Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ “Một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.77 KB, 127 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................5
2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................................6
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu................................................................................6

3.1. Khách thể nghiên cứu..........................................................................6
3.2. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................6
4. Giả thuyết khoa học........................................................................................................6
6. Phương pháp nghiên cứu................................................................................................7
7. Phạm vi nghiên cứu........................................................................................................8
8. Những đóng góp mới của đề tài.....................................................................................8
9. Cấu trúc luận văn............................................................................................................8

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG NHẰM
HÌNH THÀNH KĨ NĂNG HỢP TÁC CHO TRẺ MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI 10
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 –
5 tuổi ................................................................................................................................10

1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài....................................................10
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam.......................................................14
1.2. KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi ...................................................................................17

1.2.1. Khái niệm về KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi ..................................17
1.2.2. Cơ chế sinh lý của việc hình thành KNHT ....................................18
1.2.3. Biểu hiện của KNHT .....................................................................20
1.2.4. Đặc điểm KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi.........................................22
1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành KNHT của trẻ MG 4 – 5
tuổi ...........................................................................................................24
1.2.6. Ý nghĩa của việc hình thành KNHT trong sự phát triển nhân cách


của trẻ MG 4 – 5 tuổi ...............................................................................30


1.3. TCVĐ đối với việc hình thành KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi ..................................33

1.3.1. Khái niệm về TCVĐ của trẻ MG 4 – 5 tuổi ..................................33
1.3.2. Nguồn gốc và sự phát triển TCVĐ.................................................34
1.3.3. Phân loại TCVĐ của trẻ MG..........................................................35
1.3.4. Cấu trúc TCVĐ của trẻ MG ..........................................................38
1.3.5. Cách tổ chức TCVĐ cho trẻ MG....................................................39
1.3.6. Đặc điểm TCVĐ của trẻ MG 4 – 5 tuổi ........................................41
1.3.7. Ý nghĩa của TCVĐ đối với sự hình thành KNHT của trẻ MG 4 – 5
tuổi............................................................................................................43
1.4. Khái niệm biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi
..........................................................................................................................................45

1.4.1. Khái niệm biện pháp.......................................................................45
1.4.2. Khái niệm biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho
trẻ MG 4 – 5 tuổi .....................................................................................45
CHƯƠNG II..........................................................................................................48
THỰC TRẠNG VỀ VIỆC TỔ CHỨC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG NHẰM
HÌNH THÀNH KỸ NĂNG HỢP TÁC CHO TRẺ MG 4 – 5 TUỔI ..............48
2.1. Thực trạng về việc tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi
trong chương trình GDMN...............................................................................................48

2.1.1. Chương trình cải cách GDMN.......................................................48
2.1.2. Chương trình đổi mới GDMN........................................................49
2.1.3. Chương trình GDMN mới ............................................................51
2.2. Thực trạng về việc tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi 53


2.2.1. Mục đích điều tra............................................................................53
2.2.2. Khách thể điều tra ..........................................................................53
2.2.3. Nội dung điều tra............................................................................53
2.2.4. Cách tiến hành điều tra...................................................................54
2.2.5. Kết quả điều tra...............................................................................54
2.3 Hiệu quả của việc hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi thông qua TCVĐ ........62

2.3.1 Mục đích điều tra.............................................................................62
2.3.2 Khách thể điều tra............................................................................62

2


2.3.3 Nội dung điều tra.............................................................................62
2.3.4 Cách tiến hành điều tra....................................................................63
2.3.5 Tiêu chí và thang đánh giá ..............................................................63
2.3.6 Kết quả điều tra................................................................................67
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG
NHẰM HÌNH THÀNH KĨ NĂNG HỢP TÁC CHO TRẺ MG 4 – 5 TUỔI . 76
3.1. Cơ sở định hướng của việc đề xuất biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành
KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi ..........................................................................................76
3.2. Các nguyên tắc khi đề xuất các biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT
cho trẻ MG 4 – 5 tuổi ......................................................................................................80
3.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5
tuổi....................................................................................................................................82
3.4 Điều kiện sư phạm cần thiết khi sử dụng một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình
thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi ................................................................................98

