giống Ascarops Benneden, 1873
Loài Ascarops Strongylina Rudolphi, 1819
Loài Ascarops dentata Linstow, 1904
Giống Physocephalus Diesing, 1861
Loài Physocephalus sexalatus Molin, 1861

Giống Simondsia Cobbold, 1864
Loài Simodsia paradoxa Cobbold, 1864
Phân bộ Camallania Chitwood, 1936
Liên họ Gnathostomatoidae Skrjabin et Ivaschkin, 1968
Họ Gnathostomatidae Railliet, 1895
Giống Gnathostoma Owen, 1836
Loài Gnathosma hispidum Fedtschenko, 1872
Loài Gnathostoma doloresi Tubangui, 1925
- Đặc điểm hình thái
+ Loài Ascarops strongylina Rudolphi (1819)
Tác giả Nguyễn Thị Kim Lan (2012) cho biết, A. strongylina có kích thƣớc
trung bình, đầu có bao hình trụ, cơ thể hình sợi, màu đỏ, miệng có hai môi, mỗi
môi phân thành ba thùy, hầu có từ 16 - 18 vòng kitin tạo thành vòng xoắn nghiêng
góc so với chiều dọc của cơ thể. Giun đực dài 13,2-20,1mm, rộng 0,38-0,42mm.
Đuôi cong về mặt bụng, dài 0,243mm. Có hai gai giao cấu không bằng nhau, một
gai dài 0,499mm, một gai dài 2,845mm. Giun cái dài 22, 6-23,7mm, rộng 0,400,41. Lỗ sinh dục có cơ vòng dầy, đuôi hình nón. Trứng dài 0,036-0,037mm, rộng
0,018-0,021mm, trong có chứa ấu trùng.

21


+ Loài Physocephalus sexalatus Molin (1861)
Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) cho biết, P. sexalatus có kích thƣớc
trung bình, hình sởi, miệng có 2 môi chia thành 3 thùy. Miệng hình ống, có 22-24
vòng kitin xếp song song nhau. Hai bên thân có cánh. Thực quản dài từ 0,220,27mm, thực quản tuyến dài 2,12-2,99mm. Giun đực dài 8,1-13,5mm, đuôi tròn
uốn cong về phía đầu. Có hai gai giao cấu kích thƣớc không bằng nhau: một gai
dài 2,075-2,656mm, một gai dài 0,381-0,465mm, bánh lái gai giao cấu dạng rãnh,
dài 0,116mm. Giun cái dài 13-22,5mm. Hầu có 20-24 vòng kitin. Lỗ sinh dục ở
phần sau của cơ thể. Trứng hình bầu dục, dài 0,029-0,037mm, rộng 0,0140,018mm, trong trứng có ấu trùng.
+ Loài Gnathostoma hispidum Fedtschenko (1872)

