Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG m 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.51 MB, 35 trang )

NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU
NƯỚC - BẢN LĨNH VÀ TRÍ TUỆ
NGUYỄN KHẮC HUỲNH*
Suốt hơn hai thập kỷ đấu tranh chống Mỹ, cứu nước, ngoại giao Việt Nam - theo đường
lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh - luôn luôn là một mặt trận hỗ trợ và phối hợp với
đấu tranh quân sự, chính trị với những hoạt động và biện pháp phong phú, hiệu quả góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bài viết này
chủ yếu tập trung nêu lên những sự kiện, những hoạt động ngoại giao chủ yếu nhằm giới
thiệu bản lĩnh và trí tuệ của Đảng ta trong việc lãnh đạo và điều hành mặt trận đấu tranh
ngoại giao.

I- VỊ TRÍ, VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA MẶT TRẬN NGOẠI GIAO
1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam diễn ra vào thời kỳ cao
điểm của Chiến tranh lạnh. Thế giới hình thành hai phe chống đối nhau gay gắt bằng
Chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang. Mỹ xâm lược Việt Nam vì lợi ích chiến lược toàn
cầu. Liên Xô luôn theo đuổi mục tiêu cân bằng chiến lược với Mỹ. Trung Quốc nhằm
mục tiêu vươn lên thành cường quốc thứ ba. Liên Xô, Trung Quốc vừa giúp Việt Nam
vừa sử dụng vấn đề Việt Nam để chống hai nước lớn kia. Chiến tranh Việt Nam, về mặt
quốc tế, luôn nằm trên trục chuyển động của ba cặp quan hệ Mỹ - Xô, Mỹ - Trung, Xô Trung. Thất bại ở Việt Nam, Mỹ hòa hoãn với Liên Xô, Trung Quốc và hòng cùng hai
nước này dàn xếp vấn đề Việt Nam, hình thành “Tam giác chiến lược Mỹ - Xô - Trung”,
tác động mạnh mẽ tới diễn biến chiến tranh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, phong trào giải phóng dân tộc lên cao, đưa tới việc hình
thành lực lượng thứ ba. Năm 1961 chính thức ra đời Phong trào Không liên kết. Năm
1963, Tổ chức Thống nhất châu Phi và năm 1966, Tổ chức Đoàn kết ba châu ra đời.
Thời kỳ này, phong trào đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới
lên mạnh. Thông tin bùng nổ, lương tri loài người thức tỉnh. Các tầng lớp nhân dân, các
tổ chức chính trị, xã hội, tôn giáo của các nước đều ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của các
dân tộc. Đó là những thuận lợi cho ta trên bình diện quốc tế.
Bên cạnh những thuận lợi, bối cảnh quốc tế cũng có những phức tạp, khó khăn cho Việt
Nam:
- Mỹ rất mạnh về tiềm lực, có liên minh quân sự khắp nơi; Mỹ khống chế Liên hợp quốc,


kéo Liên hợp quốc vào Triều Tiên, dùng Liên hợp quốc can thiệp nhiều nơi. Tâm lý phục
Mỹ, sợ Mỹ còn khá phổ biến trên thế giới.
- Phong trào cách mạng thế giới cũng trải qua những thăng trầm. Phong trào xã hội chủ
nghĩa khủng hoảng về đường lối, không thống nhất quan điểm, sách lược đấu tranh.
Phong trào Không liên kết thời kỳ đầu không nhất trí về mục tiêu và phương hướng hành
động.
- Nổi cộm nhất là mâu thuẫn Xô - Trung, hai đồng minh chiến lược của Việt Nam. Mâu
thuẫn và đối chọi nhau ngay cả trên vấn đề Việt Nam và giúp Việt Nam. Mâu thuẫn lợi


ích đưa đến xung đột vũ trang trên biên giới giữa hai nước.
2. Đặc điểm lớn nhất của cuộc chiến tranh là tương quan giữa hai bên tham chiến. Mỹ là
nước giàu mạnh, Việt Nam là nước yếu nghèo. Chỉ tính riêng về sự giàu có, về tiềm lực
quân sự, kinh tế, đúng là Mỹ hơn Việt Nam gấp bội. Việt Nam có chỗ mạnh áp đảo về
chính trị, chiến đấu vì độc lập dân tộc. Mỹ làm chiến tranh phi nghĩa, chỗ yếu cơ bản của
Mỹ là về chính trị.
Do đặc điểm của thời đại, Mỹ dùng ngoại giao để khắc phục chỗ yếu về chính trị. Mỹ đặt
ngoại giao thành một bộ phận của chiến lược chiến tranh. Trong một cuộc họp tại Nhà
Trắng ngày đầu chiến tranh, Giônxơn nói: “Cuộc chiến tranh này giống như một trận đấu
ăn giải. Tay phải ta nắm lực quân sự, song tay trái cần có các đề nghị hòa bình”. Chính vì
vậy mà thời kỳ Mỹ leo thang (1965-1966), Mỹ mở nhiều “chiến dịch hòa bình” và không
ngớt đòi Việt Nam “thương lượng không điều kiện” với Mỹ. Rồi suốt cuộc chiến tranh,
Mỹ đều dùng ngoại giao và đàm phán trên thế mạnh để che chắn cho quân Mỹ ở chiến
trường.
3. Tính chất thời đại và đặc điểm cuộc chiến như đã nói trên quyết định vai trò và nhiệm
vụ của ngoại giao. Từ rất sớm, ngoại giao Việt Nam đã giương cao ngọn cờ hòa bình, thi
hành Hiệp định Giơnevơ. Mặt trận dân tộc giải phóng ra đời, có ngoại giao hòa bình,
trung lập. Đi vào chiến tranh lớn, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định đường lối
đấu tranh trên ba mặt trận. Các nghị quyết Trung ương 11, 12 (1965) đề ra phương hướng
ngoại giao phục vụ đấu tranh quân sự, chính trị. Nghị quyết Trung ương 12 nêu rõ:

“Trong quá trình chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, ta phải giữ vững quyết tâm chiến lược,
đồng thời áp dụng sách lược đấu tranh chính trị - ngoại giao khôn khéo để phối hợp với
đấu tranh quân sự, chủ động tiến công địch, nêu cao ngọn cờ độc lập, hòa bình nhằm
tranh thủ rộng rãi dư luận thế giới và cô lập hơn nữa đế quốc Mỹ” 1. Nghị quyết Trung
ương 13 (1-1967) đưa ra khẩu hiệu đấu tranh mới, kéo Mỹ xuống thang. Từ năm 1968
đến năm 1973, ta vận dụng phương thức “vừa đánh vừa đàm”.
Nhìn tổng quát, suốt cuộc chiến tranh, ngoại giao đóng vai trò là một mặt trận đấu tranh
tầm cỡ chiến lược với ba chức năng lớn:
- Phối hợp và hỗ trợ chiến trường, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đảm
bảo cho ta càng đánh càng mạnh, làm cho địch suy yếu và thất bại.
- Tăng cường hậu phương quốc tế của ta, gắn Việt Nam với thế giới, tạo cho ta sức mạnh
tổng hợp, làm suy yếu hậu phương quốc tế của Mỹ, làm cho Mỹ vấp nhiều khó khăn trên
thế giới và ngay trong nước Mỹ.
- Giải quyết vấn đề thắng thua, ta thắng, địch thua, kết thúc chiến tranh. Ta thắng đến đâu,
buộc Mỹ thua đến đâu, giành thắng lợi từng bước thế nào, đẩy Mỹ ra khỏi miền Nam như
thế nào?
Từ ba chức năng chiến lược này, qua từng thời kỳ, tùy theo yêu cầu của đấu tranh quân
sự, chính trị và tình hình quốc tế mà Đảng đề ra những chủ trương, biện pháp ngoại giao
thích hợp.

II- NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG - NHỮNG THẮNG LỢI NGOẠI GIAO


1. Giương cao ngọn cờ dân tộc và thiện chí hòa bình, tranh thủ sự đồng tình
và ủng hộ của thế giới, cô lập Mỹ trên trường quốc tế
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là cuộc đối đầu giữa hai lực lượng không cân sức.
Trên mặt trận ngoại giao, đó là cuộc đối chọi giữa nền ngoại giao non trẻ của Việt Nam
theo tư tưởng Hồ Chí Minh chống lại chính sách ngoại giao trên thế mạnh của nền ngoại
giao nhà nghề hùng hậu của Hoa Kỳ.
Tháng 2-1965, Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân chống miền Bắc.

Tháng 3-1965, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, bắt đầu cuộc chiến tranh cục bộ. Để che
đậy bản chất phi nghĩa và tính chất tàn bạo của các hành động chiến tranh, Mỹ ráo riết
tung ra nhiều thủ đoạn ngoại giao: Ra sách trắng đổ lỗi cho Việt Nam dân chủ cộng hoà;
thông báo cho Liên hợp quốc rằng Mỹ sẵn sàng rút hết các đơn vị quân sự của họ trong
trường hợp “Bắc Việt Nam chấm dứt xâm lược Nam Việt Nam”(!). Ngày 7-4-1965, Tổng
thống Giônxơn đọc diễn văn tố cáo Việt Nam dân chủ cộng hoà tấn công một quốc gia
độc lập (Nam Việt Nam) và Mỹ có trách nhiệm bảo vệ tự do cho đồng minh của mình.
Giônxơn tung ra hai đòi hỏi mà phía Mỹ kiên trì theo đuổi suốt mấy năm: “Hai bên đi vào
đàm phán không điều kiện” và “hai bên cùng rút quân”. Mỹ ráo riết mở liên tiếp nhiều
chiến dịch hòa bình xoáy vào hai đòi hỏi này.
Chống lại các thủ đoạn và luận điệu ngoại giao nham hiểm của Mỹ, ngoại giao của Việt
Nam dân chủ cộng hoà phối hợp với ngoại giao của Mặt trận dân tộc giải phóng tiến hành
nhiều hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế nhằm hai hướng chính: Đề cao chính
nghĩa dân tộc, nêu cao quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết đánh và quyết thắng cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ; tập trung mũi nhọn lên án cuộc chiến tranh xâm lược của
Mỹ, lên án các hành động leo thang chiến tranh và các tội ác của Mỹ trên cả hai miền,
mạnh mẽ bác bỏ các luận điệu dối trá của Mỹ “đàm phán không điều kiện” và “hai bên
cùng rút quân”.
Ngày 22-3-1965, Mặt trận dân tộc giải phóng ra tuyên bố 5 điểm biểu thị mạnh mẽ lập
trường, mục tiêu chiến đấu và quyết tâm của nhân dân miền Nam chống xâm lược cho
đến thắng lợi cuối cùng2.
Ngày 8-4-1965, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà ra tuyên bố 4 điểm nêu rõ lập
trường và những nguyên tắc lớn của một giải pháp thỏa đáng để chấm dứt chiến tranh và
lập lại hòa bình ở Việt Nam3.
Hai bản tuyên bố có ý nghĩa lịch sử này là cơ sở vững chắc cho đấu tranh ngoại giao của
ta. Nó trở thành ngọn cờ và lời hiệu triệu để tập hợp sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc
kháng chiến của nhân dân ta.
Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 24-1-1966 gửi đến người đứng đầu nhà nước và
chính phủ của gần 70 nước là một hoạt động ngoại giao ở tầm cao, góp phần đề cao chính
nghĩa dân tộc và ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng trong