CHƯƠNG IV.......................................................................................................102
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM.............................................................................102

4.1. Mục đích thực nghiệm.............................................................................................102
4.2. Đối tượng, phạm vi thực nghiệm.............................................................................102
4.3. Nội dung thực nghiệm.............................................................................................102
4.4. Điều kiện tiến hành thực nghiệm.............................................................................102
4.5. Cách tiến hành thực nghiệm....................................................................................103
4.6. Thời gian thực nghiệm............................................................................................105
4.7. Tiêu chí và thang đánh giá .....................................................................................105
4.8. Kết quả thực nghiệm...............................................................................................106

PHẦN KẾT LUẬN CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM...........................121
1. Kết luận chung............................................................................................................121
2. Kiến nghị sư phạm......................................................................................................123

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kĩ năng hợp tác là một trong những kĩ năng sống quan trọng của con người,
chính sự hợp tác kết dính con người, vì thế nó giúp con người có được thành công
trong cuộc sống. C.Mác cho rằng: “Sự hợp tác của con người trong mối quan hệ xã
hội không phải dấu cộng về số lượng mà chính nhờ sự hợp tác đã tạo nên một sức
lao động, chiến đấu có hiệu quả. Con người hợp tác với nhau trong cuộc sống để tồn
tại và phát triển”. Như vậy, sự hợp tác trong cuộc sống của con người là hết sức cần
thiết.
Đối với trẻ MG, KNHT có một vai trò hết sức quan trọng, vì đây là một trong
những yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành và phát triển nhân cách của
trẻ. Chính nhờ sự hợp tác trong các hoạt động ở trường MN mà trẻ có cơ hội được
thể hiện bản thân mình, chia sẻ những kinh nghiệm, thiết lập các mối quan hệ thân
thiết với các bạn trong nhóm, lớp. Từ đó mà trẻ bước vào cuộc sống dễ dàng hơn.

Ở trẻ MG 4 – 5 tuổi đã bắt đầu chơi cùng nhau, các nhóm chơi của trẻ cũng
tương đối bền vững hơn trẻ MG 3 – 4 tuổi, nên đây là thời điểm thích hợp để hình
thành KNHT cho trẻ. Việc hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi có thể được
thực hiện thông qua nhiều hoạt động khác nhau như hoạt động học tập, lao động và
đặc biệt là hoạt động vui chơi, vì đặc điểm của trẻ ở giai đoạn này là “học mà chơi,
chơi mà học”, nên hoạt động vui chơi chính là con đường ngắn nhất nhưng hiệu quả
nhất để hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi. Trong hoạt động vui chơi có rất
nhiều loại trò chơi, mỗi loại có một ưu thế riêng để hình thành KNHT cho trẻ, trong
đó TCVĐ cũng là phương tiện hữu hiệu để giúp trẻ hình thành KNHT. Bởi vì đây là
loại trò chơi có luật, chính sự tôn trọng luật chơi giúp trẻ hình thành KNHT, bên
cạnh đó, khi tham gia TCVĐ trẻ thường chơi theo nhóm và để duy trì hứng thú chơi
của trẻ thì TCVĐ thường có yếu tố thi đua giữa các nhóm, nên đây là một cơ hội
thuận lợi để các trẻ thể hiện sự hợp tác với các bạn cùng chơi.

