Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

bai thu hoach nghi quyet DH 12 giao vien THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.29 KB, 8 trang )

HUYỆN ỦY ……………….
CHI BỘ TRƯỜNG THPT ……………….

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐẠI TỪ, ngày tháng năm 2016

BÀI THU HOẠCH
HỌC TẬP, QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN
QUỐC LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG
-----Họ và tên: ………………..
Chức vụ:
Đơn vị công tác:
Sau khi được học tập Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XII của
Đảng, bản thân tôi đã nhận thức về những vấn đề cơ bản từ những chuyên đề được
học tập và rút một số vấn đề từ Nghị quyết đối với thực tiễn của bản thân trong quá
trình thực thi nhiệm vụ của bản thân, cụ thể như sau:
I. Nhận thức, tiếp thu của bản thân về những vấn đề cơ bản, điểm mới
trong các chuyên đề được nêu trong Nghị quyết:
Đại hội XII của Đảng đã đưa ra những quyết sách mới, đúng đắn, mạnh mẽ,
phù hợp để phát huy thuận lợi, vượt qua mọi khó khăn, tiếp tục đưa đất nước
ta phát triển nhanh, bền vững, đáp ứng kỳ vọng của cán bộ, đảng viên và
Nhân dân. Sau đây là một số điểm mới nổi bật trong văn kiện Đại hội XII của
Đảng.
1- Chủ đề Đại hội XII (cũng là tiêu đề Báo cáo chính trị) được xác định là: Tăng
cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; bảo vệ
vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong các thành
tố chủ đề Đại hội XII đều có những điểm mới, nhất là thành tố thứ tư “bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định” lần đầu tiên được đưa vào
chủ đề Đại hội.


2- Đại hội nhìn lại 30 năm đổi mới
Đại hội XII đánh giá tổng quát: Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề
lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để
đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. So với Đại hội X nhìn lại 20 năm đổi
mới, Đại hội XII không chỉ đánh giá tổng quát thành tựu, mà còn đánh giá tổng
quát hạn chế, khuyết điểm.
Đại hội XII rút ra ba kết luận quan trọng: (1) Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền
tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những
năm tới; (2) Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng


đắn, sáng tạo; (3) Những thành tựu đó khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.
Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như hạn chế, Đại hội rút ra năm
bài học. So với bài học rút ra của các Đại hội trước, các bài học Đại hội XII rút ra
đều có những điểm mới, đặc biệt là bài học thứ tư về mối quan hệ dân tộc - quốc tế
đã nhấn mạnh “phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”.
3- Đại hội xác định “bốn trụ cột” phát triển đất nước trong thời kỳ mới
Trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về các văn kiện Đại
hội XII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày nêu rõ:
Thời kỳ mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, trong đó phát triển kinh tế
- xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người
làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường
xuyên. Điểm mới nổi bật là: Văn kiện Đại hội XII không chỉ xác định phát triển
kinh tế là trung tâm mà cả phát triển xã hội là trung tâm; không chỉ xây dựng văn
hóa làm nền tảng tinh thần mà cả xây dựng con người làm nền tảng tinh thần.
Nội dung Văn kiện Đại hội XII được xây dựng trên cơ sở tổng kết sâu sắc lý

luận và thực tiễn 30 năm đổi mới, có sự kế thừa, bổ sung, phát triển Văn kiện Đại
hội XI, của các nghị quyết Hội nghị Trung ương trong nhiệm kỳ và đường lối, quan
điểm của Đảng trong các nhiệm kỳ trước đây. Trong đó, những quan điểm cơ bản,
tư tưởng chỉ đạo, nội dung cốt lõi, những vấn đề mới, đều hiện diện trên tất cả các
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại, xây
dựng
Đảng

hệ
thống
chính
trị,
cụ
thể
như
sau:
Về đổi mới mô hình tăng trưởng và hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa những kết quả đạt được trong
nhiệm kỳ Đại hội XI, Văn kiện Đại hội XII có những phát triển mới rất rõ nét, nêu
rõ hơn định hướng và giải pháp đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, xác định đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là nền kinh tế thị trường hiện đại
và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh".
Về lĩnh vực văn hoá – xã hội, Văn kiện đặc biệt chú trọng các nhiệm vụ, giải
pháp gắn kết giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ với phát triển nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ hiệu quả quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế,
thực hiện 3 đột phá chiến lược. Việc xây dựng, phát triển văn hoá con người Việt