đợt hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế quyết liệt này, chúng ta phối hợp ngoại
giao hai miền, phối hợp ngoại giao Đảng, Nhà nước với ngoại giao nhân dân, phối hợp
ngoại giao với vận động báo chí, phối hợp nỗ lực của ta với sự giúp đỡ của các nước anh
em, của bạn bè quốc tế... Tất cả những nỗ lực đó sớm đưa lại thắng lợi to lớn, tạo chuyển


biến rõ rệt trong dư luận quốc tế, giáng một đòn chí mạng vào các thủ đoạn ngoại giao lắt
léo của Mỹ, đẩy Mỹ vào thế cô lập. Tiêu biểu là các nước thế giới thứ ba. Buổi đầu một
số nước còn tỏ ra dè dặt, có nước đề nghị Việt Nam nên nhận đàm phán không điều kiện
với Mỹ... thì nay đa số các nước đều lên án cuộc chiến tranh của Mỹ, có nước còn đi xa
hơn, đòi Mỹ công nhận Mặt trận dân tộc giải phóng, đòi Mỹ rút quân. Biểu hiện nổi bật
nhất là trong số 60 nước liên minh với Mỹ hoặc nhận viện trợ của Mỹ thì đến cuối năm
1966, chỉ còn hơn 10 nước đứng về phía Mỹ. Trận thắng lớn đầu tiên của ngoại giao ta!

2. Khẩu hiệu mới - Đòn tấn công mạnh - Kéo Mỹ xuống thang từng bước
Từ cuối năm 1966, đầu năm 1967, tình hình có những nét mới. Trên chiến trường miền
Nam, ta đã chế ngự được quân Mỹ, bước đầu đánh bại cuộc phản công mùa khô 1965 1966 và đang đánh bại cuộc phản công mùa khô thứ hai (Đông Xuân 1966 - 1967) của
Mỹ. Quân dân miền Bắc đã làm thất bại một bước cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân của Mỹ. Đến cuối năm 1966, miền Bắc đã bắn rơi 1.620 máy bay Mỹ. Thế quốc tế
cũng thuận cho ta hơn.
Trên đà thắng lợi của hai miền, Hội nghị lần thứ 13 của Ban Chấp hành Trung ương xác
định: “Trước mắt, khẩu hiệu của ta là đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và
mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”4.
Để tăng sức mạnh tấn công, ngày 27-1-1967, Trung ương chủ trương cho đưa ra khẩu
hiệu sách lược: “Chỉ sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi
hành động chiến tranh chống nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, thì Việt Nam dân chủ
cộng hoà với Mỹ có thể nói chuyện được”5.
Đây là một đòn tấn công ngoại giao lớn tác động rất mạnh. Suốt hai năm, Mỹ đòi đàm
phán không điều kiện. Ta bác bỏ, tỏ ý sẵn sàng nói chuyện nhưng với điều kiện Mỹ phải
chấm dứt ném bom miền Bắc. Tuyên bố này vừa tỏ rõ thiện chí, vừa phù hợp với đạo lý

nên nó trở thành quả bom ngoại giao. Dư luận thế giới hưởng ứng và ủng hộ mạnh mẽ...
Cho đến Tổng Thư ký Liên hợp quốc và Giáo hoàng cũng lên tiếng đòi Mỹ đáp ứng.
Mỹ trở nên bị động về ngoại giao và đối phó lúng túng. Giônxơn gửi thư cho Chủ tịch Hồ
Chí Minh biện bạch yếu ớt. Mỹ phải dùng nhiều con đường khác nhau để chống đỡ: vận
động qua Thủ tướng Liên Xô Côxưghin, nhờ người Pháp làm trung gian thăm dò...
Trước sức ép của dư luận, đặc biệt là phong trào nhân dân Mỹ, ngày 29-9-1967, trong
diễn văn đọc tại San Antôniô, Tổng thống Giônxơn phải công khai tuyên bố: “Mỹ sẵn
sàng ngưng ngay việc bắn phá miền Bắc Việt Nam của máy bay và tàu chiến Mỹ khi việc
làm này dẫn tới cuộc thảo luận có kết quả và không bị lợi dụng” 6. Rõ ràng tuyên bố này
là một bước lùi của Mỹ, có phần mềm dẻo hơn các tuyên bố trước đây. Nó còn chứng tỏ
Mỹ đã phải thừa nhận “quyền” của nhân dân miền Bắc chi viện cho miền Nam. Tuy
nhiên, Mỹ vẫn giữ lập trường “ngừng ném bom có điều kiện” và “có đi có lại”.
Mỹ rất cay đắng vì đã “mềm dẻo” như vậy mà Hà Nội vẫn bác bỏ. Tại cuộc hội thảo Việt
- Mỹ về “các cơ hội bị bỏ lỡ” tại Florida tháng 12-1999, ông Mác Namara - tác giả của
công thức San Antôniô - phàn nàn với chúng tôi: Tại sao Mỹ đã mềm dẻo đến như vậy
mà Việt Nam vẫn bác bỏ? Nếu Việt Nam nhận ngồi lúc đó thì dễ có cơ hội góp phần kết
thúc chiến tranh sớm. Tôi trả lời ông Mác Namara và các học giả Mỹ: Hiện chúng tôi


đang giữ quyền chủ động. Nếu chúng tôi nhận ngồi theo công thức San Antôniô thì chẳng
khác gì chúng tôi trao “quyền phán quyết” cho phía Mỹ, nghĩa là bất cứ lúc nào Mỹ cũng
có thể lên án chúng tôi “không nói chuyện nghiêm chỉnh”, “luôn tìm cách lợi dụng để
tăng cường tiếp tế cho miền Nam”.
Thế là sau tuyên bố 27-1-1967, thế trận ngoại giao thay đổi hẳn. Mỹ phải chống đỡ với
sức ép từ nhiều phía. Ngoại giao ta đã hỗ trợ mạnh mẽ cho chiến trường để chuẩn bị Tết
Mậu Thân. Phía Mỹ cũng đã thấy “khó thắng và có thể thua” và từ mùa thu 1967, Mỹ đã
phải tính tới con đường ra khỏi chiến tranh chứ không phải sau đòn Tết Mậu Thân Mỹ
mới tính tới đàm phán.
Mỹ đang chần chừ thì đòn Tết Mậu Thân nổ ra (31-1-1968). Kết thúc đợt 1 cuộc Tổng
tiến công Tết này, quân dân ta giành thắng lợi to lớn trên hai mặt trận: về quân sự, ta làm

chuyển biến thế trận, đảo lộn chiến lược của Mỹ. Về chính trị, đòn Tết Mậu Thân đã gây
một chấn động chính trị và tâm lý mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng nước Mỹ. Nội bộ chính
giới, chính quyền Mỹ rối ren, dao động. Ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ bị một đòn
choáng váng. Báo chí và dư luận đồng loạt đòi đi vào đàm phán.
Sau gần hai tháng bàn bạc, tranh luận, Tổng thống Mỹ Giônxơn đi tới một quyết định khó
khăn: bác bỏ kế hoạch tăng quân, chấp nhận chuyển hướng chiến lược, tìm giải pháp đàm
phán.
Ngày 31-3-1968, Tổng thống Giônxơn tuyên bố đơn phương chấm dứt ném bom miền
Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; Mỹ sẵn sàng cử đại diện thảo luận biện pháp chấm dứt chiến
tranh. Cùng dịp này, Giônxơn tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ mới. Tuyên bố của
Giônxơn đánh dấu sự thừa nhận thất bại trong chiến tranh, đánh dấu một bước thay đổi có
ý nghĩa, xuống thang chiến tranh, thăm dò giải pháp hòa bình.
Với tuyên bố của Giônxơn, chúng ta có ba cách lựa chọn: Bác bỏ: hơi cứng, không lợi về
dư luận. Nhận ngồi đàm phán: hơi sớm, khó tạo sức ép với phía Mỹ. Sau khi cân nhắc
nhiều mặt, Bộ Chính trị quyết định nhận tiếp xúc (contact). Ngày 3-4-1968, Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hoà ra tuyên bố: “Rõ ràng Chính phủ Hoa Kỳ chưa đáp ứng
nghiêm chỉnh đòi hỏi của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà, của dư luận Mỹ và thế
giới. Tuy nhiên về phần mình, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố sẵn
sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía Mỹ việc Mỹ
chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hoạt động chiến tranh khác chống nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”.
Việc Bộ Chính trị quyết định nhận bắt đầu cục diện “vừa đánh vừa đàm” lúc này là thích
hợp nhất. Ta nhận ngồi trên thế mạnh, thế đang thắng. Để chậm sẽ bất lợi nhiều mặt và
cũng khó lợi dụng được nội tình của Mỹ trong cuộc bầu cử sắp tới. Trong tuyên bố,
Chính phủ ta khẳng định mạnh mẽ, rõ ràng rằng ta tiếp xúc với mục đích xác định việc
Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc, lúc đó mới bắt đầu cuộc nói chuyện:
Đó là một cái khóa rất hiệu quả.
Cuộc đàm phán song phương Việt Nam dân chủ cộng hoà - Hoa Kỳ bắt đầu ngày 13-51968. Suốt 4-5 tháng, ta vận dụng đàm phán để hỗ trợ chiến trường, lên án và tố cáo tội
ác chiến tranh của Mỹ, tranh thủ dư luận quốc tế và dư luận Mỹ. Ta kiên trì đòi Mỹ chấm
dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc mới nói chuyện về các vấn đề khác. Ta mạnh mẽ bác



bỏ các điều kiện do Mỹ đưa ra, như khôi phục khu phi quân sự, không bắn vào các thành
phố lớn, chấm dứt xâm nhập và tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam...
Từ tháng 9, các đợt tấn công của ta có phần giảm hiệu quả. Ở Mỹ, cuộc tổng tuyển cử đi
vào giai đoạn quyết liệt. Mỹ muốn có một thắng lợi ngoại giao để tạo lợi thế cho Đảng
Dân chủ... Mỹ tỏ ý sẵn sàng có bước mới nếu phía Việt Nam chấp nhận để chính quyền
Sài Gòn có mặt trong giai đoạn sau. Thế chiến trường chưa đủ buộc Mỹ chấm dứt hoàn
toàn ném bom miền Bắc. Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngoại giao vận dụng sách lược
đạt tới thỏa thuận Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, sau đó sẽ họp Hội nghị
bốn bên gồm Việt Nam dân chủ cộng hoà, Mặt trận dân tộc giải phóng, Hoa Kỳ và chính
quyền Sài Gòn. Ngày 31-10-1968, Tổng thống Giônxơn tuyên bố chấm dứt hoàn toàn
ném bom miền Bắc. Cả thế giới cùng chia vui với nhân dân ta trước thắng lợi này.
Buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá miền Bắc là một thắng lợi có ý
nghĩa chiến lược, là thắng lợi của sự phối hợp giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại
giao. Ta đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ, tạo điều kiện củng cố hậu phương,
tạo niềm tin mạnh mẽ cho nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Như vậy là từ đầu năm 1967, với thế tấn công mạnh, ngoại giao đã phối hợp và phát huy
thắng lợi quân sự, vận dụng đánh đàm... đã góp phần hoàn thành việc kéo Mỹ xuống
thang trên chiến trường miền Bắc, mở đầu một giai đoạn đấu tranh mới.

