Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ : KHÁC BIỆT QUAN NIỆM GIỮA VỢ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH TRẺ VỀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH HIỆN NAY (

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6 MB, 141 trang )

VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ MẠNH TUẤN

KHÁC BIỆT QUAN NIỆM GIỮA VỢ - CHỒNG
TRONG GIA ĐÌNH TRẺ VỀ
MỘT SỐ GIÁ TRỊ GIA ĐÌNH HIỆN NAY
(Nghiên cứu trường hợp thành phố Thủ Dầu Một – tỉnh Bình Dương)

Chuyên ngành: XÃ HỘI HỌC
Mã số: 60.31.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Lê Ngọc Văn

HÀ NỘI, năm 2012


Lời cảm ơn
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự
hướng dẫn nhiệt tình, sự giúp đỡ quý báu của các thầy, cô Học viện Khoa học Xã hội
– Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, các cô chú, anh chị tại hai địa bàn khảo sát. Với
lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Học viện Khoa học Xã hội, Khoa Xã hội học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS. Lê Ngọc Văn – Viện Gia đình và
Giới, người thầy kính mến đã hết lòng giúp đỡ, dạy bảo, động viên và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin cảm ơn các cô, chú lãnh đạo và các hộ gia đình trẻ tại phường Phú Lợi,


xã Tương Bình Hiệp thành phố Thủ Dầu Một đã hợp tác và cung cấp cho tôi những
thông tin quý giá để nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn bố mẹ, anh chị em và người vợ yêu quý đã luôn ở bên
cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2012
Tác giả luận văn
Đỗ Mạnh Tuấn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ xã hội học “KHÁC BIỆT QUAN NIỆM
GIỮA VỢ - CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH TRẺ VỀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ GIA
ĐÌNH HIỆN NAY (Nghiên cứu trường hợp thành phố Thủ Dầu Một – tỉnh
Bình Dương)” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và kết quả trong
luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác.

ĐỖ MẠNH TUẤN
Học viên cao học khóa I [2010 – 2012]
Chuyên ngành: Xã hội học
Học viện Khoa học Xã hội – Viện Khoa học Xã hội Việt Nam

Hà Nội, ngày 09 tháng 10 năm 2012
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Mạnh Tuấn


Mục lục
Trang

Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Danh mục các cụm từ viết tắt ............................................................................ iii
Danh mục các bảng biểu, hình ảnh sử dụng trong đề tài...................................... iv
Mở đầu ............................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn ............................................................................. 2
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 3
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 16
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu ................................................. 17
6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 18
6.1. Nghiên cứu tài liệu sẵn có....................................................................... 19
6.2. Nghiên cứu định lượng ........................................................................... 19
6.3. Nghiên cứu định tính .............................................................................. 21
7. Khung lý thuyết ............................................................................................. 22
8. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................... 23
Chương 1: Cơ sở lý luận.................................................................................. 24
1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu ...................................................................... 24
1.2. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................ 25
1.2.1. Gia đình............................................................................................. 25
1.2.2. Gia đình trẻ ....................................................................................... 26
1.2.3. Giá trị ................................................................................................ 27
1.2.4. Giá trị gia đình .................................................................................. 28
1.3. Cách tiếp cận nghiên cứu ............................................................................ 28
1.3.1. Quan điểm cấu trúc - chức năng ........................................................ 28
1.3.2. Quan điểm nữ quyền ......................................................................... 32

i



1.3.3. Lý thuyết hiện đại hóa ....................................................................... 34
Chương 2. Quan niệm của vợ chồng trong gia đình trẻ
về một số giá trị gia đình ................................................................ 38
2.1. Quan niệm của vợ chồng trong gia đình trẻ
về một số giá trị của hôn nhân ................................................................... 39
2.2. Quan niệm của vợ chồng trong gia đình trẻ về một số giá trị
liên quan đến vị trí, vai trò của người vợ, người chồng trong gia đình ....... 46
2.3. Quan niệm của vợ chồng trong gia đình trẻ về một số giá trị
liên quan đến con cái................................................................................. 53
2.4. Quan niệm của vợ chồng trong gia đình trẻ
về một số giá trị của bữa cơm gia đình ...................................................... 63
Chương 3. Sự khác biệt quan niệm giữa vợ và chồng trong gia đình trẻ
về một số giá trị gia đình ................................................................ 68
3.1. Sự khác biệt quan niệm giữa vợ và chồng trong gia đình trẻ
về một số giá trị của hôn nhân ..................................................................... 68
3.2. Sự khác biệt quan niệm giữa vợ và chồng trong gia đình trẻ về một số
giá trị liên quan đến vị trí, vai trò của vợ chồng trong gia đình .................... 75
3.3. Sự khác biệt quan niệm giữa vợ và chồng trong gia đình trẻ
về một số giá trị liên quan đến con cái......................................................... 78
3.4. Sự khác biệt quan niệm giữa vợ và chồng trong gia đình trẻ
về giá trị của bữa cơm gia đình.................................................................... 90
Kết luận............................................................................................................ 96
Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 100
Phụ lục .......................................................................................................... 104
Phụ lục 1: Bảng hỏi ........................................................................................ 104
Phụ lục 2: Bảng hỏi phỏng vấn sâu ................................................................. 118
Phụ lục 3: Các bảng số liệu phản ánh quan niệm
về một số giá trị gia đình của các cặp vợ chồng trẻ ........................ 122


ii


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

TT

Cụm từ

Viết tắt

1

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH – HĐH

2

Phỏng vấn sâu

PVS

3

Đơn vị tính

ĐVT

4


Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch

Bộ VH-TT&DL

5

Tổng cục thống kê

TCTK

iii


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, HÌNH ẢNH SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI

Hình 1.1: Bản đồ hành chính thành phố Thủ Dầu Một – tỉnh Bình Dương ......... 24
Bảng 2.1: Giới tính người trả lời ........................................................................ 38
Bảng 2.2: Phân bố mẫu của nghiên cứu ............................................................. 39
Bảng 2.3: Tuổi của người trả lời ........................................................................ 39
Biểu đồ 2.1: Quan niệm về phân chia các vai trò trong gia đình (ĐVT: điểm) ... 52
Biểu đồ 2.2: Mong muốn, kỳ vọng của cha mẹ đối với
con trai và con gái (ĐVT: %).......................................................... 58
Phụ lục 3: Các bảng số liệu phản ánh quan niệm về
một số giá trị gia đình của vợ chồng trẻ (ĐVT: %) ....................... 122
Biểu đồ 3.1: Tương đồng và khác biệt về mục đích kết hôn (ĐVT: %) .............. 69
Biểu đồ 3.2: Tương đồng và khác biệt về những mong muốn,
kỳ vọng đối với gia đình (ĐVT: %) .............................................. 70
Biểu đồ 3.3: Tương đồng và khác biệt về các tiêu chuẩn lựa chọn
bạn đời (ĐVT: %)......................................................................... 71