Nam, Văn kiện lựa chọn, định hướng 7 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó nhấn
mạnh và đặt lên hàng đầu là nhiệm vụ xây dựng con người. Thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội, đặc biệt là bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội là một trong những
thành tựu nổi bật trong 30 năm đổi mới, Văn kiện xác định điểm nhấn và cũng là

2


điểm mới, đó là thực hiện hiệu quả hơn trong 5 năm tới vấn đề quản lý phát triển xã
hội.
Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh và hoạt động đối ngoại, Báo cáo chính trị
Đại hội XII có nêu: “Tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới”. Cụm từ "trong tình hình mới" là
điểm mới được nhấn mạnh. Về công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế, Báo cáo chỉ
ra vấn đề cốt lõi là phải xác định mục tiêu tối thượng là lợi ích quốc gia – dân tộc.
Trong khi nhận rõ hợp tác phát triển là xu thế thì đồng thời không mơ hồ chỉ thấy
hợp tác một chiều. Hợp tác đồng thời phải đi đôi với đấu tranh, cạnh tranh để bảo
vệ lợi ích chính đáng của quốc gia; đồng thời đấu tranh, cạnh tranh để hợp tác chứ
không dẫn tới đối đầu, bất lợi.
Về chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, so với Nghị quyết
Đại hội XI, điểm mới trong Văn kiện Đại hội XII có nêu: "Phát huy mạnh mẽ mọi
nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân"; "Tôn trọng những điểm khác
biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc". Trong định hướng xây
dựng các giai tầng trong xã hội, Văn kiện có yêu cầu mới đó là “tiếp tục hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, phát huy những giá trị văn hoá, đạo
đức tốt đẹp của các tôn giáo”.
Về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, ngoài một số nhiệm vụ, giải pháp mới, Văn kiện cũng bổ sung
phương hướng: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội”. “Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên

quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”. Bổ sung nội dung “giám sát”
trong phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.
Về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, Văn kiện nêu lên nhiều
nhiệm vụ, giải pháp mới, nổi bật là việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Thực hiện thí
điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối
tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý; hoàn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế
kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác định rõ quyền hạn, trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính.
Về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Báo cáo chính trị nêu trọng tâm
là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI. Các cấp
uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản
lý các cấp từ Trung ương đến cơ sở nghiêm túc, tự giác và có kế hoạch, biện pháp
phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm. Ngoài ra, ở phần
nhiệm vụ, giải pháp, Văn kiện đề ra 10 nội dung, tất cả đều được bổ sung phát triển
trên cơ sở kế thừa từ các văn kiện Đại hội khoá trước.
Những điểm mới nêu trong Văn kiện Đại hội XII phản ánh bước tiến về tư
duy lý luận của Đảng và sẽ trở thành những định hướng chính trị quan trọng của
mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước trong 5 năm tới. Việc làm rõ những vấn đề
mới trong Văn kiện Đại hội XII sẽ giúp cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt
các cấp trong tỉnh nắm vững một bước nội dung Văn kiện, chuẩn bị cho đợt sinh
hoạt chính trị rộng lớn, từ đó góp phần thực hiện đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết
Đại hội XII của Đảng, phù hợp với tình hình và điều kiện thực tế của tỉnh ta, sớm
đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống
3


Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh
đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững
mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn

diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, xây dựng nền
tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định để phát triển đất
nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. . Nghị
quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XII của Đảng tập trung vào 6 nhiệm vụ
trọng tâm sau:
(1) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"
trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
(2) Xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan
liêu.
(3) Tập trung thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba
đột phá chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng
bộ), cơ cấu lại tổng thể và đồng bộ nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chú trọng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Chú
trọng giải quyết tốt vấn đề cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại ngân sách
nhà nước, xử lý nợ xấu và bảo đảm an toàn nợ công.
(4) Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để
phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở
rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách
thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị

thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế.
(5) Thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân.
Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức
thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con
người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc.
(6) Phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập
trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm
việc; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh.
II. Liên hệ thực tiễn đối với ngành giáo dục hiện nay

4


Trong các văn kiện trình Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh sự quan tâm đặc biệt và
làm rõ hơn lập trường, quan điểm, tính nhất quán về sự cần thiết phải đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đã
từng được khẳng định trong các văn kiện Đảng trước đây, đặc biệt là trong Nghị
quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI, khẳng định đây không chỉ là quốc
sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước,
mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ mới đang đặt ra ngày càng cấp thiết. Thứ nhất, do chất
lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo ở nước ta còn thấp so với yêu cầu của công cuộc
đổi mới, nhất là giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Hiện nay, toàn quốc có
hơn 70.000 cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ tốt nghiệp ra trường, nhưng không tìm được việc
làm, hoặc có việc làm nhưng không đúng nghề đào tạo; nhiều người được tuyển
chọn phải đào tạo lại mới sử dụng được. Thứ hai, hệ thống giáo dục-đào tạo ở nước

ta còn bị khép kín, thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo
dục, đào tạo, còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Thứ ba, chưa gắn kết chặt chẽ giữa
đào tạo với nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị
trường, dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu thợ. Thứ tư, chưa chú trọng đúng mức
đến giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống và kỹ năng, phương pháp làm việc. Thứ
năm, phương pháp giáo dục còn lạc hậu, chủ yếu truyền thụ kiến thức một chiều; tổ
chức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả còn thiếu thực chất, mắc bệnh thành tích. Thứ
sáu, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và
cơ cấu. Thứ bảy, cơ chế, chính sách, đầu tư cho giáo dục, đào tạo chưa phù hợp; cơ
sở vật chất-kỹ thuật thiếu đồng bộ, còn lạc hậu…
Như vậy, việc đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tao; phát triển
nguồn nhân lực là yêu cầu bức thiết. Đó vừa là yêu cầu, vừa là giải pháp giúp
chúng ta vượt qua khó khăn, thách thức của thời cuộc và phát triển bền vững. Tuy
nhiên, nếu không quyết liệt đổi mới, hoặc đổi mới “nhỏ giọt”, cục bộ, từng phần,
tức là giáo dục, đào tạo vẫn không khác hơn kiểu cũ thì nguy cơ tụt hậu xa hơn
luôn ở kề bên; đường lối đổi mới của Đảng sẽ mất dần động lực phát triển, chúng ta
sẽ không thể đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thậm chí rơi vào
“cái bẫy thu nhập trung bình”. Điều kiện tiên quyết, suy đến cùng là do con người
quyết định, trong đó giáo dục, đào tạo, nền học vấn là nhân tố quan trọng nhất.
Đảng ta nhất quán khẳng định: “Giáo dục, đào tạo là “quốc sách hàng đầu”, “đầu tư
cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới giáo dục, đào tạo từ Nghị
quyết Trung ương 2, khóa VIII đến nay vẫn còn những hạn chế, bất cập, chất lượng
thấp.
Đổi mới giáo dục, đào tạo cần bắt đầu từ đổi mới quan điểm, tư tưởng chỉ
đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm
thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt
động quản trị của các cơ sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng

5



đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học... Điều
này không phải đến Đại hội XII, Đảng ta mới xác định như vậy. Vấn đề là ở chỗ:
Trong những năm qua, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu giáo dục toàn diện
chưa được hiểu và thực hiện đúng; nay chúng ta cần nhận thức đúng hơn và thực
hiện hiệu quả hơn.
Lâu nay, ở nước ta, các trường chủ yếu trang bị kiến thức cho người học,
lấy nó và dựa vào nó để phát triển năng lực. Nhiều năm qua, chúng ta đã nhận ra sự
bất cập, hạn chế của việc này, nên đã chuyển hướng sang phát triển phẩm chất và
năng lực người học. Tuy nhiên, do thiếu tính đồng bộ và nhận thức chưa thống
nhất, nên việc dạy và học vẫn theo cách cũ: Trang bị kiến thức là chính, phát triển
phẩm chất và năng lực là phụ. Từ khi có Nghị quyết số 29, Hội nghị Trung ương 8,
khóa XI, trong xã hội ta, về nhận thức đã có sự thay đổi nhất định, dần đi đến thống
nhất về sự cần thiết phải chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học. Để “đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực” đạt hiệu quả cao,
chúng ta phải đồng thời thực hiện nhiều giải pháp.
Một giải pháp quan trọng được nêu trong dự thảo, đó là: Đổi mới mạnh mẽ
và đồng bộ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục,
đào tạo theo hướng coi trọng phát triển năng lực và phẩm chất của người học.
Trên cơ sở xác định đúng, trúng mục tiêu đổi mới giáo dục, đào tạo, công khai mục
tiêu, chuẩn “đầu vào”, “đầu ra” của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và
chuyên ngành đào tạo, thì việc tiếp theo là đổi mới chương trình khung các môn
học và nội dung của nó theo hướng phát triển mạnh năng lực và phẩm chất người
học, bảo đảm hài hòa đức, trí, thể, mỹ; thực hiện tốt phương châm mới: Dạy người,
dạy chữ và dạy nghề (trước đây là dạy chữ, dạy người, dạy nghề).
Tiếp tục đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết
thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến
thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp

luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền
thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp.
Dạy Ngoại ngữ và Tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử
dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số;
dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài. Nói
một cách khác, yếu tố đầu tiên của triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay là tăng
cường yếu tố dạy người-chủ nhân của chế độ mới, của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đổi mới chương trình, nội dung giáo dục, đào tạo cần đổi mới
công tác biên soạn sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy học theo hướng đa dạng
hóa, cập nhật tri thức mới, đáp ứng yêu cầu của từng bậc học, các chương trình
giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của từng đối tượng. Cần khắc phục
lối học tập trung vào một số môn học, một “khuôn” trong một sách giáo khoa, giáo
trình, tài liệu. Ở giai đoạn đầu của đổi mới, nên vừa nghiên cứu, biên soạn các sách

6


giáo khoa, giáo trình, tài liệu dạy và học chung cho mọi người, vừa nghiên cứu,
biên soạn các sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu riêng cho phù hợp với từng loại
đối tượng, đáp ứng nhu cầu phát triển phẩm chất, năng lực, năng khiếu cá nhân. Vì
vậy, trong xây dựng cấu trúc chương trình môn học cần chú trọng nghiên cứu, biên
soạn bổ sung các sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu bắt buộc và tài liệu tham khảo,
bổ trợ phù hợp với phát triển phẩm chất, năng lực riêng của một lớp đối tượng.
Theo đó, cần vận dụng phương pháp, cách thức xây dựng chương trình sau đại học
để thiết kế, xây dựng các chương trình khung cho các bậc học theo hướng chuyên
đề hóa dành cho người học có năng khiếu về những lĩnh vực nhất định.
Đây là hướng mở để phát triển phẩm chất, năng lực cá nhân người học, góp
phần đào tạo chuyên sâu, chuyên gia. Theo đó, nên chia tổng thời gian học thành