3. Góp phần phá “Việt Nam hóa chiến tranh” - Kéo Mỹ xuống thang trên
chiến trường chính - Tranh thủ mạnh mẽ sự ủng hộ quốc tế
Với việc mở Hội nghị bốn bên, ta vào giai đoạn đấu tranh với một tình hình khá phức tạp.
Níchxơn thay Giônxơn với một chính sách hiếu chiến, hung hăng. Mỹ bắt đầu chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”, xây dựng quân Sài Gòn mạnh để thay dần quân Mỹ, làm suy
yếu và cô lập cách mạng miền Nam, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, hòa hoãn
với Liên Xô, Trung Quốc hòng cùng hai nước đồng minh của ta dàn xếp vấn đề Việt
Nam.
Phía ta thì sau các đợt tổng tiến công năm 1968, lực lượng của ta bị suy yếu, địch phản

kích ác liệt, vùng giải phóng bị thu hẹp, không còn địa bàn đứng chân, các sư đoàn chủ
lực miền phải dạt ra ngoài, “lực lượng trên chiến trường thay đổi, địch ưu thế hơn ta, từ
thế bị động nay địch giành lại thế chủ động”7.
Thấy rõ cuộc chiến chống Mỹ sẽ còn lâu dài, gian khó, từ đầu năm 1969, Bộ Chính trị đề
ra cho ngoại giao và đoàn đàm phán Pari mấy nhiệm vụ chủ yếu:
“a- Đẩy địch xuống thang một bước trên chiến trường chính, ép Hoa Kỳ đơn phương rút
một bộ phận quân Mỹ;
b- Khoét sâu khó khăn nội bộ Mỹ, nội bộ ngụy, mâu thuẫn Mỹ - ngụy;
c- Đề cao vị trí quốc tế của Mặt trận dân tộc giải phóng...;
d- Tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ..., tranh thủ sự giúp đỡ
mạnh mẽ của phong trào nhân dân thế giới bao gồm cả nhân dân Mỹ đấu tranh đòi Mỹ rút
nhanh, rút hết và không điều kiện khỏi miền Nam Việt Nam...”.


a) Phá “Việt Nam hóa chiến tranh” - Kéo Mỹ xuống thang trên chiến trường chính
Ngoại giao coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Ta vận dụng diễn đàn Hội nghị bốn
bên lên án Mỹ kéo dài chiến tranh, rút quân nhỏ giọt, lên án “Việt Nam hóa” là không
chịu chấm dứt chiến tranh. Việt Nam dân chủ cộng hoà và Mặt trận (sau này là Chính phủ
cách mạng lâm thời) đưa nhiều đề nghị hòa bình nhằm tác động vào nội bộ Mỹ, tranh thủ
dư luận, không cho Mỹ dùng việc rút dần quân Mỹ để chuyển sức ép về phía ta.
Mỹ rút dần quân nhưng có chỗ yếu là không thể định được thời hạn rút hết quân. Đánh
vào chỗ yếu đó, ngày 14-9-1970, đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời đưa ra đề nghị
hòa bình, đòi Mỹ định thời hạn rút hết quân trước ngày 30-6-1970. Sau chiến thắng lớn
Đường 9 - Nam Lào (3-1971), ngày 1-7-1971, ta đưa ra đề nghị hòa bình mạnh mẽ hơn:
Đòi Mỹ định thời hạn rút hết quân Mỹ trước ngày 31-12-1971. Đề nghị nêu rõ “thời hạn
rút hết quân Mỹ cũng là thời hạn thả hết tù binh”. Số phi công Mỹ bị bắt đều là con em
các gia đình có thế lực ở Mỹ. Dư luận Mỹ rất quan tâm đến việc thả tù binh. Bởi vậy, đề
nghị
1-7-1971 có sức tấn công mạnh. Dư luận rộng rãi ở Mỹ và trên thế giới đều đòi phía Mỹ
đáp ứng để sớm có hòa bình.

Kết hợp với diễn đàn công khai, cuối năm 1970 và giữa năm 1971, ta có những cuộc gặp
riêng với phía Mỹ (Lê Đức Thọ, Xuân Thủy với Kítxinhgiơ) nhằm thăm dò và góp phần
làm cho phía Mỹ chập chững thêm.
Ba năm đấu tranh quyết liệt, dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngoại giao đã góp phần hỗ trợ
chiến trường củng cố, bồi bổ lực lượng, ép Mỹ đơn phương rút dần quân. Đến giữa năm
1971, Mỹ đơn phương rút 300.000 quân; đến cuối năm 1971, Mỹ rút hết 400.000 quân.
Một số nước đồng minh của Mỹ cũng rút quân tham chiến với Mỹ khỏi miền Nam như
Ôxtrâylia, Niudilân, Philíppin. Việc Mỹ đơn phương rút một số lớn quân đội tạo một lợi
thế lớn cho ta về so sánh lực lượng và thế trận. Yêu cầu “kéo Mỹ xuống thang trên chiến
trường chính” đã được thực hiện thành công một bước quan trọng.
b)Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế - Mặt trận nhân dân thế giới
Từ đầu chiến tranh, Đảng ta đã đặt vấn đề tranh thủ sự ủng hộ quốc tế thành một nhiệm
vụ hàng đầu. Chiến tranh kéo dài, vấn đề tranh thủ quốc tế càng trở nên bức xúc.
- Tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa:
Liên Xô - Trung Quốc tiếp tục đối kháng gay gắt. Hai nước mâu thuẫn nhau trong vấn đề
Việt Nam và giúp đỡ Việt Nam. Mỹ đang đẩy mạnh hòa hoãn với hai nước. Đảng kiên trì
tranh thủ cả hai nước, nắm chắc và vận dụng mẫu số chung của các nước trong vấn đề
Việt Nam là chống đế quốc Mỹ xâm lược, làm nghĩa vụ quốc tế đối với một nước xã hội
chủ nghĩa, góp phần vào an ninh chung của cả cộng đồng và bảo vệ hòa bình. Chúng ta
giữ vững độc lập tự chủ, lấy lợi ích đại cục làm trọng, thực hiện chính sách nhất quán
đoàn kết, tranh thủ tất cả các nước, chống và làm thất bại âm mưu của Mỹ chia rẽ Việt
Nam với các nước xã hội chủ nghĩa.
- Đưa đoàn kết ba nước Đông Dương lên tầm cao mới:
Khối đoàn kết Đông Dương hình thành từ đầu chiến tranh. Năm 1970, Mỹ mở rộng chiến


tranh ra cả ba nước Đông Dương. Tháng 6-1970, Bộ Chính trị kịp thời chủ trương đưa
đoàn kết Đông Dương lên tầm cao mới. Việt Nam phối hợp với Trung Quốc giúp Hoàng
thân Xihanúc lập Mặt trận dân tộc thống nhất và Chính phủ Vương quốc Đoàn kết dân
tộc Campuchia. Quân tình nguyện Việt Nam công khai phối hợp với lực lượng kháng

chiến Campuchia và lực lượng kháng chiến Lào. Chiến trường Việt Nam, Lào,
Campuchia kết thành một dải. Vùng giải phóng ba nước nối liền, mở rộng hình thành thế
liên hoàn vững mạnh. Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương tháng
4-1970 trở thành hiến chương chung đoàn kết chiến đấu của ba nước cho đến thắng lợi.
- Phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ hình thành từ sớm. Chính
quyền Níchxơn kéo dài và tăng cường chiến tranh càng thúc đẩy nhân dân thế giới đẩy
mạnh đấu tranh. Thắng lợi trên chiến trường cùng với hoạt động ngoại giao của hai miền
Nam - Bắc, phối hợp với đấu tranh trong đàm phán Pari đã góp phần thúc đẩy phong trào
mở rộng ra khắp các châu lục mà sôi động nhất là ở các nước Tây Bắc Âu. Phong trào
nhân dân thế giới trở thành một lực lượng chính trị hùng hậu tác động mạnh mẽ đến nền
chính trị các nước, tạo nên một sức ép căng thẳng đối với chính quyền Mỹ. Chưa bao giờ
trên thế giới có một phong trào ủng hộ sự nghiệp một dân tộc lại có quy mô to lớn, hình
thức phong phú và tác động rất hiệu quả như phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt
Nam chống Mỹ.
- Thúc đẩy phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh:
Phong trào nhân dân Mỹ phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã dấy lên mạnh
mẽ từ thời Giônxơn nhất là dịp Tết Mậu Thân. Níchxơn kéo dài chiến tranh, gây thêm tội
ác. Các đề nghị hòa bình của phía Việt Nam tại bàn đàm phán, các cuộc tiếp xúc rộng rãi
giữa đại diện Việt Nam với đại diện các tầng lớp nhân dân Mỹ, cộng thêm tác động của
phong trào nhân dân các nước vào nội bộ Mỹ... Tất cả các nhân tố đó góp phần thổi bùng
phong trào nhân dân Mỹ cả bề rộng và bề sâu: các cuộc tự thiêu, các cuộc nổi dậy của các
trường đại học, các đợt đấu tranh lớn gọi là “ngừng hoạt động” (moratorium), các cuộc
tổng động viên (mobilisation) lôi cuốn hàng triệu người, làm tê liệt hàng trăm thành phố,
trường học Mỹ. Phong trào sôi động quyết liệt đến mức tất cả báo chí phe tả cũng như
phe hữu đều đồng loạt thừa nhận: “Đây là một phong trào chống chiến tranh không
những chưa từng có ở Mỹ cũng như chưa từng có trong lịch sử nhân loại” 8. Phong trào
chống chiến tranh của nhân dân Mỹ tác động mạnh mẽ đến ý chí và chính sách của chính
quyền Mỹ về nhiều mặt. Số nghị sĩ chống chiến tranh ngày càng đông; các vấn đề ngân
sách, lính quân dịch, tinh thần quân đội, quan hệ quân dân, an toàn xã hội cho đến vị thế
quốc tế của nước Mỹ đều bị tác động. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng phong trào

nhân dân Mỹ. Người coi mặt trận số 1 chống Mỹ là Việt Nam, mặt trận số hai ở ngay
nước Mỹ. Hai mặt trận giáp công thì Mỹ nhất định thất bại.
Nhìn tổng quát, hậu phương quốc tế của Việt Nam ngày càng vững mạnh. Các nước xã
hội chủ nghĩa hết lòng ủng hộ giúp đỡ; các nước bạn bè và mặt trận nhân dân thế giới kể
cả nhân dân Mỹ luôn luôn cổ vũ, hậu thuẫn cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Đó là một
thắng lợi lớn của mặt trận ngoại giao theo đường lối của Đảng kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại.