Biểu đồ 3.4: Tương đồng và khác biệt về tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời
được lựa chọn lại sau khi kết hôn (ĐVT: %) ................................. 72
Biểu đồ 3.5: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về những yếu tố
cần thiết để có một gia đình hạnh phúc (ĐVT: %) ........................ 73
Biểu đồ 3.6: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
người có vai trò quan trọng nhất trong việc
xây dựng hạnh phúc gia đình (ĐVT: %) ....................................... 74
Biểu đồ 3.7: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về phẩm chất
của người giữ vai trò trụ cột gia đình (ĐVT: %) ........................... 76
Biểu đồ 3.8: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
người nắm giữ vai trò trụ cột trong gia đình (ĐVT: %) ................. 76
Biểu đồ 3.9: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
người đóng góp mặt kinh tế nhiều nhất cho gia đình (ĐVT: %) .... 77

iv


Biểu đồ 3.10: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
tầm quan trọng của việc có con (ĐVT: %) .................................... 78
Biểu đồ 3.11: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về ý nghĩa của
con cái với đời sống hôn nhân gia đình (ĐVT: %) ........................ 79
Biểu đồ 3.12: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
số con mong muốn (ĐVT: %)....................................................... 80
Biểu đồ 3.13: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
nhu cầu con cái (ĐVT: %) ............................................................ 81
Biểu đồ 3.14: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
tầm quan trọng của việc có con trai (ĐVT: %) .............................. 81
Biểu đồ 3.15: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
lý do mong muốn có con trai (ĐVT: %) ....................................... 82
Biểu đồ 3.16: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về những kỳ vọng,

mong muốn đối với con cái nói chung (ĐVT: %) ......................... 83
Biểu đồ 3.17: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về những kỳ vọng,
mong muốn đối với con trai (ĐVT: %) ......................................... 84
Biểu đồ 3.18: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về những kỳ vọng,
mong muốn đối với con gái (ĐVT: %) ......................................... 85
Biểu đồ 3.19: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về tầm quan trọng
của giáo dục gia đình đối với con cái (ĐVT: %) ........................... 85
Biểu đồ 3.20: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về môi trường
giáo dục tốt nhất đối với con cái (ĐVT: %) .................................. 86
Biểu đồ 3.21: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về những
nội dung cha mẹ cần phải giáo dục con cái (ĐVT: %) .................. 87
Biểu đồ 3.22: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
phương pháp giáo dục con cái (ĐVT: %)...................................... 88
Biểu đồ 3.23: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
tầm quan trọng của bữa cơm gia đình (ĐVT: %) .......................... 90

v


Biểu đồ 3.24: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về ý nghĩa
của bữa cơm gia đình (ĐVT: %) ................................................... 91
Biểu đồ 3.25: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về người đóng
vai trò chính trong việc tổ chức bữa cơm gia đình (ĐVT: %)........ 92
Biểu đồ 3.26: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
địa điểm tổ chức bữa cơm gia đình (ĐVT: %) .............................. 92
Biểu đồ 3.27: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về những
yêu cầu trong việc tổ chức bữa cơm gia đình (ĐVT: %) ............... 93
Biểu đồ 3.28: Tương đồng và khác biệt trong quan niệm về
sự cần thiết phải giữ gìn, phát huy giá trị của
bữa cơm gia đình (ĐVT: %) ........................................................ 94


vi


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Gia đình từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học
xã hội, trong đó có xã hội học, nghiên cứu xã hội học về gia đình đã được các nhà
xã hội học phương Tây quan tâm nghiên cứu với tư cách là một thiết chế xã hội cơ
bản và một nhóm xã hội đặc thù. Trong tiếp cận gia đình là một thiết chế xã hội, các
nhà xã hội học xem xét gia đình trong mối quan hệ với xã hội và các thiết chế xã
hội khác. Trong tiếp cận gia đình là một nhóm xã hội đặc thù, các nhà xã hội học
quan tâm đến mối quan hệ giữa các thành viên bên trong nhóm nhỏ của gia đình,
nền tảng của các mối quan hệ ấy là những giá trị gia đình chi phối hành động xã hội
của mỗi cá nhân trong gia đình và ngoài xã hội.
Ở Việt Nam, những biến đổi sâu sắc của gia đình dưới tác động của quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH – HĐH) và toàn cầu hóa đã thu hút sự quan
tâm đặc biệt của xã hội, của các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý. Nhiều vấn đề
mới nảy sinh của gia đình đòi hỏi phải được lý giải một cách khoa học. Trong số đó,
phải kể đến sự suy yếu của các giá trị gia đình truyền thống và xuất hiện của những
giá trị gia đình mới. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn còn thiếu những công trình nghiên
cứu có hệ thống về sự biến đổi của hệ giá trị gia đình Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại.
Ở Việt Nam, những người trẻ tuổi sinh ra và trưởng thành trong thời kỳ đổi
mới (từ năm 1986 đến nay) chính là đối tượng chịu sự chi phối nhiều nhất của
những biến đổi giá trị và giá trị gia đình. Đã có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam chỉ ra
tính thiếu bền vững của hôn nhân trong các gia đình trẻ, ở đó sự khác biệt về mặt lối
sống, quan niệm là nguyên nhân chính gây đổ vỡ hôn nhân gia đình. Theo thống kê
của Tòa án Nhân dân tối cao, năm 2010, nước ta có gần 88.000 vụ ly hôn, tăng hơn
9.700 vụ so với năm 2009. Trong đó, số cặp vợ chồng trẻ dưới 40 tuổi ly hôn chiếm

khoảng 30% [32]. Theo kết quả nghiên cứu khoa học về tình trạng ly hôn của thanh
niên trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, cứ bình quân 2,7 cặp kết hôn thì có một
cặp ly hôn. Độ tuổi ly hôn dưới 30 chiếm tỷ lệ cao và năm sau luôn tăng hơn năm

1


trước (Nguyễn Ngọc Tài, 2012) [39]. Cũng theo một kết quả nghiên cứu khác, tỷ lệ
ly hôn/kết hôn ở thành phố Hồ Chí Minh là 31,4%. Con số này cho thấy, gần 3 đôi
kết hôn thì có một đôi ly hôn. Ly hôn trong gia đình trẻ đang gia tăng, từ 18-30 tuổi
là 34,7%, từ 30-dưới 50 là hơn 55%, hơn 50 tuổi là 8,7% (Nguyễn Minh Hòa, 2008)
[32]. Ba nguyên nhân chính dẫn đến ly hôn là: mâu thuẫn về lối sống, ngoại tình và
kinh tế khó khăn [1, tr. 21].
Xuất phát trên những cơ sở đã nêu trên, chúng tôi nhận thấy vấn đề giá trị gia
đình Việt Nam hiện nay cần phải được quan tâm nghiên cứu nhằm phát hiện và lý
giải về những vấn đề mới nảy sinh trong đời sống gia đình, đặc biệt là đối với các
gia đình trẻ. Đó là lý do chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Khác biệt quan niệm
giữa vợ - chồng trong gia đình trẻ về một số giá trị gia đình hiện nay” (Nghiên cứu
trường hợp thành phố Thủ Dầu Một – tỉnh Bình Dương).
Trong đề tài này, chúng tôi đặt ra hai câu hỏi chính để tìm hiểu vấn đề
nghiên cứu: 1/ Những giá trị gia đình nào đang được các cặp vợ chồng trẻ đề cao,
xem là quan trọng đối với họ? 2/ Sự khác biệt quan niệm giữa vợ và chồng về một
số giá trị gia đình được lựa chọn nghiên cứu biểu hiện như thế nào, mức độ khác
biệt ấy ra sao?
2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần tìm hiểu và vận dụng một số lý thuyết trong nghiên cứu xã
hội học nói chung và nghiên cứu xã hội học gia đình nói riêng vào nghiên cứu giá
trị gia đình Việt Nam. Đó là quan điểm chức năng – cấu trúc; quan điểm nữ quyền
và lý thuyết hiện đại hóa trong nghiên cứu về giá trị gia đình. Các quan điểm lý