Theo Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) thì loài G. Hispidum thấy ở dạ dày lợn ở
châu Âu và châu Á, rất giống với loài Gnathostoma spinigerum ký sinh ở chó.
Khi giun còn sống, phần trƣớc của thân có màu hồng đỏ, phần sau thân có màu
vàng nâu. Đầu tách khỏi thân bởi một rãnh sâu và có 9-12 hàng móc. Phần còn
lại của thân đƣợc bao phủ bởi lớp kitin và có nhiều gai. Giun đực dài 12-25mm
và rộng 1,4-2,0mm, đuôi cong và tù, hai gai giao cấu dài không bằng nhau, dài
0,88mm và 0,40mm. Giun cái dài từ 25-49mm, âm hộ đổ ra hơi lệch về phía
trƣớc đƣờng giữa thân. Trứng dài: 0,068-0,074mm, rộng: 0,039-0,042mm.
+ Loài Gnathostoma doloresi Tubangui (1925)
Các tác giả Chen et al. (1986), Nguyễn Thị Lê và cs. (1996) cho biết: loài
G. doloresi ký sinh ở dạ dày lợn rừng và lợn nhà, phần mút trƣớc của cơ thể có vòi
ngắn tách biệt với phần thân sau. Có 2 môi chia thành 3 thùy, trên mỗi thùy có 2
đôi núm nằm ở mép trƣớc môi. Trên vòi có 10 hàng móc hƣớng về phía sau. Cơ
thể phủ đầy gai, các gai có hình dạng kích thƣớc khác nhau. Từ hàng thứ nhất đến
hàng thứ ba các gai có 3 đến 4 răng. Phần giữa cơ thể gai có 2 răng, phần cuối cơ
thể gai có một răng và mút sau cơ thể gai dạng sợi. Khi giun còn sống, phần trƣớc
của thân có màu hồng đỏ, phần giữa thân có màu hồng đen và phần sau cùng của
thân có màu hồng nhạt. Giu đực dài 20-38mm và rộng 0,9-1,66mm, cánh đuôi hẹp,
có 4 đôi núm sinh dục lớn và 3 đôi nhỏ. Gai sinh dục dài 1,85mm và 2,07mm
không có gai điều chỉnh. Giun cái dài từ 27-52mm, rộng 1,3-2,8mm. Lỗ sinh dục ở
gần giữa thân thuộc nửa sau của cơ thể. Trứng dài 0,056-0,062mm và rộng 0,0310,035mm, có nắp ở hai cực.

22


* Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của G. doloresi

Hình 2.5. Hình thái, cấu tạo một số bộ phận của giun dạ dày G. doloresi
Nguồn: Tubangui (1925)


- Vòng đời
+ Loài Ascarops strongylina và Ascarops dentata
Tác giả Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) cho biết, cả hai loài giun này
đều có vòng đời giống nhau, vòng đời cần có ký chủ trung gian và ký chủ dự trữ
tham gia. Trứng giun đƣợc bài xuất cùng với phân lợn ra ngoài môi trƣờng. Đƣợc
bọ hung ăn phải, sau 3 ngày nở ra ấu trùng. Sau 16-18 ngày ở trong ký chủ trung
gian, ấu trùng lột xác lần 1, sau 25-27 lột xác lần 2 và phát triển thành ấu trùng gây
nhiễm. Ở nhiệt độ 13-14oC sự phát triển của ấu trùng trong cơ thể ký chủ trung
gian cần 31-32 ngày. Ở nhiệt độ thấp cần thời gian dài hơn. Ấu trùng gây nhiễm
dài 2,1-2,7mm, rộng 0,06-0,09mm. Trong bọ hung, ấu trùng gây nhiễm đóng kén
và sống ở trong kén từ 9 tháng đến 1 năm. Lợn mắc bệnh do ăn phải bọ hung có
mang ấu trùng gây nhiễm.

23


Ascaropstrongylina trưởng
thành
(ký sinh ơ dạ dày lợn)

t0, A0, pH

Phân
Trứng

Ấu trùng
Ký chủ
trung gian
Bọ hung
Ấu trùng có sức

gây nhiễm

Cá, ếch và bò sát
Vật chủ trung gian 2

Ấu trùng có sức
gây nhiễm

Sơ đồ 2.5. Vòng đời giun dạ dày lợn A. strongylina và A. dentata
Nguồn: Skrjabin and Petrov (1979)