4. Đàm phán ký kết Hiệp định Pari


Đảng chủ trương kiên trì phương châm “vừa đánh vừa đàm” để phục vụ đấu tranh quân
sự, chính trị và tranh thủ quốc tế. Suốt hơn bốn năm, ta duy trì diễn đàn công khai để tấn
công địch đồng thời vẫn nhận một số lần “gặp riêng” cuối 1970, giữa 1971 để thăm dò và
giữ cầu.
Đến giữa năm 1972, sau cuộc Tổng tiến công Xuân Hè, ta đã phá “Việt Nam hóa” một
bước quan trọng, thế và lực ta tốt lên; Níchxơn lại cần có tiến bộ trong đàm phán để phục
vụ bầu cử... Nắm những nhân tố có ý nghĩa thời cơ đó, Bộ Chính trị quyết định đưa đàm
phán đi vào giai đoạn kết thúc. Ta kiên trì nguyên tắc Mỹ rút hết, giữ nguyên lực lượng
chính trị vũ trang ở miền Nam. Đồng thời ta có yêu cầu phải giải quyết cả hai mặt quân
sự và chính trị. Mỹ chỉ muốn giải quyết các vấn đề quân sự để ra khỏi chiến tranh. Lập
trường hai bên xa nhau. Trước tình hình đó, đầu tháng 10-1972, Bộ Chính trị quyết định
điều chỉnh yêu cầu đàm phán, tập trung giải quyết các vấn đề quân sự gồm ngừng bắn,
thả hết tù binh, Mỹ rút hết quân. Tạm gác các vấn đề chính trị nội bộ miền Nam, sau này
sẽ do hai bên miền Nam giải quyết. Trên tinh thần đó, ngày 8-10-1972, đoàn đàm phán
của ta đưa ra đề nghị hòa bình có tính chất ngả bài dưới hình thức một “dự thảo Hiệp
định”. Đây là một quyết sách sắc bén, có ý nghĩa quyết định bảo đảm yêu cầu “đánh cho
Mỹ cút”, còn vấn đề chính quyền Sài Gòn sẽ giải quyết ở bước sau. Nhờ vậy, đến ngày
20-10-1972, Hiệp định hoàn thành.
Do Nguyễn Văn Thiệu ngáng đường, Mỹ phải đề nghị đàm phán bổ sung. Đến giữa tháng

12-1972, đàm phán bế tắc, Mỹ dùng B.52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng nhằm gây sức ép.
Ta đánh bại cuộc tập kích lớn này của Mỹ. Ngày 8-1-1973, đàm phán nối lại. Ngày 22-1,
Hiệp định hoàn thành. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về Việt Nam được chính thức ký
kết.
Hiệp định Pari là thắng lợi tổng hợp của cuộc đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân
sự, ngoại giao. Với Hiệp định, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút khỏi Việt Nam và Đông
Dương, chấm dứt dính líu quân sự. Mỹ phải lùi về chiến lược, rút lui về quân sự khỏi
Đông Dương, tránh một Việt Nam thứ hai. Chính quyền Sài Gòn mất chỗ dựa, nhanh
chóng bị suy yếu và lún sâu vào khủng hoảng. Phía ta giữ nguyên lực lượng chính trị và
vũ trang, tạo thành một thế trận mới, một so sánh lực lượng mới rất có lợi cho ta. Đại
thắng mùa Xuân 1975 hoàn toàn giải phóng miền Nam không tách khỏi thắng lợi của
Hiệp định Pari. Suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, Trung ương Đảng mấy lần trù liệu
“giành thắng lợi quyết định” (1964, 1968, 1972...), cho đến Hiệp định Pari, tổng hòa
thắng lợi quân sự, chính trị, buộc Mỹ chấm dứt chiến tranh, rút hết quân... Có thể coi
Hiệp định Pari gắn với thắng lợi trên chiến trường là “thắng lợi quyết định” mà chúng ta
giành được bằng sức mạnh tổng hợp.

III- NHỮNG BÀI HỌC
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngoại giao đã có những đóng góp xứng đáng vào
thắng lợi chung của dân tộc. Những nguyên nhân thành công chủ yếu là:
1. Đảng đã xác định đúng vai trò của ngoại giao là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược với
những chức năng phối hợp với đấu tranh quân sự, chính trị rất rõ ràng. Nghị quyết Trung
ương 13 (1-1967) khẳng định: “... đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh
cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc


đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ
động”9.
2. Trong quá trình chỉ đạo đấu tranh, dù ở tầm chiến lược hay ở mức chiến thuật, Trung
ương và Bộ chính trị đều nắm chắc yêu cầu của chiến trường kết hợp với tình hình quốc

tế để chỉ đạo những chủ trương, bước đi lớn cho đến các vấn đề cụ thể như một đề nghị
hòa bình, một điều khoản của Hiệp định. Nhờ vậy, ngoại giao và đàm phán ứng xử được
kịp thời, đúng hướng.
3. Trong chống Mỹ, ngành ngoại giao có bước trưởng thành vượt bậc. Cán bộ ngoại giao
được tăng cường, trình độ hiểu biết thế giới, tầm nhìn chiến lược cho đến các kiến thức
nghiệp vụ đều được nâng cao. Bộ máy ngoại giao được mở rộng gồm bộ phận tham mưu
nghiệp vụ trong nước, bộ phận tham gia hai đoàn đàm phán và các cơ quan đại diện ở
nước ngoài. Các lực lượng này phối hợp với ngoại giao Đảng, ngoại giao nhân dân, dưới
sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng phát huy được sức mạnh và hiệu quả của mặt
trận ngoại giao.
Qua đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, ngoại giao rút được nhiều bài học lớn. Dưới đây xin
nêu mấy bài học chủ yếu nhất góp phần làm rõ bản lĩnh và trí tuệ trên mặt trận ngoại
giao.
Bài học thứ nhất cũng là thành công quan trọng nhất là từ đầu, Đảng đã chủ trương đấu
tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao. Với sự phối hợp đó, ta đã thực hiện
tốt phương châm gắn Việt Nam với thế giới, phát huy sức mạnh tổng hợp, kiềm chế, tấn
công, bủa vây kẻ địch, gây khó khăn cho chúng ở chiến trường, trên quốc tế và cả trong
nước Mỹ, góp phần tạo so sánh lực lượng và thế trận ngày càng có lợi cho ta.
Đảng đã khéo chọn phương thức tốt nhất để phối hợp ba mặt trận là vận dụng “vừa đánh
vừa đàm”. Khác với thời chống Pháp, thời chống Mỹ ta “vừa đánh vừa đàm”, hầu như
suốt cuộc chiến. Nhờ đánh đàm, ta phát huy thế mạnh chính nghĩa dân tộc, đánh mạnh
vào chính sách xâm lược của Mỹ, kịp thời phát huy thắng lợi ở chiến trường, khai thác
khó khăn của chúng để từng bước đẩy lùi chúng. Đánh đàm cũng là phương thức tốt nhất
để tranh thủ dư luận: lấy chiến thắng và lòng dũng cảm của quân dân để cảm hóa lương
tri loài người; lấy các đề nghị hòa bình thiện chí và các lập luận sắc bén trên bàn đàm
phán để thu hút dư luận về phía ta. Thực tế chứng tỏ thắng lợi trên chiến trường đóng vai
trò quyết định thì ngoại giao và đàm phán góp phần tác động chiến trường và phát huy
thắng lợi ở mặt trận để giành thắng lợi lớn hơn.
Bài học thứ hai là ngoại giao phát huy thế mạnh chính nghĩa dân tộc và thế thắng ở chiến
trường góp phần có tính chất quyết định trong việc tập hợp lực lượng quốc tế, tranh thủ

đồng minh, tác động nội bộ địch, đưa tới hình thành mặt trận nhân dân thế giới vĩ đại ủng
hộ Việt Nam. Sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế cũng là một trong những nguyên nhân
thắng lợi của nhân dân ta.
Để làm việc này, chúng ta đã kết hợp vận động chính trị, vận động báo chí với đấu tranh
trên bàn đàm phán. Chúng ta duy trì hai diễn đàn, tận dụng diễn đàn công khai với những
bài phát biểu có tính chính luận, những cuộc họp báo có sức thuyết phục. Chúng ta khai
thác địa bàn Pari là một trung tâm báo chí, đầu mối thông tin quốc thế để tranh thủ dư
luận được rộng khắp. Có thể nói tại diễn đàn Pari, Việt Nam ở vào thế lợi và thế mạnh áp


đảo so với đối phương.
Cùng với diễn đàn Pari, ngoại giao Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân nhằm vào các
đối tượng trọng yếu nhất, như Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước
Tây Bắc Âu - nơi có phong trào ủng hộ Việt Nam sôi động nhất. Ngoài giới công nhân và
thanh niên, chúng ta rất coi trọng tầng lớp trí thức, các nhà bác học, giáo sư, học giả, văn
nghệ sĩ tên tuổi, quy thành hàng trăm tổ chức, hàng trăm cuộc tập hợp, đại hội, hội thảo
ủng hộ Việt Nam, có tác động lớn. Tòa án quốc tế Béctơrăng Rútxen (Bertrand Russel) là
điển hình của phong trào trí thức, tiêu biểu cho tình cảm, lương tri loài người ủng hộ Việt
Nam.
Bài học thứ ba là suốt cuộc kháng chiến, chúng ta kiên trì quan điểm độc lập tự chủ của
Đảng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam diễn ra trong hoàn cảnh Chiến tranh
lạnh đang diễn ra gay gắt trên thế giới, nó liên quan đến nhiều nước, trước hết là ba nước
lớn Mỹ - Xô - Trung đều dính líu trực tiếp. Nước Mỹ đang thời hưng thịnh, quyết “không
để mất” Nam Việt Nam. Liên Xô, Trung Quốc hết lòng giúp Việt Nam nhưng cũng tìm
cách tác động vì lợi ích chiến lược của mình. Liên Xô, Trung Quốc mâu thuẫn nhau ngay
trong vấn đề Việt Nam và giúp Việt Nam. Đó là những khó khăn lớn cho ta.
Quan điểm của ta là chân thành đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc, quý trọng sự giúp đỡ
của bạn, coi trọng vị trí của bạn trong vấn đề Việt Nam. Ta coi trọng thông báo cho bạn
tình hình và chủ trương đánh đàm của ta. Ngày 8-10-1972 khi ta trao cho Mỹ đề nghị hòa
bình quyết định - Dự thảo Hiệp định, thì đồng thời ta cũng trao văn bản đó cho lãnh đạo