thuyết này sẽ được vận dụng để lý giải về quan niệm và sự khác biệt trong quan
niệm giữa vợ và chồng trong gia đình trẻ liên quan đến một số giá trị gia đình trong
bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm rõ quan niệm của vợ chồng
trong gia đình trẻ về một số giá trị gia đình và chỉ ra sự khác biệt giữa vợ và chồng

2


trong quan niệm về một số giá trị gia đình tại thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương hiện nay.
Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu cùng lĩnh
vực về gia đình và giá trị gia đình, những người giảng dạy về xã hội học gia đình,
làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan quản lý ở địa phương và trung ương trong
lĩnh vực văn hóa, gia đình và pháp luật về hôn nhân gia đình, và những ai quan tâm
đến lĩnh vực gia đình và giá trị gia đình.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về các giá trị gia đình trên thế giới
Nghiên cứu về các giá trị gia đình ở Hoa Kỳ xuất hiện sự khác biệt bởi các
đặc điểm chính trị. (Thuật ngữ giá trị gia đình đã được sử dụng thường xuyên trong
các cuộc tranh luận chính trị,[họ] tuyên bố rằng thế giới đã nhìn thấy một sự suy
giảm trong các giá trị gia đình kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai) [33].
David Popenoe, một nhà xã hội học gia đình tại Mỹ, lập luận rằng gia đình truyền
thống và những giá trị truyền thống sẽ được khôi phục ở Mỹ. Popenoe (1988) đưa
ra giả thuyết gia đình của những năm 1950, bao gồm cha mẹ và con cái của họ như
gia đình điển hình lý tưởng ở Mỹ, và lập luận rằng các gia đình bị tan rã là do ly
hôn tăng trong cuối thế kỷ 20, ông ta biện luận nó dẫn đến một cuộc khủng hoảng
trong xã hội Mỹ (dẫn lại Ki-Soo Eun, 2007) [30: p.2]. Có thực sự là các nghiên cứu
cho thấy những tác động tiêu cực của những sự cố gia đình đối với trẻ em (Waite &

Gallagher, 2000; Marquardt, 2005 - dẫn lại Ki-Soo Eun, 2007) [30: p.2]. Những
người khác trong một quan điểm tự do hơn đã phản đối quan điểm như vậy, khẳng
định rằng gia đình và giá trị gia đình truyền thống của những năm 1950 trong thực
tế chỉ là một sai lầm trong lịch sử nước Mỹ (Coontz, 1992; Skolnick, 1991 - dẫn lại
Ki-Soo Eun, 2007), và một cách tiếp cận đa phương phải được thực hiện cho một sự
hiểu biết đúng đắn về thực tại (Skolnick và Skolnick, 1997 - dẫn lại Ki-Soo Eun,
2007) [30: p.2]. Tuy nhiên, những người khác cho rằng những năm 1950 xã hội Mỹ
coi gia đình phụ hệ là chuẩn mực và đó là một thiếu sót, và rằng nước Mỹ phải đi từ
những hình ảnh của một gia đình lấy nam giới làm trung tâm bị phê phán (Thorn,

3


1992 - dẫn lại Ki-Soo Eun, 2007) [30: p.2]. Stacey (1990) lập luận rằng xã hội hậu
công nghiệp làm cho gia đình truyền thống bị tan rã, và rằng các hình thức mới của
gia đình không nên được xem như rối loạn chức năng, đó là sự thích ứng của gia
đình với sự thay đổi thời gian và môi trường xã hội, với các giá trị gia đình mới
chúng ta nên chấp nhận và tôn trọng nó (dẫn lại Ki-Soo Eun, 2007) [30: p.2].
Có một cuộc tranh luận về những biến đổi trong gia đình và giá trị gia đình
dựa trên một loạt các đề tài nghiên cứu, từ các bà mẹ chưa lập gia đình xây dựng
chu trình sống của họ với những quan hệ tình dục trước hôn nhân ngày càng gia
tăng (Furstenberg, Brooks Gunn & Morgan, 1987 - dẫn lại Ki-Soo Eun, 2007) đến
những nghiên cứu về việc làm của phụ nữ, dưới ảnh hưởng của các giá trị gia đình
bảo thủ, bắt đầu làm công việc nhà một khi họ về nhà từ nơi làm việc (Hochschild,
1989 - dẫn lại Ki-Soo Eun, 2007), đến những nghiên cứu thảo luận về những hình
ảnh hoàn toàn mới của gia đình so với gia đình trước đây, hoặc liệu chúng ta nên
xem xét chúng như là một dấu hiệu cho sự chấm dứt của gia đình như là một thiết
chế xã hội (Goldscheider & Waite, 1991 - dẫn lại Ki-Soo Eun, 2007) [30: p.2-3].
Rajkai Zsombor Tibor (2011) trong bài viết về Biến đổi gia đình ở Hungary
cho thấy những vấn đề của gia đình và giá trị gia đình ở Hungary trong bối cảnh của

xã hội chuyển đổi. Bài viết phân tích và tìm kiếm lời giải cho những thắc mắc xung
quanh sự khác biệt trong quan niệm về hôn nhân - gia đình, sự quay trở lại của các
vai trò giới truyền thống và sự trái ngược rõ ràng giữa các giá trị truyền thống với
các hành vi nhân khẩu học thực tế. Từ sau thay đổi chính trị năm 1989, biến đổi xã
hội dễ nhận thấy nhất liên quan đến cái gọi là phi tiêu chuẩn hóa cuộc sống cá nhân
và kèm theo đó là sự đa dạng hóa các lối sống. Khái niệm hôn nhân và gia đình
ngày càng tách rời trong nhận thức mỗi người, đi kèm với xu hướng này là sự xuất
hiện của một số lượng lớn những gia đình đa màu sắc, nơi một cặp đôi có thể có con
riêng, con chung và chung sống không cần kết hôn. Trong gia đình Hungary xuất
hiện xu hướng đó là sự quay trở lại của các giá trị truyền thống trong đó nhấn mạnh
vai trò của nam giới như một trụ cột về kinh tế trong gia đình trong khi vai trò của
nữ giới là đảm trách các công việc nội trợ và chăm sóc con cái. Sự đa dạng trong lối