4


Mặc dù TCVĐ cũng được xem là một phương tiện hữu hiệu để giúp trẻ MG 4 –
5 tuổi hình thành KNHT, nhưng thực tiễn ở các trường MN hiện nay, việc hình
thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi thông qua TCVĐ chưa thật sự được GV quan
tâm chú ý đến. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này nhưng chủ yếu là
do phần lớn GV chỉ chú trọng đến việc phát triển tính tích cực vận động và các tố
chất thể lực trong khi chơi TCVĐ hơn là hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi,
bên cạnh đó GV sử dụng những biện pháp chưa phù hợp khi tổ chức TCVĐ để hình
thành KNHT cho trẻ, do đó hiệu quả hình thành KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi thông
qua TCVĐ chưa cao.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và tình hình thực tế trên, chúng tôi đã lựa chọn: “Một
số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi” làm
đề tài nghiên cứu của mình .
2. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp tổ chức
TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi để nâng cao hiệu quả của
công tác giáo dục này ở trường MN.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi.
4. Giả thuyết khoa học
TCVĐ có thể giúp hình thành và phát triển KNHT cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi. Nếu
có được những biện pháp tổ chức TCVĐ phù hợp thì KNHT của trẻ được hình
thành và phát triển thuận lợi.

5


5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
5.2. Nghiên cứu thực trạng về việc tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ
MG 4 – 5 tuổi.
5.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4
– 5 tuổi.
5.4. Thực nghiệm sư phạm.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc và phân tích những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài.
6.2. Phương pháp quan sát
- Quan sát cách tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi.
- Quan sát hiệu quả hình thành KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi trong TCVĐ.
6.3. Phương pháp điều tra

Bằng cách sử dụng phiếu điều tra (an két) với GVMN để tìm hiểu cách tổ chức
TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi.
6.4. Phương pháp đàm thoại
Bằng cách trao đổi, trò chuyện trực tiếp với GVMN và trẻ MG 4 – 5 tuổi để hỗ
trợ cho phương pháp điều tra và quan sát.
6.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Nhằm tìm hiểu kinh nghiệm của GVMN trong việc tổ chức TCVĐ nhằm hình
thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi.
6.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Nhằm tìm hiểu hiệu quả và tính khả thi của những biện pháp đã đề xuất khi tổ
chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi.

6


6.7. Phương pháp thống kê toán học
Nhằm thu thập, xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu.
7. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi nghiên cứu một số biện pháp tổ
chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi ở 2 trường MN Vàng
Anh và MN 11 tại TP.HCM.
8. Những đóng góp mới của đề tài
-

Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc tổ chức TCVĐ nhằm hình
thành KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi.

-

Tìm hiểu được thực trạng tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ

MG 4 – 5 tuổi.

-

Xây dựng được tiêu chí và thang đánh giá KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi
thông qua TCVĐ.

-

Đề xuất một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ
MG 4 – 5 tuổi.

9. Cấu trúc luận văn
Phần mở đầu: Nêu lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu, khách thể và đối tượng
nghiên cứu, giả thuyết khoa học, nhiệm vụ nghiên cứu, giới hạn của đề tài, phương
pháp nghiên cứu, đóng góp của đề tài, cấu trúc luận văn.
Chương I: Cơ sở lý luận của việc tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ
MG 4 – 5 tuổi.
Chương II: Thực trạng về việc tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ MG
4 – 5 tuổi.
Chương III: Đề xuất một số biện pháp tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho
trẻ MG 4 – 5 tuổi.
Chương IV: Thực nghiệm sư phạm

7


Phần kết luận chung và kiến nghị sư phạm
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