Đảng hai nước đồng minh. Chúng ta ứng xử với hai nước khôn khéo, cân bằng, không
đứng về bên này chống bên kia, không bên nặng, bên nhẹ.
Khó khăn nhất là khi Việt Nam đi vào nói chuyện với Mỹ; Liên Xô thúc đẩy để sớm có
thỏa hiệp, tích cực làm trung gian. Trái lại Trung Quốc phản đối, cho “miền Bắc bỏ rơi
miền Nam”, “mắc mưu xét lại”... Việt Nam giữ vững lập trường, tiếp xúc với Mỹ là để
phục vụ chiến trường. Ta kiên trì trao đổi, thuyết phục, cuối cùng, bằng thực tế, cả hai
nước đều đồng tình với bước đi và bài bản đánh đàm của lãnh đạo Việt Nam. Việt Nam
vượt qua mọi sức ép, đoàn kết được với cả Liên Xô, Trung Quốc, làm thất bại âm mưu
của Mỹ chia rẽ Việt Nam với các đồng minh. Ta tự chủ được vững vàng là do rút được
kinh nghiệm thời chống Pháp và thời kỳ đầu sau Hiệp định Giơnevơ. Quan trọng hơn cả
là do thực lực ta khác trước, bản lĩnh, tư duy cũng vững vàng hơn trước.
Bài học thứ tư là ngoại giao Việt Nam luôn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, dĩ bất biến
ứng vạn biến”, vững vàng về nguyên tắc nhưng hết sức linh hoạt về sách lược.
Đối phó với kẻ địch mạnh, với chính sách ngoại giao trên thế mạnh, trước hết ngoại giao
phải giữ vững lập trường, mục đích chiến đấu của nhân dân. Ta khẳng định yêu cầu
nguyên tắc là Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn ném bom miền Bắc, phải rút hết quân Mỹ
khỏi miền Nam mà không được đòi điều kiện gì. Ta kiên trì nguyên tắc Mỹ rút hết nhưng
ta giữ nguyên lực lượng chính trị vũ trang ở miền Nam.
Nhưng đánh một kẻ thù mạnh, ta phải có nghệ thuật vận dụng sách lược khôn khéo, mềm
dẻo để đẩy lùi địch từng bước, giành thắng lợi từng bước. Vận dụng sách lược là một lĩnh
vực đòi hỏi tầm trí tuệ cao và tư duy năng động. Suốt mấy năm chống Mỹ, ta đã vận dụng
sách lược phong phú, khó kể hết. Dưới đây xin nêu vài ví dụ:


Ví dụ thứ nhất: Suốt mấy năm đàm phán, Mỹ luôn đòi “hai bên cùng rút quân”, “quân
miền Bắc phải rút khỏi miền Nam”... Phiên họp nào Mỹ cũng lặp lại yêu sách này và
cũng ít nhiều gây khó khăn cho ta trước dư luận. Tháng 5-1969, ta đưa ra đề nghị hòa
bình 10 điểm, trong đó điểm 3 nêu “Vấn đề các lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam
sẽ do các bên Việt Nam giải quyết”. Luận điểm sách lược này trước mắt là nhằm bác bỏ
yêu sách của Mỹ, không cho phía Mỹ được quyền dính líu vào vấn đề lực lượng vũ trang

Việt Nam. Về lâu dài, ta cũng hướng vào giải quyết vấn đề này theo cách đó là thuận cho
ta nhất. Ta kiên trì sách lược này suốt bốn năm. Cuối cùng nó được hai bên thỏa thuận
thành một điều khoản của Hiệp định. Điều 13 của Hiệp định ghi: “Vấn đề lực lượng vũ
trang Việt Nam ở miền Nam sẽ do hai bên miền Nam Việt Nam giải quyết”. Đây là một
kỳ công về sách lược và nghệ thuật đàm phán, đưa lại thành công lớn.
Ví dụ thứ hai: Đàm phán có hai loại vấn đề: quân sự và chính trị. Đi vào đàm phán thực
chất, suốt mấy tháng Mỹ vẫn không chịu bàn các vấn đề chính trị. Chúng muốn giữ
nguyên chế độ Sài Gòn. Đàm phán không tiến triển và có nguy cơ bế tắc. Cuối tháng 91972, Bộ Chính trị tính toán, cần gỡ bế tắc nên phải điều chỉnh yêu cầu đàm phán và chỉ
thị cho đoàn Pari “... tranh thủ chấm dứt chiến tranh trước bầu cử Mỹ, ép Mỹ ký Hiệp
định chính thức gồm có ngừng bắn, rút quân, thả tù binh” 10. Ta tạm gác các vấn đề chính
trị gai góc khó thỏa thuận mà tập trung giải quyết các vấn đề quân sự buộc Mỹ chấm dứt
chiến tranh - rút hết quân - ta đặt yêu cầu “đánh cho Mỹ cút”. Đây là một sách lược lớn,
dũng cảm, tài tình, hiệu lực. Nhờ sách lược lớn này mà lập trường hai bên gần nhau và
chỉ trong vòng 12 ngày đạt được thỏa thuận Hiệp định (Văn bản ngày 20-10-1972).
Vận dụng sách lược là nghệ thuật tinh tế nhất của ngoại giao và đàm phán.
Bài học bao quát nữa là: Biết nắm thời cơ giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng
lợi quyết định để đi tới thắng lợi cuối cùng.
Chống kẻ thù mạnh, ngay từ đầu chúng ta đã phải trù tính thắng địch như thế nào, buộc
địch thua đến đâu thì chúng có thể chịu; ta thắng đến đâu là phù hợp khả năng của ta. Bởi
vậy phương châm giành thắng lợi từng bước là con đường tất yếu của ta để đi đến thắng
lợi. Nắm thời cơ là nhân tố hàng đầu để giành một bước thắng lợi. Thời cơ gồm ba nhân
tố chính: tình hình chiến trường, tình hình nội bộ địch và tác động của quốc tế.
Năm 1967, trên chiến trường ta đã chế ngự được địch, Mỹ sa lầy, nội bộ Mỹ rạn nứt, quốc
tế lên án Mỹ mạnh mẽ. Ta nắm thời cơ bắt đầu đòi Mỹ xuống thang trên miền Bắc. Ta đi
từng bước, buộc Mỹ hạn chế ném bom (3-1968) và chấm dứt hoàn toàn (10-1968)
Sau cuộc Tổng tiến công Xuân Hè 1972, Trung ương và Bộ Chính trị nghiên cứu tổng
hợp các nhân tố: “Việt Nam hóa” của Níchxơn đã thất bại nghiêm trọng; thế và lực cách
mạng trên toàn Đông Dương đã mạnh hơn địch; Níchxơn chịu nhiều sức ép phải chấm
dứt chiến tranh trước bầu cử. Mặt khác Xô, Trung đã đi vào hòa hoãn với Mỹ. Tổng hợp
các nhân tố đó, Bộ Chính trị đánh giá ta có thời cơ kết thúc chiến tranh. Từ đó Bộ Chính

trị chủ trương đưa đàm phán đi vào thực chất, giành thắng lợi một bước quan trọng, buộc
Mỹ chấp nhận một giải pháp kết thúc chiến tranh. Với tư tưởng chiến lược đó, ta ép Mỹ
thỏa thuận Hiệp định Pari phù hợp thời cơ ta tính toán.
Hiệp định Pari ngày 27-1-1973 cũng là thắng lợi một bước nhưng là một bước lớn, có ý
nghĩa quyết định, buộc Mỹ rút hết, tạo nên so sánh lực lượng và thế trận rất có lợi cho ta


để hai năm sau ta giành thắng lợi cuối cùng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Những bài học kinh nghiệm lớn thời chống Mỹ có tính chất kinh điển và ý nghĩa lâu dài.
ØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØ

Các nước yêu chuộng hòa bình luôn ủng hộ lập trường chính nghĩa của nhân
dân Việt Nam, cổ vũ mọi thắng lợi của nhân dân ta, lên án mạnh mẽ đế quốc
Mỹ xâm lược. Tại nhiều nước Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Anbani,
Cuba, Hunggari, Cộng hòa Dân chủ Đức... nhiều quân nhân và thanh niên
nam, nữ đã tình nguyện hiến máu gửi tặng nhân dân ta. Đi đôi với việc ủng
hộ về chính trị, tinh thần, nhân dân ta còn nhận được sự giúp đỡ to lớn của
Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong hệ thống XHCN về vật chất và cố
vấn, chuyên gia kỹ thuật. Đầu năm 1966, Thủ tướng Cu Ba Phiđen Caxtơrô
đã tuyên bố: "Vì Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng đến cả dòng máu
của mình".
Trên mặt trận đấu tranh ngoại giao, chúng ta đã tranh thủ được sự đồng tình
ủng hộ của nhân dân thế giới, và đã tập hợp được các nước Á, Phi, Mỹ
Latinh, các nước Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ và ngay trong lòng nước Mỹ vào
một mặt trận chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam.
Tại các hội nghị đoàn kết Á - Phi, đoàn kết Á - Phi - Mỹ Latinh, các Đoàn
đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam được hầu hết các nước đồng tình, ủng hộ.
Để đoàn kết và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, hơn 200 tổ chức, ủy ban, phong
trào đoàn kết được lập ra ở hầu hết các nước trên thế giới với nhiều hoạt

động tích cực.
Hàng triệu người thuộc nhiều nước ghi tên tình nguyện sang giúp nhân dân
Việt Nam đánh Mỹ: 16 nước có phong trào hiến máu; trên 50 nước có phong
trào quyên góp ủng hộ Việt Nam. Ở Pháp có các phong trào quyên góp "100
triệu Frăng ủng hộ Việt Nam"; ở Nhật Bản có chiến dịch quyên góp "100
triệu yên cho Việt Nam"; ở Thụy Điển có phong trào "Một triệu cuaron ủng
hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam". Nổi bật là cuộc tổng
bãi công của hơn 5 triệu công nhân thuộc 91 tổ chức công đoàn Nhật Bản
trong năm 1965. Hội Liên hiệp Phụ nữ Pháp tổ chức "Đêm thức vì hòa bình
ở Việt Nam"... Giữa lòng Thủ đô Stốckhôm, xuất hiện các "chiến khu giải
phóng" của thanh niên Thụy Điển. Họ lấy cờ Mặt trận và bài hát Giải phóng
miền Nam làm cờ và bài ca chính thức, lập ra nhóm hành động ủng hộ Mặt


trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Nhân dân Cộng hòa Liên bang
Đức đã sôi sục biểu tình tại hơn 50 thành phố phản đối Mỹ ném bom Hà
Nội, Hải Phòng.
Từ châu Phi, châu Mỹ Latinh xa xôi cũng vang lên những tiếng thét phẫn nộ
phản đối hành động xâm lược của đế quốc Mỹ và tỏ rõ nhiệt tình ủng hộ sâu
sắc với cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Các nước Áchentina, Urugoay,
Cốtxta Rica, Cônggô, Xômali... đã tổ chức giới thiệu cuộc chiến đấu của
nhân dân Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam ngày càng
tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của xã hội Mỹ. Nhân dân Mỹ, đặc biệt là
nhiều lính Mỹ đang tham chiến ở Việt Nam không chỉ thấy sự vô nghĩa, tính
chất phi đạo lý của cuộc chiến tranh xâm lược, mà còn thức tỉnh, kính phục
một dân tộc giàu lòng yêu nước, dũng cảm chiến đấu bảo vệ nền độc lập, tự
do của mình. Ngày 24-3-1965, cuộc hội thảo đầu tiên về chiến tranh Việt
Nam được tổ chức tại Trường đại học Michigân với hơn 3 nghìn sinh viên
tham dự, sau đó đã nhanh chóng lan ra các trường đại học khác.