4


sống và khoảng cách ngày càng lớn trong nhận thức về hôn nhân và gia đình cũng
như sự quay trở lại của các giá trị truyền thống liên quan đến vai trò giới đã tạo nên
nét đặc trưng của xã hội Hungary thời kỳ chuyển đổi. Sự đối lập này không chỉ liên
quan đến vai trò giới mà còn liên quan đến xu hướng quay trở lại của các giá trị gia
đình truyền thống và sự xuất hiện của những yếu tố mang tính cá nhân xét về hành
vi nhân khẩu học (phi tiêu chuẩn hóa đời sống cá nhân và đa dạng hóa các lối sống
cá nhân). Theo các nhà nghiên cứu Hungary, ở đây tồn tại một sự tụt hậu về văn
hóa, khi mà những biến đổi về mặt nhân khẩu học diễn ra trước những biến đổi về
mặt giá trị (dẫn lại Đào Hồng Lê, 2012) [38].
Nghiên cứu giá trị gia đình ở khu vực Đông á, Ki-Soo Eun (2007), trong bài
viết “Các giá trị gia đình ở Hàn Quốc: Một phân tích so sánh”, tác giả đã xem xét sự
khác biệt thế hệ trong gia đình về giá trị gia đình và sự khác biệt tiếp theo của giá trị
gia đình trong xã hội. Xã hội Hàn Quốc đã trải qua những thay đổi nhanh chóng
trong một khoảng thời gian ngắn, và nó vẫn còn tiếp tục biến đổi. Dựa trên phân

tích so sánh các dữ liệu từ cuộc khảo sát chung của các nước tham gia trong
Chương trình khảo sát xã hội quốc tế (ISSP) và các dữ liệu của Hàn Quốc, tác giả
đã nhận xét giá trị gia đình truyền thống vẫn chiếm ưu thế. Hơn nữa, thái độ đối với
hôn nhân và vấn đề chung sống được tìm thấy là rất truyền thống, giống với
Philippin, nơi mà nền kinh tế khác về chất so với Hàn Quốc. Xem xét vấn đề ly hôn,
cho thấy các giá trị Hàn Quốc cũng tương tự như các nước châu Á khác và tương
đối bảo thủ so với các nước Mỹ Latinh và Bắc, Nam, Tây và Đông Âu. Về vai trò
giới trong gia đình, ở Hàn Quốc cho thấy thái độ truyền thống tương đối ít hơn so
với vấn đề chung sống, hôn nhân và ly hôn, nhưng nó vẫn mang nhiều nét truyền
thống hơn so với các xã hội khác. K.S. Eun tìm thấy sự khác biệt tuổi tác dựa trên
giá trị gia đình không chỉ ở Hàn Quốc mà còn ở các nước khác. Nói cách khác, thế
hệ trẻ đã cởi mở hơn trong quan niệm về ba lĩnh vực giá trị gia đình với ngoại lệ là
thái độ đối với ly hôn. Trong mỗi quốc gia, thế hệ trẻ cho thấy thái độ tiến bộ hơn
và hiện đại hơn hơn so với các thế hệ trước. K.S. Eun khẳng định rằng chúng ta

5


đang sống trong một xã hội vẫn còn rất bảo thủ và truyền thống trong thái độ đối
với gia đình [30, p.19-20].
Min Suk (2008), trong bài viết “Nhận thức về hôn nhân và biến đổi giá trị gia
đình ở Đông á: Một quan điểm so sánh” đã nhận xét ở Đông á việc gìn giữ các giá
trị gia đình truyền thống được coi trọng, những thay đổi trong hôn nhân, tình dục có
xu hướng biến đổi chậm. Dựa trên dữ liệu thu thập trong năm 2006 từ Nhật Bản,
Hàn Quốc và Trung Quốc về "giá trị giữa các thế hệ". Kết quả cho thấy rằng, đối
với thế hệ trẻ ở cả ba nước việc lựa chọn đối tác hôn nhân và các giá trị liên quan
đến hôn nhân đang thay đổi, họ có quan niệm cởi mở hơn trong vấn đề chung sống,
hôn nhân [31, p.113].
Emiko Ochiai (2011), nhận xét hôn nhân ở Đông á vẫn là một giá trị quan
trọng, với một tỷ lệ kết hôn cao, hôn nhân ở Đông á là một thiết chế không hề bị sứt

mẻ của trách nhiệm và nghĩa vụ hơn là sự lựa chọn của cá nhân. Khác với ở châu
Âu, nơi mà việc chung sống như vợ chồng đang dần thay thế hôn nhân, thì thiết chế
hôn nhân ở Đông á tuy thế lại rất vững chắc. Đây có thể coi là một dấu hiệu của tính
hiện đại bị kìm nén. Việc giảm mức sinh đã khiến người dân trong các xã hội Đông
á sử dụng các công nghệ mới để kiểm tra giới tính thai nhi và nạo phá thai có chọn
lọc giới tính. Đây là một ví dụ điển hình của tính hiện đại bị kìm nén. Các cuộc kết
hôn có yếu tố nước ngoài xuất hiện ở Đông á dường như nhằm vào việc bảo lưu
những lề lối của một gia đình truyền thống. Đây cũng được xem là một biểu hiện
của tính hiện đại bị kìm nén. Kết quả thu được từ Khảo sát về Xã hội Đông á tại
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan năm 2006 cho thấy một số quan
niệm của các cá nhân về giá trị gia đình (Iwai và Yasuda, 2009), ở đó xu hướng vì
gia đình là rất mạnh mẽ. Các trách nhiệm liên thế hệ không chỉ đến từ quan hệ cha
mẹ với con cái, mà còn vì “con cái phải nỗ lực để cha mẹ có thể tự hào”. Hôn nhân
ở Đông á không còn là ý muốn của cá nhân mà là trách nhiệm và nghĩa vụ. Ở Đông
á, hiện tượng sống chung gia tăng là do xã hội đã loại bỏ những người có học vấn
thấp và nguồn thu nhập không ổn định, hơn là do lựa chọn của cá nhân nhằm thoát
khỏi thiết chế hôn nhân (dẫn lại Đào Hồng Lê, 2012) [37].