Trong dạ dày lợn, ấu trùng đƣợc giải phóng khỏi kén, chủ động chui vào
niêm mạc dạ dày. Sau 4-5 ngày phần lớn ấu trùng lột xác lần 3. Sau 20 ngày lột
xác lần 4. Đến ngày thứ 46-48 thì thành giun trƣởng thành. Nếu cá, ếch, nhái
hoặc một số loài thuộc họ bò sát ăn bọ hung, ấu trùng sống tạm thời trong các vật
chủ này mà không có biến đổi gì. Các động vật này trở thành ký chủ dự trữ của
Ascarops. Khi lợn ăn phải ký chủ dự trữ, sau 46 - 48 ngày ấu trùng phát triển
thành giun trƣởng thành.
+ Loài Physocephalus sexalatus
Các tác giả Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996), Nguyễn Thị Kim Lan
(2012) cho biết: P. Sexalatus trƣởng thành ký sinh ở trong dạ dày lợn. Trứng đƣợc
bài xuất theo phân lợn ra ngoài môi trƣờng. Nếu đƣợc ký chủ trung gian là các loài
bọ hung ăn phải, trong đƣờng tiêu hóa của bọ hung, ấu trùng P. sexalatus chui ra
khỏi vỏ, xâm nhập vào xoang thân của bọ hung, sau 35-40 ngày phát triển thành ấu
trùng gây nhiễm. Nếu những bọ hung mang ấu trùng gây nhiễm bị gà, vịt, ngan,
ngỗng ăn phải, thì trong cơ thể gia cầm, ấu trùng không phát triển đến giai đoạn
trƣởng thành, nhƣng chúng chui sâu vào thành ruột, đến gan, ra màng cheo ruột và
các cơ quan khác rồi đóng kén ở đó. Nhƣ vậy, gia cầm có ấu trùng đóng kén trở
thành ký chủ dự trữ của loài giun này.
Lợn nhiễm giun P. sexalatus do ăn phải bọ hung là ký chủ trung gian hoặc


24


ăn phải phủ tạng gia cầm, chim, cá, ếch nhái sống. Vào trong dạ dày, ấu trùng
đƣợc giải phóng ra tiếp tục phát triển thành giun trƣởng thành.
+ Loài Gnathostoma hispidum và Gnathostoma doloresi
Các tác giả Lin et al. (1988), Phạm Sỹ Lăng và cs. (2006), Nguyễn Thị
Kim Lan (2012) đều cho rằng: vòng đời của loài G. doloresi và loài G. hispidum
giống nhau. Trứng giun đƣợc bài xuất theo phân lợn ra ngoài môi trƣờng, gặp
nƣớc ngọt sau khoảng 9-15 ngày nở ra ấu trùng, ở nhiệt độ nƣớc 220C, những ấu
trùng này có thể sống đƣợc từ 20-30 ngày. Để tiếp tục phát triển, ấu trùng
Gnathostoma phải đƣợc loài bọ nƣớc (Cyclops) ăn phải. Sau khi xâm nhập vào
đƣờng tiêu hóa của bọ nƣớc, ấu trùng chủ động chui vào xoang cơ thể, sau 5 ngày
lột xác, vào ngày thứ 10-12 thì đạt đến giai đoạn ấu trùng gây nhiễm. Glovin
(1956) đã xác định, trong vòng phát triển của Gnathostoma có thể có sự tham gia
của cả ký trụ trung gian 2 là cá, ếch, nhái, bò sát và có ký chủ dự trữ là các loài
chim ăn cá. Nhƣ vậy, lợn bị nhiễm Gnathostoma là do uống nƣớc có Cyclops
mang ấu trùng gây nhiễm hoặc ăn phải vật chủ trung gian 2 nhƣ cá, ếch, nhái, bò
sát chứa ấu trùng gây nhiễm nằm trong kén và loài chim ăn cá là ký chủ dự trữ có
chứa ấu trùng gây nhiễm. Thời gian hoàn thành vòng đời từ 90 - 103 ngày
Gnathostoma trưởng thành
(ký sinh ơ dạ dày lợn)

t0, A0, pH

Phân
Trứng

Ấu trùng


Chim
nƣớc

Ấu trùng có sức
gây nhiễm nằm
trong kén

Ký chủ
trung gian
bọ nƣớc
Ấu trùng có
sức gây nhiễm

Vật chủ
dự trữ

Cá, ếch,
bò sát

Vật chủ
trung gian 2

Ấu trùng có
sức gây nhiễm

Sơ đồ 2.6. Vòng đời giun dạ dày lợn G. hispidum và G. doloresi
Nguồn: Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996); Nguyễn Thị Kim Lan (2012)

25



×