8


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC TỔ CHỨC TRÒ CHƠI VẬN ĐỘNG NHẰM
HÌNH THÀNH KĨ NĂNG HỢP TÁC CHO TRẺ MẪU GIÁO 4 – 5 TUỔI
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề tổ chức TCVĐ nhằm hình thành KNHT cho trẻ
MG 4 – 5 tuổi
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngoài
KNHT có vai trò rất quan trọng trong xã hội loài người, nó giúp cho con
người hoạt động cùng nhau một cách dễ dàng và đạt được hiệu quả công việc chung
một cách tốt nhất. Nhận thức được vai trò của KNHT nên từ lâu các nhà khoa học
trên thế giới và trong nước cũng đã nghiên cứu về vấn đề này nhằm phát triển toàn
diện nhân cách của con người nói chung và của trẻ mầm non nói riêng.
KNHT không phải là một thuật ngữ mới mẻ, nó đã xuất hiện từ cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX ở các nước phương Tây, đó chính là việc dạy học hợp tác.
Các tác giả như linh mục A.Bel và các thầy giáo D.Lancasto, Girard (năm 1789) đã
đưa ra hình thức dạy học tương trợ và đây có thể coi là hình thức đầu tiên cơ bản
nhất của KNHT. Với hình thức dạy học này, giáo viên tạo cơ hội cho người học
được chia ra thành từng nhóm hoạt động, trò chuyện cùng nhau, chia sẻ, giúp đỡ
nhau tìm hiểu, khám phá đối tượng nhận thức nhằm hình thành và phát triển KNHT
cho người học đồng thời nâng cao hiệu quả dạy học.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, nổi lên trào lưu tư tưởng dân chủ và tiến bộ.
Tiêu biểu cho hệ tư tưởng này là nhà GD nổi tiếng Johns Dewey (người Mỹ) và
Arthur Dobrin (người Mỹ) - nhà luân lý học và là chuyên gia nổi tiếng về lĩnh vực
GD đạo đức. Các ông đã có chung hướng nghiên cứu về KNHT trong hoạt động
học tập ở trường học. Hai ông cho rằng muốn học cách để cùng chung sống thì
người học phải được trải nghiệm quá trình học tập hợp tác trong nhà trường. Cuộc
sống trong lớp học cần phải được dân chủ hóa và trung tâm của cuộc sống dân chủ

là sự hợp tác giữa các thành viên trong nhóm. Sự hợp tác của người học cần phải
dựa trên hai nguyên tắc cơ bản, đó là đảm bảo tính liên tục và tác động qua lại. Xuất

9


phát từ ý tưởng đó J.Dewey đã xây dựng “nhà trường tích cực”. Ở đó ông đã phát
triển việc học hợp tác của người học, tạo nên môi trường làm việc chung để cho học
sinh có cơ hội trao đổi kinh nghiệm thực hành, phát triển lý luận và khả năng trừu
tượng hóa. Còn Arthur Dobrin cho rằng chúng ta đều mong muốn trở thành một
thành viên trong tập thể, bởi vì chỉ có thông qua sự hợp tác và nỗ lực chung giữa
con người với nhau mới có thể khiến cho người ta chiến thắng hoàn cảnh bên ngoài.
Những năm đầu thế kỉ XX, lĩnh vực hợp tác thu hút khá nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu như là nhà giáo dục R.Cousinet, Dottren, Eleskonler, Karl
Rogers... Vẫn dựa trên những quan điểm đầu tiên về hợp tác của linh mục A.Bel và
các thầy giáo D.Lancasto, Girard nhưng các ông chú ý nhiều hơn đến việc hình
thành KNHT cho người học bằng các phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp và
nêu lên một số đặc điểm về KNHT. Theo các ông, người học được tự do chọn bạn
để học nhóm. Học tập theo nhóm tránh được sự lười biếng vì người học sẽ hổ thẹn
với bạn khi bỏ dở công việc hay khi không biết làm việc. Từ đó, giúp cho người học
có những nhận định xã hội, người học sẽ biết cách đánh giá, nhận xét bạn mình
cũng như là bản thân mình và sẽ tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm xã hội cho bản
thân.
Dựa trên quan điểm của R.Cousinet, Dottren đã sáng lập ra truờng Ecoie –
Dumal ở Geneve. Những hoạt động trong ngôi trường này đã khẳng định giá trị
đúng đắn của phương pháp hợp tác nhóm của R.Cousinet. Theo Dottren, việc học
tập theo nhóm giúp học sinh tránh được sự xao nhãng, lười biếng và ghen tị khi làm
việc trong nhóm.
Vào những thập niên 30 – 40 của thế kỉ XX, việc học tập hợp tác theo nhóm
đã được áp dụng rộng rãi tại Mỹ và các nước phương Tây. Các nhà nghiên cứu thời