6


Nghiên cứu về các giá trị gia đình ở Việt Nam
Trong những năm qua, đặc biệt là từ những năm 1990 trở lại đây, vấn đề gia
đình và vấn đề giới ở Việt Nam đã nhận được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học khác nhau, trong đó có xã hội học. Các công trình nghiên cứu
xã hội học gia đình và giới đã góp phần cung cấp một bức tranh nhận diện tương
đối đầy đủ, tổng quát về các vấn đề quan trọng nhất của gia đình và vấn đề giới ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới như: các chủ đề lý thuyết trong nghiên cứu gia đình và
giới, các phương pháp sử dụng trong nghiên cứu gia đình và giới, sự biến đổi gia
đình, mối quan hệ giới từ truyền thống sang hiện đại, sự phân công lao động theo

giới trong gia đình, kinh tế hộ gia đình, phúc lợi gia đình, chính sách xã hội liên
quan đến gia đình, xung đột gia đình, hôn nhân và ly hôn… Trong những công trình
nghiên cứu, các báo cáo khoa học đã được công bố chúng tôi nhận thấy vấn đề
nghiên cứu về các giá trị gia đình mà đề tài này quan tâm đã được các nhà nghiên
cứu triển khai lồng ghép vào trong các nội dung nghiên cứu mà họ đã thực hiện.
Việc nhìn nhận, xem xét về các giá trị gia đình cho đến nay vẫn chưa có một
chương trình nghiên cứu độc lập được triển khai nghiên cứu riêng biệt. Các dữ liệu
và những phân tích về các giá trị gia đình được phản ánh khá rộng ở nhiều báo cáo
khác nhau, ở đây chúng tôi sẽ điểm qua một số vấn đề chính về các giá trị gia đình
ở Việt Nam đã được phản ánh trong các chương trình nghiên cứu trong thời gian
qua.
- Về một số giá trị liên quan đến hôn nhân
Trong quyết định hôn nhân, đó là xu hướng ngày càng xem trọng quyền tự
do lựa chọn bạn đời, tự do kết hôn của con cái. Tuy nhiên, ở đó cha mẹ vẫn tiếp tục
là người giữ vai trò tư vấn, đồng ý với quyết định của con cái, vẫn tiếp tục phổ biến
mô hình con cái quyết định hôn nhân nhưng có bàn bạc và thống nhất với cha mẹ
(Vũ Tuấn Huy & Barbieri, 1995; Nguyễn Hữu Minh, 1999; Đỗ Thị Bình, 2002;
Nguyễn Đức Chiện, 2008; Lê Thi, 2009; Đặng Ánh Tuyết, 2010; Lê Ngọc Văn,
2011).

7


Trong các tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời các giá trị được đề cao là sự tương
đồng về mặt cá nhân, kết hôn vì tình yêu, các tiêu chuẩn tình cảm, tinh thần, biết cư
xử/tư cách đạo đức tốt, biết cách làm ăn, nghề nghiệp ổn định, có sức khỏe được đề
cao hơn so với các giá trị như gia đình môn đăng hộ đối, lý lịch gia đình, ngoại hình
cá nhân (Nguyễn Thị Ngân Hoa, 1996; Đỗ Thị Bình, 2002; Lê Thi, 2009; Đặng Ánh
Tuyết, 2010; Lê Ngọc Văn, 2011).
Trong quan niệm về hạnh phúc gia đình, Bùi Kim Quỳ (1992) cho rằng sự

hòa hợp giữa các thành viên trong gia đình là yếu tố hàng đầu của hạnh phúc gia
đình. Trong các nghiên cứu gần đây của Phùng Thị Kim Anh (2009) và Lê Thi
(2009) cũng chỉ ra quan niệm của người dân về hạnh phúc gia đình, kết quả nghiên
cứu cho thấy: kinh tế đủ đáp ứng nhu cầu gia đình, vợ chồng bình đẳng, con cái
ngoan ngoãn, quan hệ nội – ngoại yên ấm, đoàn kết yêu thương nhau giữa các thành
viên gia đình được xem là những yếu tố của hạnh phúc gia đình và nó quan trọng
hơn so với các yếu tố khác như gia đình giàu có, phải có con trai, chồng là trụ cột
gia đình.
- Về một số giá trị liên quan đến vị trí, vai trò của người chồng, người vợ
trong gia đình
Trong quan niệm về trụ cột gia đình, trong xã hội Việt Nam truyền thống khi
nói đến vai trò trụ cột trong gia đình đó chính là nói đến vai trò của người đàn ông
trong gia đình, vợ, con phải tuân theo sự điều hành của người đàn ông gia trưởng.
Theo Vũ Tuấn Huy (2002) trong bài viết Vai trò của người cha trong gia đình, tác
giả đã chỉ ra rằng, cho đến trước giai đoạn công nghiệp hóa, một quan niệm phổ
biến khi nói đến cha mẹ là thường nhấn mạnh đến người vợ, người mẹ là người có
trách nhiệm chủ yếu trong việc chăm sóc con cái: “Cha sinh không bằng mẹ dưỡng”
và xem đó như là “thiên hướng” của phụ nữ. Còn người cha là người chủ gia đình,
người trụ cột về kinh tế [11]. Qua một số nghiên cứu gần đây cho thấy sự bảo lưu
khá sâu sắc của giá trị này nơi người dân, mặc dù các điều kiện kinh tế, xã hội, văn
hóa đã thay đổi khá nhiều. Trong quan niệm của nữ công nhân chưa lập gia đình ở
thành phố Hồ Chí Minh cho thấy người đàn ông vẫn được quan niệm là trụ cột

8


trong gia đình (Nguyễn Thị Ngân Hoa, 1996) [8]. Trần Thị Minh Đức & Đỗ Hoàng
(2001), trong bài viết Áp lực xã hội đối với vai trò “trụ cột” của người đàn ông đã
cho thấy mặc dù phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động bên ngoài xã
hội nhưng họ vẫn chưa xóa bỏ được quan niệm về vai trò trụ cột của nam giới. Phần

lớn người trả lời (cả nam giới và nữ giới) đều cho rằng nam giới là trụ cột trong gia
đình (80,5%); đa số họ cho rằng người chồng là người đầu tiên đương đầu với khó
khăn (70,4%); nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cả nam giới và nữ giới đang cố gắng duy
trì cái uy cho chính người đàn ông, định kiến về vai trò trụ cột áp đặt vào người đàn
ông ở khía cạnh văn hóa, tinh thần nhiều hơn là kinh tế, một thực tế là phụ nữ vẫn
có khả năng đảm nhiệm vai trò trụ cột, nhưng họ vẫn dành quyền đó cho người
chồng. Điều này cho thấy mặc dù thực tế về hành vi đã thay đổi [đặc biệt ở phụ nữ
tham gia vào lao động và hoạt động xã hội nhiều hơn] nhưng những định kiến, giá
trị lại thay đổi rất chậm, ở đây chính là quan niệm về vai trò trụ cột của người đàn
ông trong gia đình [5]. Theo Vũ Mạnh Lợi (2009) trong bài viết Chủ hộ gia đình
Việt Nam là ai?, đã cho thấy, "chủ hộ" là một khái niệm đa diện, bao gồm cả các
khía cạnh về quyền lực kinh tế, lẫn uy tín, quyền ra quyết định quan trọng, quyền
đại diện cho gia đình, và phản ánh khuôn mẫu văn hóa trọng xỉ và trọng nam truyền
thống [15]. Kết quả Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 (Bộ VH-TT&DL, TCTK,
Viện Gia đình và Giới, Unicef, 2008) cũng cho thấy quan niệm về người chủ gia
đình thay đổi chậm, người đàn ông vẫn là người chủ gia đình; công việc lớn của gia
đình quyền quyết định vẫn còn thuộc về đàn ông [1].
Về vị trí, vai trò của người chồng, người vợ trong gia đình, trong xã hội Việt
Nam truyền thống sự phân chia các vị trí, vai trò giữa vợ và chồng trong gia đình là
rất rõ ràng, ở đó người chồng (người cha) sẽ phải là trụ cột kinh tế, giao tiếp với bên
ngoài, là người quyết định mọi việc trong gia đình, người phụ nữ chủ yếu đảm nhận
vai trò tái sản xuất, chăm sóc con cái, giáo dục con cái, ít có tiếng nói trong gia
đình. Qua nhiều công trình nghiên cứu trong những năm gần đây đã cho thấy sự
biến đổi trong quan niệm về vị trí, vai trò của người vợ người chồng trong gia đình,
ở đó là xu hướng phân chia ngày càng công bằng hơn các vị trí, vai trò trong gia