Phong trào đấu tranh của sinh viên từ các giảng đường đã lan tỏa ra các
đường phố. Ngày 8-6-1965, hơn 18 nghìn người đã tụ họp tại Niu Yoóc
quyết định: "Tất cả những ai chống chiến tranh Việt Nam phải xuống
đường". Các cuộc đấu tranh từ tự phát chuyển sang có tổ chức, sinh viên đã
lập ra "Ủy ban phối hợp toàn quốc nhằm chấm dứt chiến tranh Việt Nam".
Từ đó, các cuộc biểu tình ngày càng có quy mô lớn và quyết liệt hơn. Mở
đầu là Noócman Morixơn, đã tự thiêu trước trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ. Theo
tấm gương Morixơn, một tuần sau (9-11-1965), người thanh niên Mỹ tên là
Rôgiơ Lapotơ, 22 tuổi tự thiêu trước trụ sở Liên Hợp quốc để phản đối cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Tiếp đó, ngày 10 - 11 chị Xilin
Giancaoxki, và cụ bà Helga Alíthớt, 79 tuổi tự thiêu để chống cuộc chiến
tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam. Hành động cao đẹp và dũng cảm trên
được báo chí nhiều nước ca ngợi, coi đây "là những bó đuốc tiếp sức phản
kháng cuộc chiến tranh dã man ở Việt Nam", là lời tố cáo nghiêm khắc của
người dân Mỹ đối với nhà cầm quyền Mỹ
ØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØØ

Ngoại giao đấu tranh thực hiện Hiệp định Geneve: giai đoạn 1954 –
1959
Thắng lợi lịch sử của chiến dịch Điện Biên Phủ đã đưa đến việc ký kết Hiệp


định Geneve (7/1954) về lập lại hòa bình ở Đông Dương. Tuy nhiên, trong
khi ta nghiêm túc thi hành Hiệp định Geneve, mong muốn “hòa bình thống
nhất” và kiên trì đấu tranh để tổ chức tổng tuyển cử thì đế quốc Mỹ không
chấp nhận các điều khoản của Hiệp định, thúc đẩy kế hoạch thay thế thực
dân Pháp ở miền Nam, hậu thuẫn ngụy quyền tay sai ra sức phá hoại Hiệp
định.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (đứng, bên phải) trình bày với Chủ tịch Hồ

Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước bàn kế hoạch mở
chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ của ngoại giao là vừa phục vụ việc đấu tranh
thi hành Hiệp định Geneve, vừa phục vụ công cuộc phục hồi kinh tế ở miền
Bắc. Các đoàn đại biểu Chính phủ của ta đã lần lượt tiến hành các chuyến
thăm Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN anh em khác. Qua các chuyến
thăm này, các nước bạn đã giúp ta khôi phục và tăng cường các cơ sở, xí
nghiệp sản xuất, góp phần phục hồi kinh tế ở miền Bắc. Đối với việc đấu
tranh thi hành Hiệp định Geneve, ngoại giao của ta tập trung vào các điểm
chính: Tố cáo trước dư luận thế giới việc Mỹ - Diệm phá hoại việc thi hành


Hiệp định Geneve; Chính phủ ta nhiều lần gửi thư cho Ngô Đình Diệm đề
nghị mở hội nghị hiệp thương chuẩn bị tổng tuyển cử, [1] vận động Ủy ban
quốc tế gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada thúc đẩy việc thi hành Hiệp định.
Tuy nhiên, với dã tâm chia cắt đất nước ta, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới
lên miền Nam, Mỹ - Diệm đã thẳng thừng bác bỏ Hiệp định Geneve, khước
từ khả năng thống nhất nước nhà bằng con đường hiệp thương hòa bình.
Ngoại giao chống sự can thiệp của Mỹ: giai đoạn 1959 – 1964
Sau khi nước ta phải tạm thời chia làm hai miền, ta đồng thời tiến hành hai
nhiệm vụ cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc
dân chủ ở miền Nam. Được sự giúp đỡ của các nước trong khối XHCN, đến
cuối năm 1957, miền Bắc đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh
tế. Trong khi đó, ở miền Nam, tháng 5/1957, Ngô Đình Diệm sang Hoa Kỳ
gặp Tổng thống Aixenhao, ra thông cáo chung khẳng định Mỹ ủng hộ Diệm,
lập phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự (MAAG) nhằm đẩy mạnh xây dựng
quân đội Sài Gòn thành một lực lượng đủ mạnh để chống phá, đàn áp phong
trào cách mạng của nhân dân miền Nam.

Ngày 7/4/1961, hơn 5.000 đồng bào xã X tỉnh Bến Tre mít tinh

tẩy chay trò hề bầu cử tổng thống lần thứ hai của Mỹ - Diệm.
Ảnh tư liệu TTXVN
Tháng 5/1959, Diệm ban hành luật 10/59 dùng tòa án quân sự đặc biệt xét
xử những người yêu nước, lê máy chém đi khắp miền Nam đàn áp các chiến


sỹ cách mạng. Trước những hành động phá hoại, đàn áp của chính quyền
Diệm và sự can thiệp của Mỹ, cách mạng miền Nam đã gặp phải nhiều tổn
thất. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng bị phá vỡ, nhiều đồng chí cán bộ theo kháng
chiến bị bắt, bị đàn áp, giết hại. Đến giữa năm 1961, lần lượt Phó Tổng
thống Johnson và các tướng lĩnh của Mỹ sang miền Nam, vạch ra kế hoạch
Stanley – Taylor, dự kiến bình định miền Nam trong 18 tháng, củng cố tiềm
lực cho ngụy quyền, sau đó sẽ tiến công miền Bắc. Trên cơ sở kế hoạch này,
Mỹ tăng cường viện trợ tài chính và quân sự cho chính quyền Sài Gòn, dồn
dân vào các ấp chiến lược, đẩy mạnh càn quét, bình định các tỉnh miền Nam.
Trước tình hình đó, với ý chí độc lập tự chủ, xuất phát từ thực tiễn cách
mạng Việt Nam và thế giới, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ đã
khởi thảo bản Đề cương cách mạng miền Nam. Trên tinh thần cốt lõi của bản
đề cương, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1/1959) đã hoàn
chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, chỉ ra phương pháp
kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến lên giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Dưới ánh sáng của nghị quyết 15, cách mạng
miền Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, “từ thế giữ gìn lực lượng sang thế
tiến công.” [2] Phong trảo Đồng khởi đã giáng một đòn bất ngờ vào chiến
lược can thiệp của Aixenhao. Ngày 20/11/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam ra đời, đánh dấu sự kiện quan trọng trong phong trào
đấu tranh chống Mỹ - Diệm. Mặt trận chủ trương thực hiện chính sách ngoại
giao hòa bình, trung lập, lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền tiến tới
hòa bình thống nhất Tổ quốc, chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ
hòa bình thế giới, nhờ đó ngày càng được thế giới công nhận và ủng hộ.

Trong giai đoạn này, ngoại giao ta tích cực đấu tranh chống chính sách độc
tài của chính quyền Ngô Đình Diệm, chống sự can thiệp của Mỹ. Ta chú ý
vận động dư luận trong nước và quốc tế. Ngày 18/2/1962, chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố về việc Mỹ tăng cường can thiệp và
xâm lược miền Nam Việt Nam . Các nước Liên Xô, Trung Quốc, Ủy ban
đoàn kết Á – Phi, Hội đồng hòa bình thế giới, Hội luật gia dân chủ quốc tế…
đều lên tiếng phản đối Mỹ can thiệp vào miền Nam, ủng hộ Việt Nam.
Cũng trong giai đoạn này, ta còn tính đến khả năng trung lập hóa miền Nam.
Thực tế lúc đó, ở Đông Dương, trong những điều kiện lịch sử khác nhau, các
Chính phủ ở cả Lào và Campuchia đều đi theo con đường trung lập. [3] Ở
miền Nam, khủng hoảng chính trị diễn ra triền miên, đã có sự xuất hiện của
“lực lượng thứ ba” đấu tranh chống chính quyền Mỹ - Diệm, đòi các quyền


dân sinh dân chủ. Trước tình hình mới, ta tính đến khả năng đấu tranh lập
một chính phủ liên hiệp thi hành chính sách đối ngoại trung lập, yêu cầu Mỹ
rút quân và từ đó hoàn thành thống nhất đất nước. Trong “Thư vào Nam ”
đồng chí Lê Duẩn đã nói rõ về khả năng này. [4] Chính sách đấu tranh để
xây dựng một chính quyền trung lập ở miền Nam vừa nhằm khoét sâu mâu
thuẫn giữa các phe phái trong chính quyền Sài gòn và tập hợp quần chúng
miền Nam, vừa nhằm đẩy Mỹ vào thế bị động: Một khi chính phủ trung lập
ở miền Nam được lập nên, chính phủ đó sẽ yêu cầu Mỹ rút lực lượng quân
sự khỏi miền Nam và hai miền sẽ bàn về cách thức thống nhất đất nước
trong hòa bình.
Nhiều chính khách của Mỹ và quốc tế như Tổng thống Pháp De Gaulle,
Thượng nghị sỹ Mỹ Mike Mansfield đã nêu vấn đề thúc đẩy một Đông Nam
Á trung lập thông qua một kiểu đình chiến hoặc dàn xếp nào đó. [5] Tuy
nhiên, Nhà Trắng đã đưa ra thuyết “domino” để tạo sức ép theo hướng tăng
cường can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam . Các quan chức trong
chính quyền Mỹ, bao gồm Ngoại trưởng Dean Rusk, cố vấn an ninh quốc gia