hai phần, trong đó, một nửa dành cho học các môn chung, số thời gian còn lại dành
cho việc học các môn riêng theo năng khiếu để phát triển phẩm chất, năng lực cá
nhân. Điều này đòi hỏi người dạy phải tự đổi mới, nâng tầm cao tri thức và đổi mới
phương pháp, hình thức giảng dạy cho phù hợp. Hơn thế, nó cũng đặt ra cho người
quản lý, các khoa, trường sư phạm phải đổi mới cách tuyển chọn nhân sự đào tạo
giáo viên, giảng viên theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của người giáo
viên, giảng viên tương lai. Rõ ràng, khi mục tiêu giáo dục, đào tạo được thay đổi
căn bản, thì bắt buộc chương trình khung, nội dung, phương pháp, hình thức giáo
dục, đào tạo cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Phương pháp dạy và học mới không chỉ làm cho người học phát triển tư duy
độc lập, sáng tạo mà còn giúp người thầy thêm tiến bộ, trưởng thành. Cùng với đó,
cần đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo
dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan, công bằng. Cần gắn chặt giáo dục và
đào tạo với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, với sản xuất, kinh doanh; gắn nhà
trường, viện nghiên cứu với các cơ sở sản xuất, nhà máy, xí nghiệp; gắn lý luận với
thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là những phương
cách tốt nhất, hiệu quả nhất để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực nước nhà, như văn kiện trình Đại hội XII của Đảng đã đề ra.
III. Những công việc bản thân cần làm để thực hiện tốt các mục tiêu,
nhiệm vụ, giải pháp mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thức XII
của Đảng đề ra
1. Về tư tưởng chính trị:
- Luôn giữ vững quan điểm, lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh
- Luôn chấp hành nghiêm các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, đồng thời vận động gia đình và người thân thực hiện tốt các qui định của
địa phương nơi cư trú
- Nghiêm túc học tập và nghiên cứu các chuyên đề về tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
2. Phẩm chất đạo đức, lối sống:

- Có lối sống lành mạnh, giản dị, trung thực. Luôn giữ gìn sự đoàn kết trong
khu dân cư

7


- Luôn lắng nghe tâm tư nguyện vọng của người dân để có đề xuất kịp thời
với lãnh đạo cơ quan.
III. Những kiến nghị, đề xuất:
Để tổ chức, thực hiện tốt nội dung của Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thức XII của Đảng trong chi bộ trong thời gia tới, tôi xin đề xuất một số nhiệm
vụ và giải pháp như sau:
- Một là, bản thân mỗi cán bộ, đảng viên phải tập trung làm rõ và nêu cao tinh
thần trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu
gương về đạo đức, lối sống để từ đó đề ra các hoạt động thực hiện công tác chuyên
môn, nhất là các chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan, ảnh hưởng lớn đến
mọi người dân.
- Hai là, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành
trên cơ sở tình thương yêu đồng chí, đồng nghiệp. Thực hiện nghiêm túc Quy định
về những điều Đảng viên không được làm. Làm tốt việc kiểm điểm hàng năm để có
căn cứ xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ, đảng viên trong chi bộ nhằm nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
- Ba là, tôn trọng, lắng nghe và giải quyết những tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là căn cứ quan trọng để tổ
chức xem xét cán bộ.
- Bốn là, thực hiện tốt việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016
của Bộ Chính trị “tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương, đạo đức, phong
cách đạo đức Hồ Chí Minh”. Thực hiện tốt các nguyên tắc sinh hoạt Đảng.
Với truyền thống, bản chất tốt đẹp của Đảng, được nhân dân, cán bộ, công

chức đồng tình, ủng hộ, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thắng lợi nghị quyết này,
tạo bước chuyển biến mới trong công tác xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày
càng trong sạch, vững mạnh, đưa đất nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, hội nhập và phát triển toàn diện đất nước với mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH

8



×