9


đình. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy những sự bảo lưu nhất định về mặt quan niệm

của người dân về vị trí, vai trò của người chồng người vợ trong gia đình theo các
quan niệm truyền thống. Nguyễn Thị Ngân Hoa (1996) đã chỉ ra trong quan niệm
của nữ công nhân ở thành phố Hồ Chí Minh về việc chia sẻ công việc trong gia đình
họ kỳ vọng chồng mình chỉ cần chia sẻ một phần [8]. Vũ Tuấn Huy (2002) đã chỉ ra
người cha trong vai trò nuôi dưỡng không được nhấn mạnh trước hết phản ánh một
tâm thế chung đánh giá thấp vai trò của người cha trong các hoạt động này và mặt
khác nhấn mạnh đến vai trò là người trụ cột về kinh tế. Coi phụ nữ nên là người
chăm sóc chính đối với con cái, người cha chỉ là người tham gia hỗ trợ vợ mình
trong chăm sóc, nuôi dưỡng con cái, vai trò của người cha được kỳ vọng nhiều hơn
ở vai trò là nguồn cung kinh tế hơn là vai trò nuôi dưỡng con cái. Người phụ nữ gắn
liền với vai trò người vợ, người mẹ là một quan niệm phổ biến [11].
Nguyễn Linh Khiếu (2002), trong bài viết Vị thế của phụ nữ trong một số
vấn đề của gia đình, đã nhận xét, vai trò của người phụ nữ trở nên hết sức quan
trọng trong việc thực hiện những công việc nhằm nuôi dưỡng và tái sản xuất sức lao
động của các thành viên gia đình. Số liệu điều tra cũng cho thấy, mặc dù trên thực
tế người phụ nữ có vai trò khá quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống gia đình
nhưng xã hội nói chung và nam giới nói riêng vẫn chưa đánh giá đúng vai trò của
họ. Định kiến giới này, một mặt xuất phát từ các quan niệm truyền thống “trọng
nam khinh nữ” và những quan niệm hẹp hòi này lại được dư luận xã hội phần nào
ủng hộ nên nó trở thành một hệ thống đồng bộ cản trở sự phát huy những tiềm năng
vốn có của người phụ nữ trong đời sống gia đình [12].
Trong cuốn Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Đỗ Thị Bình – Lê Ngọc Văn – Nguyễn Linh
Khiếu, 2002), các tác giả nhận xét, vẫn còn dáng dấp của những định kiến truyền
thống trong các quyết định trọng đại và việc lớn của gia đình, người nam giới vẫn
chủ động hơn. Vị thế của người phụ nữ trong gia đình mặc dù đã có nhiều sự
chuyển biến, bình đẳng hơn so với trước đây nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là

10



trong việc ra quyết định các công việc quan trọng của gia đình, khuôn mẫu giới vẫn
còn áp đặt, đè năng lên người phụ nữ trong các công việc của gia đình [3].
Kết quả Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 (Bộ VH-TT&DL, TCTK,
Viện Gia đình và Giới, Unicef, 2008), cho thấy trong quan hệ gia đình, phân công
lao động theo giới vẫn được duy trì, mặc dù có sự bình đẳng hơn; công việc lớn của
gia đình quyền quyết định vẫn còn thuộc về đàn ông. Số liệu cũng cho thấy đã có sự
thay đổi quan niệm về sự tham gia của phụ nữ và nam giới vào những công việc
vốn trước đây được quan niệm là của giới này hay giới kia. Trong thực tế, khi người
phụ nữ tham gia vào các công việc sản xuất và hoạt động xã hội thì công việc gia
đình hầu như được chia sẻ nhiều hơn giữa vợ và chồng. Bản thân người phụ nữ và
nam giới cũng đã sẵn sàng cho việc thay đổi vai trò truyền thống của mình [1].
- Về một số giá trị liên quan đến con cái
Có con đối với người Việt Nam vẫn là một giá trị quan trọng, là yếu tố để
đảm bảo cho hạnh phúc gia đình. Kết quả Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 (Bộ
VH-TT&DL, TCTK, Viện Gia đình và Giới, Unicef, 2008), đã khẳng định con cái
vẫn là một giá trị của gia đình và gia đình ít con; Giá trị của con trai cũng đã thay
đổi, mặc dù vẫn còn một tỷ lệ đáng kể người dân ủng hộ quan niệm nhất thiết phải
có con trai [1]. Theo Lê Thi (2009), việc có con là thực hiện nghĩa vụ đối với ông
bà, cha mẹ, dòng họ, để duy trì nòi giống, thờ cúng tổ tiên sau này. Đồng thời đó
cũng là nhu cầu thực tế và tình cảm của đôi vợ chồng. Qua nghiên cứu tác giả cũng
chỉ ra thứ tự các giá trị gắn liền với đứa con: là niềm vui, hạnh phúc cho gia đình
(99,5%); để góp phần củng cố mối quan hệ vợ chồng (97,3%); để có người chăm
sóc khi tuổi già (87,5%); có người để duy trì nòi giống (82%); để làm hài lòng ông
bà hai bên nội ngoại (70,6%); để có người lao động (46,5%) [25].
Quan niệm muốn đẻ con trai vẫn còn trong một bộ phận người dân, kết quả
Điều tra gia đình Việt Nam 2006, chỉ ra có gần 37% đối với những người từ 18 – 60
tuổi, lý do chủ yếu phải có con trai là “để có người nối dõi tông đường” (85,7%);
“để có nơi nương tựa lúc tuổi già” (54,2%); “để có người làm việc lớn, việc nặng”
(23,4%) [1, tr. 29]. Tác giả Lê Thi (2009), cũng chỉ ra trong nghiên cứu của mình có