Bundy và Bộ trưởng quốc phòng Mc Namara đều cho rằng ý tưởng trung lập
hóa miền Nam Việt Nam sẽ gây hậu quả hết sức nghiêm trọng đối với Mỹ và
phương Tây. Chính quyền Johnson do đó kiên quyết can thiệp vào Việt
Nam , dự thảo một nghị quyết của Quốc hội Mỹ cho phép mở rộng các hoạt
động quân sự ở Đông Dương, được thông qua sau “sự kiện Vịnh Bắc Bộ” do
Mỹ dàn dựng vào tháng 8/1964.
Ngoại giao đấu tranh chống chiến tranh cục bộ: giai đoạn 1965-1967
Tháng 2/1965, Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân
chống miền Bắc. Tháng 3/1965, Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam, bắt đầu
cuộc chiến tranh cục bộ. Để che đậy bản chất phi nghĩa và tính chất tàn bạo
của các hành động chiến tranh, Mỹ ráo riết tung ra nhiều thủ đoạn ngoại
giao: Ra sách trắng “Vì đâu có vấn đề Việt Nam” nhằm đổ lỗi cho Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa; thông báo cho Liên hợp quốc rằng Mỹ sẵn sàng rút hết
các đơn vị quân sự của họ trong trường hợp “Bắc Việt Nam chấm dứt xâm
lược Nam Việt Nam”.
Ngày 7/4/1965, Tổng thống Johnson đọc diễn văn tại trường Đại học Johns
Hopkins vu cáo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công một quốc gia độc lập
và Mỹ có trách nhiệm bảo vệ tự do cho đồng minh của mình, chìa “củ cà
rốt”: Mỹ sẵn sàng bỏ ra 1 tỷ đôla góp vào sự phát triển ở Đông Nam Á, kể cả
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Mỹ mở nhiều đợt vận động ngoại giao cho cái


gọi là “sáng kiến hòa bình,” thông qua các kênh khác nhau tiếp xúc với ta để
thăm dò quan điểm, phái nhiều nhà ngoại giao đến Paris, Tokyo, Moscow,
New Dehli... [6] tạo nên chiến dịch ngoại giao rầm rộ mang mật hiệu “Pinta”
nhằm vận động cho “sáng kiến hòa bình,” đồng thời đe dọa khả năng sẽ
đánh phá miền Bắc mạnh hơn nữa để buộc ta phải đàm phán.

Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam ra mắt tại Đại hội lần thứ nhất. Ảnh tư liệu

Chống lại các thủ đoạn và luận điệu ngoại giao của Mỹ, ta đã tiến hành
nhiều hoạt động ngoại giao và vận động quốc tế nhằm đề cao chính nghĩa
dân tộc, thể hiện quyết tâm của nhân dân Việt Nam quyết đánh và quyết
thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ; lên án cuộc chiến tranh xâm lược
của Mỹ, các hành động leo thang chiến tranh và các tội ác của Mỹ trên cả hai
miền, mạnh mẽ bác bỏ các luận điệu về “đàm phán không điều kiện” và “hai
bên cùng rút quân.” Ngày 22/3/1965, Mặt trận dân tộc giải phóng ra tuyên
bố 5 điểm biểu thị mạnh mẽ lập trường, mục tiêu chiến đấu và quyết tâm của
nhân dân miền Nam chống xâm lược cho đến thắng lợi cuối cùng. Ngày
8/4/1965, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố 4 điểm nêu rõ
lập trường và những nguyên tắc lớn của một giải pháp thỏa đáng để chấm
dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Hai bản tuyên bố này là cơ
sở vững chắc cho đấu tranh ngoại giao của ta.
Ta đã đón tiếp nhiều vị khách quốc tế đến làm “trung gian hòa giải,” qua đó


nói rõ lập trường của chính phủ ta, vạch trần bản chất xâm lược và hoạt động
ngoại giao nhằm che đậy các hành động chiến tranh phi nghĩa của Mỹ. Qua
các cuộc đón tiếp Thứ trưởng Ngoại giao Ba Lan Mikhailovsky; nhà ngoại
giao Ronning, đại diện chính phủ Canada; chính khách Sainteny, đại diện
Pháp và cả các vị khách Mỹ là các nhà báo, nhà hoạt động tôn giáo... tới Hà
Nội; qua các bức thư trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với De Gaulle,
với Johnson; trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế; thư của Chủ tịch Hồ Chí
Minh ngày 24/1/1966 gửi đến người đứng đầu nhà nước và chính phủ của
gần 70 nước... ta đã đề cao chính nghĩa dân tộc và ý chí sắt đá của nhân dân
Việt Nam, phản bác lại các thủ đoạn ngoại giao của Mỹ, đẩy Mỹ vào thế
phải đối phó với dư luận trong và ngoài nước đòi chấm dứt các hành động
chiến tranh phi nghĩa.
Ngoại giao kết hợp “đánh - đàm”: giai đoạn 1967 – 1973
Chính vào lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước

vào giai đoạn quyết liệt nhất, tháng 12/1965, Đảng ta ra Nghị quyết Trung
ương 12, trong đó chỉ rõ “đánh đến một lúc nào đó sẽ vừa đánh vừa đàm”
nhưng nhận định “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp.” [7] Đến
tháng 1/1967, sau những thắng lợi của quân và dân hai miền, Nghị quyết
Trung ương 13 đã quyết định mở mặt trận ngoại giao để tạo cục diện đánh đàm và kéo Mỹ xuống thang chiến tranh. [8] Đảng đã xác định vai trò của
ngoại giao là một mặt trận có ý nghĩa chiến lược với chức năng phối hợp với
đấu tranh quân sự, chính trị, đồng thời khẳng định: “...đấu tranh ngoại giao
không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong
tình hình quốc tế hiện nay với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu
tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động.”
[9] Để tăng sức mạnh tấn công, ngày 27/1/1967, ta đưa ra khẩu hiệu sách
lược: “Chỉ sau khi Hoa Kỳ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi
hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thì Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa với Mỹ có thể nói chuyện được.” [10] Tuyên bố này
vừa tỏ rõ thiện chí, vừa phù hợp với đạo lý nên được dư luận thế giới hưởng
ứng và ủng hộ mạnh mẽ. Trong khi đó, Mỹ trở nên bị động về ngoại giao và
đối phó lúng túng. Trước sức ép của dư luận, đặc biệt là phong trào nhân dân
Mỹ, ngày 29/9/1967, trong diễn văn đọc tại San Antonio, Tổng thống
Johnson phải công khai tuyên bố: “Mỹ sẵn sàng ngưng ngay việc bắn phá
miền Bắc Việt Nam của máy bay và tàu chiến Mỹ khi việc làm này dẫn tới
cuộc thảo luận có kết quả và không bị lợi dụng.” [11] Rõ ràng tuyên bố này
là một bước lùi của Mỹ, có phần mềm dẻo hơn các tuyên bố trước đây. Tuy


nhiên, Mỹ vẫn giữ lập trường “ngừng ném bom có điều kiện” và “có đi có
lại,” điều ta kiên quyết bác bỏ.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, “ gây ra một chấn động
mạnh trên toàn nước Mỹ.” [12] Nội bộ chính giới Mỹ rối ren, dao động, ý
chí xâm lược bị lung lay mạnh mẽ. Dưới sức ép của dư luận Mỹ, Tổng thống
Johnson đã phải bác bỏ kế hoạch tăng quân, chấp nhận chuyển hướng chiến

lược, tìm giải pháp đàm phán. Ngày 31/3/1968, Johnson tuyên bố đơn
phương chấm dứt ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; Mỹ sẵn sàng cử
đại diện thảo luận biện pháp chấm dứt chiến tranh, đồng thời tuyên bố không
ra tranh cử nhiệm kỳ mới. Tuyên bố của Johnson đã đánh dấu sự thừa nhận
thất bại của Mỹ trong chiến lược chiến tranh cục bộ, đánh dấu một bước thay
đổi lớn, xuống thang chiến tranh, tìm kiếm giải pháp hòa bình. Cục diện
“đánh – đàm” đã được mở ra.
Đáp lại tuyên bố trên, ngày 3/4/1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa ra tuyên bố: “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn
sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện Mỹ nhằm xác định với phía
Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và các hoạt động
chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu
cuộc nói chuyện.” Cuộc tiếp xúc song phương Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
- Hoa Kỳ bắt đầu ngày 13/5/1968. Suốt 4-5 tháng, ta vận dụng tiếp xúc để hỗ
trợ chiến trường, lên án và tố cáo tội ác chiến tranh của Mỹ, tranh thủ dư
luận quốc tế và dư luận Mỹ. Ta kiên trì đòi Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném
bom miền Bắc mới nói chuyện về các vấn đề khác; mạnh mẽ bác bỏ các điều
kiện do Mỹ đưa ra, như khôi phục khu phi quân sự, chấm dứt xâm nhập và
tiếp tế từ miền Bắc vào miền Nam... Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, ngoại
giao vận dụng sách lược đạt tới thỏa thuận Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom
miền Bắc, sau đó sẽ họp Hội nghị bốn bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng, Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn. Ngày
31/10/1968, Tổng thống Johnson tuyên bố chấm dứt hoàn toàn ném bom
miền Bắc. Buộc Mỹ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom bắn phá miền Bắc là
một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, là thắng lợi của sự phối hợp giữa đấu
tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao, tạo điều kiện củng cố hậu phương, tạo
niềm tin mạnh mẽ cho nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Từ đầu năm 1969 là thời gian bắt đầu hội nghị bốn bên tại Paris. Ta bước
vào giai đoạn đấu tranh mới với một tình hình khá phức tạp. Nixon bắt đầu
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh,” xây dựng quân đội Sài Gòn mạnh để

thay dần quân Mỹ, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương. Mỹ đồng thời


hòa hoãn với Liên Xô, Trung Quốc, âm mưu dàn xếp vấn đề Việt Nam trên
lưng Việt Nam. Sau đợt tổng tiến công năm 1968, lực lượng của ta bị suy
yếu, vùng giải phóng bị thu hẹp, “lực lượng trên chiến trường thay đổi, địch
ưu thế hơn ta, từ thế bị động nay địch giành lại thế chủ động.” [13]
Thấy rõ cuộc chiến chống Mỹ sẽ còn lâu dài, gian khó, từ đầu năm 1969, Bộ
Chính trị đề ra cho ngoại giao và đoàn đàm phán Paris một số nhiệm vụ chủ
yếu: Đẩy địch xuống thang một bước trên chiến trường chính, ép Hoa Kỳ
đơn phương rút một bộ phận quân Mỹ; khoét sâu khó khăn nội bộ Mỹ, nội
bộ ngụy, mâu thuẫn Mỹ - ngụy, đề cao vị trí quốc tế của Mặt trận dân tộc
giải phóng, tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ,
tranh thủ sự giúp đỡ mạnh mẽ của phong trào nhân dân thế giới bao gồm cả
nhân dân Mỹ đấu tranh đòi Mỹ rút nhanh, rút hết và không điều kiện khỏi
miền Nam Việt Nam...” [14] Ta xác định n hiệm vụ của ngoại giao là: T rên
trường quốc tế ra sức tranh thủ đồng minh, thêm bạn bớt thù, tiến công địch,
phục vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ; đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
[15]
Thực hiện các nhiệm vụ trên, ngoại giao đã vận dụng diễn đàn Hội nghị bốn
bên lên án Mỹ kéo dài chiến tranh, rút quân nhỏ giọt, tranh thủ dư luận,
không cho Mỹ dùng việc rút dần quân để chuyển sức ép về phía ta. Đánh
vào chỗ yếu là Mỹ không định được thời hạn rút hết quân, ngày 14/9/1970,
đại biểu Chính phủ cách mạng lâm thời đưa ra đề nghị hòa bình, đòi Mỹ
định thời hạn rút hết quân trước ngày 30/6/1970. Sau chiến thắng Đường 9 Nam Lào (3/1971), ngày 1/7/1971, ta đưa ra đề nghị Mỹ định thời hạn rút
hết quân Mỹ trước ngày 31/12/1971, nêu rõ “thời hạn rút hết quân Mỹ cũng
là thời hạn thả hết tù binh”. Dư luận Mỹ rất quan tâm đến việc thả tù binh vì
số phi công Mỹ bị bắt đều là con em các gia đình có thế lực ở Mỹ. Bởi vậy,