11


16,4% người dân cho rằng nhất thiết phải có con trai và lý do phải có con trai là “để
nối dõi tông đường” được lựa chọn nhiều nhất [25].
Về những mong muốn, kỳ vọng đối với con cái, kết quả Điều tra gia đình
Việt Nam 2006 cho thấy phần lớn cho rằng con trai và con gái trong gia đình đều có
cơ hội học tập ngang nhau, song việc đi học còn tùy thuộc vào khả năng học tập của
trẻ. Về cơ bản, người dân đều mong đợi vai trò ngang nhau giữa con trai và con gái.
Ba mong đợi lớn nhất của cha mẹ đối với trẻ em gái là có nghề nghiệp ổn định
(75%), có cuộc sống gia đình hạnh phúc (56,7%) và có trình độ học vấn cao
(40,1%). Ba mong đợi đối với trẻ em trai cũng có tỷ lệ gần tương tự là 78%, 42,4%
và 42,2% [1, tr. 33]. Một nghiên cứu gần đây của Lê Thi (2009) cũng đã chỉ ra
những mong muốn lớn nhất đối với cả con trai và con gái là: có nghề nghiệp ổn
định (68%); có cuộc sống gia đình hạnh phúc (47,8%) đặc biệt với con gái là
(63,8%); có tư cách đạo đức tốt (49%); có sức khỏe (20,9%), những giá trị như có
địa vị xã hội, làm ăn giỏi được mong muốn ít nhất [25, tr. 251].
Về giáo dục con cái, kết quả Điều tra gia đình Việt Nam 2006, cho thấy khi
con cái mắc lỗi cha mẹ nhắc nhở, phân tích đúng sai (74,2%); quát mắng (42,6%),
đánh đòn (11,2%), liên hệ nhà trường (5,1%), làm ngơ lỗi của trẻ (8,8%) và đau khổ
bất lực (0,5%) [1]. Kết quả này được tác giả Lê Thi (2009) khẳng định lại một lần
nữa về nguyên tắc giáo dục ngày nay đó là quán triệt tinh thần bình đẳng và dân chủ
giữa cha mẹ và con cái, qua khảo sát tác giả chỉ ra khi con phạm lỗi cha mẹ thường
nhắc nhở, phân tích đúng sai. Việc quát mắng, đánh đòn chiếm tỷ lệ nhỏ. Nhiều bậc
cha mẹ có nhận thức đúng đắn là: không phải đầu tư cho con cái tiền bạc, đất đai,
điều quan trọng hơn là tạo cho chúng có kiến thức, được học hành và có nghề [25,
tr. 243 – 245].
- Nghiên cứu về giá trị bữa cơm gia đình
Qua tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu xã hội học chúng tôi nhận thấy vấn đề

bữa cơm gia đình chưa được nhiều nghiên cứu đề cập đến. Việc nhận diện về bữa
cơm gia đình trong truyền thống và hiện đại chủ yếu tiếp cận dưới góc độ của văn
hóa học. Điển hình cho cách tiếp cận này có thể nói đến bài viết của tác giả Trương

12


Thị Lam Hà (2008), Bữa cơm gia đình trong quá trình đô thị hóa ở Việt Nam, thông
qua bài viết của mình tác giả đã đưa ra định nghĩa về bữa cơm gia đình, phân tích về
bữa cơm gia đình gắn với trục giá trị văn hóa và phân tích sự ảnh hưởng của quá
trình đô thị hóa tới bữa cơm gia đình. Ngoài ra tác giả cũng tiến hành phân tích về
giá trị văn hóa của bữa cơm gia đình và giải pháp giữ gìn bữa cơm gia đình [36].
Bài viết cho thấy một cách tiếp cận văn hóa học đối với bữa cơm gia đình của người
Việt, các phân tích đã khẳng định bữa cơm gia đình là một giá trị văn hóa quan
trọng. Tuy nhiên, bài viết cũng cho thấy sự hạn chế khi mà các phân tích này chưa
có được các số liệu nghiên cứu thực nghiệm hỗ trợ cho các phân tích và kết luận.
- Về mặt phương pháp nghiên cứu
Trong các đề tài đã được triển khai nghiên cứu về vấn đề gia đình chúng tôi
nhận thấy các tác giả lựa chọn phổ biến hai phương pháp nghiên cứu cơ bản là tiếp
cận nghiên cứu định lượng kết hợp với nghiên cứu định tính. Từ các cuộc nghiên
cứu lớn ở cấp độ mẫu quốc gia cho đến các nghiên cứu trường hợp ở từng địa
phương, có thể kể đến các nghiên cứu ở quy mô mẫu cấp quốc gia như: Điều tra cơ
bản về gia đình Việt Nam và vai trò của người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Trung tâm Nghiên cứu khoa học về gia đình và
phụ nữ, Đỗ Thị Bình [cn], 2001), nhóm tác giả tiếp cận bằng cả nghiên cứu định
lượng và định tính. Nghiên cứu định lượng được tiến hành với 1.497 hộ gia đình ở
khu vực miền Bắc Việt Nam, phương pháp chọn mẫu được sử dụng là phân cụm
theo vùng địa lý - kinh tế - xã hội và chọn mẫu ngẫu nhiên tại cơ sở. Trong nghiên
cứu định tính nhóm tác giả đã lựa chọn phương pháp phỏng vấn sâu và phỏng vấn
nhóm tập trung, với mỗi địa bàn nghiên cứu thực hiện 10 phỏng vấn sâu cá nhân và

4 phỏng vấn nhóm [3]. Trong Dự án Điều tra gia đình Việt Nam năm 2006 (Bộ VHTT&DL, TCTK, Viện Gia đình và Giới, Unicef, 2006), cuộc điều tra được tiến hành
bằng cả nghiên cứu định lượng (phiếu hỏi) và định tính (phỏng vấn sâu, thảo luận
nhóm), với quy mô mẫu là 9.300 hộ gia đình trên cả nước [1]. Ngoài ra, có thể thấy
trong một nghiên cứu lớn gần đây về gia đình nông thôn Việt Nam thông qua dự án
điều tra Gia đình Nông thôn Việt Nam trong Chuyển đổi (Viện Xã hội học, Viện

13


Gia đình và Giới, Viện Dân tộc học, 2004 – 2006) thực hiện tại 4 tỉnh Yên Bái, Hà
Nam, Thừa Thiên Huế, và Tiền Giang, nhóm tác giả sử dụng một bảng câu hỏi toàn
diện cho 900 hộ gia đình, cùng với 220 phỏng vấn sâu đã được thực hiện với người
dân địa phương [16].
Sự kết hợp tiếp cận nghiên cứu định lượng và định tính còn được các tác giả
khác triển khai trong các nghiên cứu trường hợp, cụ thể như: đề tài “Tình trạng gia
đình của nữ công nhân tại một số xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” (Trung tâm
Nghiên cứu phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh,1994) được tiến hành bằng cả nghiên
cứu định lượng (phiếu hỏi) và định tính (phỏng vấn sâu) [8]; đề tài Những áp lực
của một số định kiến xã hội đối với người đàn ông (Trần Thị Minh Đức & Đỗ
Hoàng, 1999), nhóm tác giả thực hiện phỏng vấn sâu và điều tra bằng bảng hỏi trên
558 người tại Hà Nội, Lạng Sơn và Thái Bình [5]; trong đề tài “Tác động của chính
sách chuyển đổi mục đích sử dụng đất đến lối sống tại các khu vực đang công
nghiệp hóa, đô thị hóa tại tỉnh Vĩnh Phúc” (Đặng Ánh Tuyết, 2010) tác giả đã lựa
chọn tiếp cận nghiên cứu trên cả hai phương diện nghiên cứu định lượng (bảng hỏi)
và định tính (phỏng vấn sâu) [27]; trong đề tài Một số vấn đề về mâu thuẫn vợ
chồng và bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình nông thôn - nghiên cứu trường hợp
tại xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang (Trịnh Thái Quang, 2007),
tác giả đã lựa chọn phương pháp nghiên cứu là khảo sát định lượng (bảng hỏi) và
định tính (phỏng vấn sâu) [21]; hay như trong một nghiên cứu gần đây của Lê Thi
(2008) về Quan niệm, nhận thức của các thế hệ Việt Nam về hôn nhân và gia đình,

tiến hành điều tra ở 4 điểm thuộc tỉnh Hưng Yên và thành phố Hà Nội, tác giả đã
lựa chọn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học (bảng hỏi), khảo sát về mặt định
tính bằng phỏng vấn sâu và tọa đàm nhóm [25].
Tóm lại, thông qua cái nhìn tổng quan về những nghiên cứu liên quan đến
chủ đề gia đình và giá trị gia đình đã đề cập ở trên, chúng tôi xin nêu ra một số nhận
xét như sau:
Thứ nhất, chủ đề nghiên cứu về giá trị gia đình đã được quan tâm nghiên cứu
ở nhiều quốc gia khác nhau, các nghiên cứu này phân tích các giá trị gia đình và sự

14


biến đổi của chúng gắn liền với bối cảnh của sự chuyển đổi từ một xã hội truyền
thống sang một xã hội hiện đại. Một mặt các giá trị hiện đại đang ngày càng trở nên
phổ biến trong đời sống các gia đình, thì ở một mặt khác cũng cho thấy sự tồn tại
khá bền vững của một số giá trị gia đình truyền thống, những giá trị này tiếp tục có
những ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực đến việc định hướng hành vi xã hội của
các cá nhân trong gia đình. Sự đan xen, pha trộn những giá trị truyền thống và hiện
đại nhiều hay ít còn phụ thuộc vào nền văn hóa mà hệ thống giá trị ấy tồn tại. Việc
nghiên cứu các giá trị gia đình được triển khai trên nhiều khía cạnh, từ những
nghiên cứu riêng lẻ các tác giả đi đến những sự so sánh liên văn hóa về các giá trị
gia đình. Trong những nghiên cứu về giá trị gia đình ở các khu vực khác nhau trên
thế giới chúng tôi nhận thấy các nghiên cứu ở Đông á là rất đáng chú ý vì giữa các
nước Đông á và Việt Nam có những nét tương đồng rất lớn về mặt văn hóa. Ở đó
đang chứng kiến một quá trình thâm nhập, đồng hóa của những giá trị hiện đại tác
động đến đời sống gia đình, đồng thời với đó là những giá trị truyền thống về gia
đình vẫn tiếp tục được khẳng định là còn nhiều ý nghĩa. Sự bảo lưu của các giá trị
gia đình truyền thống trong các xã hội Đông á được coi là còn khá mạnh.
Thứ hai, qua phân tích, tìm hiểu các nghiên cứu về xã hội học gia đình ở Việt
Nam trong những năm gần đây chúng tôi nhận thấy vấn đề nghiên cứu về giá trị gia

đình đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, trong các nghiên cứu đó họ
đều dành một phần quan tâm nhất định đối với những vấn đề về giá trị gia đình Việt
Nam trong bối cảnh của một xã hội đang chuyển đổi ở những khía cạnh khác nhau.
Những kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra những điểm chính trong hệ thống giá trị gia
đình Việt Nam đương đại, đó là một bộ khung với sự đan xen, pha trộn giữa những
giá trị truyền thống và hiện đại trong hệ thống các giá trị gia đình. Một mặt các giá
trị hiện đại đang thâm nhập và ngày càng trở nên phổ biến trong tư duy, nhận thức
của người Việt Nam, mặt khác chúng tôi cũng nhận thấy ở đó vẫn còn sự bảo lưu
khá bền vững của một số giá trị gia đình truyền thống, đặc biệt là trong vấn đề hôn
nhân, vai trò giới và vấn đề con cái. Trong các nghiên cứu đó, nổi bật lên là nghiên
cứu của Lê Thi (2008) về quan niệm và nhận thức của các thế hệ người Việt Nam

15


về hôn nhân và gia đình, tác giả đã lựa chọn so sánh giữa các thế hệ. Việc nghiên
cứu so sánh sự khác biệt giữa vợ chồng trong quan niệm về các giá trị gia đình còn
thiếu những nghiên cứu độc lập đề cập đến.
Thứ ba, về mặt phương pháp nghiên cứu, qua tìm hiểu, phân tích các nghiên
cứu xã hội học gia đình ở Việt Nam trong những năm gần đây, chúng tôi nhận thấy
một sự lựa chọn phương pháp nghiên cứu có kết hợp giữa tiếp cận nghiên cứu định
lượng và định tính. Điều này cho thấy một sự kết hợp phổ biến về mặt phương pháp
nghiên cứu hiện nay trong lĩnh vực xã hội học nói chung và xã hội học gia đình nói
riêng ở Việt Nam, đó là mô hình kết hợp giữa nghiên cứu định lượng và định tính
điển hình. Sự kết hợp này đưa lại kết quả tối đa cho nghiên cứu, nghiên cứu định
lượng bổ sung cho tính chính xác của nghiên cứu định tính và nghiên cứu định tính
làm rõ hơn ý nghĩa của nghiên cứu định lượng. Thông qua nghiên cứu định lượng
đối tượng nghiên cứu được khái quát hóa và nghiên cứu định tính giúp giải thích
sâu hơn các ý nghĩa mà kết quả nghiên cứu định lượng đã chỉ ra.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục tiêu nghiên cứu
a, Mục tiêu tổng quát
Tìm hiểu được về quan niệm và sự khác biệt trong quan niệm giữa vợ và
chồng trong gia đình trẻ ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương về một số giá
trị gia đình.
b, Mục tiêu cụ thể
1. Chỉ ra được các giá trị quan trọng trong quan niệm của các cặp vợ chồng
trẻ.
2. Hướng đến nhận diện được những nét tương đồng và khác biệt trong quan
niệm của người vợ và người chồng về một số giá trị gia đình.
3. Thông qua nghiên cứu góp phần cung cấp thêm các bằng chứng nghiên
cứu thực nghiệm cho các cơ quan quản lý, các nhà khoa học, các nhà hoạt động
chính sách liên quan đến lĩnh vực gia đình và giá trị gia đình. Từ đó thúc đẩy quá
trình tạo lập gia đình bền vững hơn, phát triển hài hòa hơn.

16


×