đề nghị 1/7/1971 có sức tấn công mạnh, dư luận ở Mỹ và trên thế giới đều
đòi phía Mỹ đáp ứng để sớm có hòa bình. Kết hợp với diễn đàn công khai,
cuối năm 1970 và giữa năm 1971, ta có những cuộc gặp riêng với phía Mỹ
(Lê Đức Thọ, Xuân Thủy với Kítxinhgiơ) nhằm thăm dò và tác động thêm
đối với phía Mỹ. Bên cạnh đó, ta tiếp tục tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ
của Liên Xô, Trung Quốc, các nước trong khối XHCN, các nước Đông
Dương đối với cuộc kháng chiến của ta; hình thành phong trào nhân dân
rộng lớn, kể cả ngay trong lòng nước Mỹ, ủng hộ Việt Nam, đòi Mỹ chấm
dứt chiến tranh.


Đàm phán Hiệp định Paris: 1968 - 1973
Kéo dài 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, trải qua 202 phiên họp công khai và 45
cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, Hội nghị Paris là cuộc đấu trí tuệ, bản
lĩnh quyết liệt giữa nền ngoại giao non trẻ với nền ngoại giao lão luyện của
một siêu cường hàng đầu thế giới. Cuộc đàm phán Paris trải qua ba giai
đoạn. Giai đoạn một bắt đầu từ ngày 13/5/1968 đến 31/10/1968, ta đấu tranh
buộc Mỹ phải chấp nhận chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa; chấp nhận việc triệu tập hội nghị về chấm dứt
chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam gồm 4 bên với sự tham gia của Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.
Giai đoạn hai từ ngày 25/1/1969 đến giữa năm 1972, ta kiên quyết đòi Mỹ
chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam
Việt Nam, xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, tôn trọng quyền tự quyết của nhân
dân miền Nam. Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh nhưng đòi miền Bắc và Mỹ
cùng rút quân, đòi duy trì khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn.
Giai đoạn cuối cùng từ tháng 7/1972 sau khi Mỹ buộc phải quay lại bàn đàm
phán sau các thất bại ở cả hai miền Nam - Bắc. Tuy vậy, Mỹ vẫn nuôi hy
vọng đạt được một thỏa thuận trên thế mạnh. Cuối tháng 12/1972, khi con át
chủ bài cuối cùng của Mỹ - dùng B52 đánh phá hủy diệt Hà Nội và các

thành phố lớn của miền Bắc - đã bị quân và dân ta đánh gục trong chiến
thắng vang dội "Điện Biên Phủ trên không," Mỹ mới chấp nhận ký Hiệp
định ngày 27/1/1973. [16]
Hiệp định Paris có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh
giải phóng, thống nhất đất nước của dân tộc ta. Hiệp định là văn bản pháp lý
toàn diện, đầy đủ nhất công nhận các quyền cơ bản của dân tộc ta, trong đó
Mỹ buộc phải cam kết “tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của
Việt Nam”. Hội nghị Paris và Hiệp định Paris đã góp phần quan trọng vào
nỗ lực tạo nên bước chuyển chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của dân tộc, từng bước buộc Mỹ phải đi vào giải pháp, chấm dứt ném
bom miền Bắc, rút toàn bộ quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, hoàn
thành mục tiêu chiến lược “đánh cho Mỹ cút.” Với việc buộc Mỹ phải rút hết
trong khi ta duy trì được hoàn toàn lực lượng, Hiệp định mở ra một cục diện
mới, so sánh lực lượng trên chiến trường nghiêng hẳn về ta để ta tiến lên
“đánh cho ngụy nhào,” hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam , thống
nhất đất nước.


Đấu tranh ngoại giao sau Hiệp định Paris: giai đoạn 1973-1975
Sau khi ký kết Hiệp định Pari, cuộc đấu tranh của ta chuyển sang giai đoạn
đấu tranh thi hành Hiệp định và tập trung giải phóng hoàn toàn miền Nam ,
thống nhất đất nước. Trong giai đoạn này, n goại giao tiếp tục giương cao
ngọn cờ hòa bình, đấu tranh đòi Mỹ - Ngụy thi hành Hiệp định; phối hợp với
mặt trận quân sự, chính trị, tạo thời cơ chiến lược cho cuộc Tổng tiến công
mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc. Một
mặt, ta nghiêm chỉnh thi hành Hiệp định ngừng bắn trên toàn chiến trường,
trao trả tù binh Mỹ. Mặt khác, ta tích cực, chủ động dùng ngoại giao phát
huy thế thắng ở chiến trường, vận dụng cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý của
Hiệp định, phối hợp với mặt trận quân sự, chính trị buộc Mỹ, ngụy thi hành
Hiệp định. Sau hiệp định Paris, hàng loạt nước đã công nhận Chính phủ

Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa trong năm 1973. Cho đến 6/10/1973, Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã có 34 nước công nhận và lập quan hệ
ngoại giao. [17] Ngày 29/3/1973, tại thủ đô Thụy Điển đã diễn ra Hội nghị
quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam, đòi Mỹ, ngụy quyền Sài gòn thi
hành nghiêm chỉnh và triệt để Hiệp định.
Từ cuối năm 1974, tình hình chiến trường cũng như tình hình nước Mỹ và
quốc tế có lợi cho ta. Vụ bê bối Watergate đã triệt tiêu khả năng Mỹ can
thiệp quân sự trở lại. Đầu năm 1975, trước thời cơ lịch sử, Đảng ta đã hạ
quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam , thống nhất Tổ quốc
bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Chiến dịch Tây
Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã
hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Mặt trận ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
Mặt trận ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng, đóng góp to lớn
vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến. Ngoại giao đã triển khai
nhiều hình thức đấu tranh hiệu quả, kết hợp với các mặt trận đấu tranh chính
trị và quân sự làm nên sức mạnh tổng hợp của nhân dân ta thắng đế quốc
Mỹ. Trong khi kiên trì “nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, chống tư tưởng
sợ Mỹ, tư tưởng đàm phán khi chưa có điều kiện có lợi, muốn kết thúc chiến
tranh với bất cứ giá nào, tư tưởng ỷ lại vào sự giúp đỡ của nước ngoài,
không tin tưởng vào sức mình," [18] ta đã gắn bó chặt chẽ những mục tiêu,
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam với sức mạnh của ba dòng thác cách
mạng thế giới, tức là kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.


Trong công tác tuyên truyền, vận động đối ngoại, ta đã triển khai hiệu quả
các hình thức đấu tranh, nêu rõ chính nghĩa của dân tộc, vạch rõ bản chất
hiếu chiến, chiến tranh phi nghĩa, xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai.
Ngoại giao đã phát huy thế mạnh chính nghĩa dân tộc và thế thắng ở chiến

trường góp phần có tính chất quyết định trong việc tập hợp lực lượng quốc
tế, tranh thủ đồng minh, tác động nội bộ địch, đưa tới hình thành mặt trận
nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ Việt Nam. Chúng ta đã kết hợp vận động
chính trị, vận động báo chí với đấu tranh trên bàn đàm phán. Chúng ta duy
trì hai diễn đàn, tận dụng diễn đàn công khai với những bài phát biểu có tính
chính luận, những cuộc họp báo có sức thuyết phục. Chúng ta khai thác địa
bàn Paris là một trung tâm báo chí, đầu mối thông tin quốc thế để tranh thủ
dư luận được rộng khắp. Có thể nói tại diễn đàn đàm phán Paris, Việt Nam ở
vào thế lợi và thế mạnh áp đảo so với đối phương.
Bên cạnh đó, ngoại giao cũng ra sức tranh thủ sự ủng hộ của phe Xã hội chủ
nghĩa. Trước hết là tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước Liên Xô,
Trung Quốc trong bối cảnh Xô - Trung tiếp tục đối kháng gay gắt, hai nước
mâu thuẫn nhau trong vấn đề Việt Nam và Mỹ đang đẩy mạnh hòa hoãn với
hai nước. Trong bối cảnh đó, ta kiên trì tranh thủ cả hai nước, nắm chắc và
vận dụng mẫu số chung của các nước trong vấn đề Việt Nam là chống đế
quốc Mỹ xâm lược, làm nghĩa vụ quốc tế đối với một nước Xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ hòa bình thế giới. Chúng ta giữ vững độc lập tự chủ về đường
lối kháng chiến. Quan điểm của ta là chân thành đoàn kết với Liên Xô,
Trung Quốc, quý trọng sự giúp đỡ của bạn, coi trọng vị trí của bạn trong vấn
đề Việt Nam. Ta coi trọng thông báo cho bạn tình hình và chủ trương đánh
đàm của ta... Chúng ta ứng xử với hai nước khôn khéo, cân bằng, không
đứng về bên này chống bên kia, không bên nặng, bên nhẹ... Ngoại giao Việt
Nam đã giữ vững lập trường, kiên trì trao đổi, thuyết phục, cuối cùng, bằng
thực tế, cả hai nước đều đồng tình với bước đi và biện pháp của Việt Nam.
Kết quả là Việt Nam vượt qua mọi sức ép, đoàn kết được với cả Liên Xô,
Trung Quốc, làm thất bại âm mưu của Mỹ chia rẽ Việt Nam với các đồng
minh. Nhờ đó, cho dù có mâu thuẫn, hai nước lớn Xô - Trung vẫn tiếp tục hỗ
trợ, giúp đỡ hiệu quả cho cuộc kháng chiến của ta.
Đối với các nước Đông Dương, ngoại giao góp phần đưa đoàn kết ba nước
Đông Dương lên tầm cao mới . Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực

lượng kháng chiến Campuchia và Lào. Chiến trường Đông Dương kết thành
một dải, vùng giải phóng ba nước nối liền, hình thành thế liên hoàn vững
mạnh. Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương tháng
4/1970 trở thành “hiến chương chung” củng cố tình đoàn kết chiến đấu của


×