kì này không chỉ quan tâm đến hệ thống chương trình, bài giảng trên lớp, hoạt động
hướng dẫn nhóm mà còn chú ý đến sự phụ thuộc của hình thức học tập theo nhóm
trong các điều kiện khác nhau. Các nhà giáo dục như Eleskonler, Morton Deutsch,
Karl Rogers và Muzafer Sherif chú trọng đến việc thiết lập một hoàn cảnh sư phạm,
trong đó có những hoạt động tự do đòi hỏi học sinh phải hợp tác nhóm với nhau và

10


đề ra các tình huống hợp tác và tranh đua. Khi xem xét khía cạnh xã hội hóa diễn ra
trong nhóm, thì các ông đã tìm thấy tính chất độc đáo của hoạt động chung, đó là
học sinh có nhiều cơ hội nói lên ý tưởng, suy nghĩ của mình với người khác và
ngược lại, chính điều này đã làm cho các hoạt động trong nhóm diễn ra sôi nổi và
đạt hiệu quả cao. Theo Karl Rogers, quá trình dạy học cần chú ý hình thành cho học
sinh một số năng lực nhận thức và KNHT giúp cho các em có khả năng xử lý và sử
dụng thông tin trong quá trình học. Còn Muzafer Sherif đã tiến hành những nghiên
cứu về KNHT tại ba trại hè. Ở đó, ông đã thiết kế những sự tranh đua theo nhóm hết
sức sôi nổi và nghiên cứu sự nỗ lực của tất cả các thành viên trong nhóm. Với hình
thức trại hè như vậy, các em học sinh đã có một môi trường với nhiều cơ hội để
cùng hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập cũng như trong
sinh hoạt.
Năm 1975, D.Johnson và R. Johnson đã xuất bản tác phẩm “Học cùng nhau
và học độc lập”. Trong tác phẩm này các ông đã trình bày và phân tích vai trò của
mối quan hệ giữa ba mô hình học tập: hợp tác, tranh đua, cá nhân. D.Johnson và R.
Johnson đã chỉ ra: Khi hợp tác mọi thành viên phải giúp đỡ lẫn nhau, ai cũng có
nhiệm vụ rõ ràng, không đùn đẩy cho người khác. Hai ông cho rằng sự hợp tác của
học sinh chỉ được hình thành khi được hoạt động trong nhóm. Mức độ hợp tác phụ
thuộc vào sự tích cực tham gia của các thành viên trong nhóm, mỗi người chỉ có thể
thành công khi mọi người trong nhóm cùng thành công. [45]
Nhìn chung, nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã cho thấy được vai trò

quan trọng của việc hợp tác trong học tập cũng như trong sinh hoạt, họ đề cao vai
trò của sự hợp tác khi hoạt động cùng nhau. Bên cạnh đó, các tác giả này cũng đề ra
một số cách thức để việc hợp tác và hoạt động cùng nhau trở nên tích cực, hiệu quả
như là hoạt động nhóm, thi đua…
KNHT của trẻ MN nói chung và trẻ MG 4 – 5 tuổi nói riêng được hình thành
thông qua nhiều con đường khác nhau, nhưng các nhà tâm lý học, giáo dục học đã
chỉ ra rằng KNHT ở trẻ MG được biểu hiện rõ rệt nhất thông qua hoạt động vui
chơi, vì đây chính là hoạt động chủ đạo của trẻ MN. Trong hoạt động vui chơi của

11


trẻ MG có rất nhiều loại trò chơi, mỗi loại có một ưu thế riêng để hình thành KNHT
cho trẻ. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động vui chơi đối với
việc hình thành KNHT cho trẻ nên vấn đề lý luận về hoạt động vui chơi, trò chơi
của trẻ MN và việc tổ chức cho trẻ chơi nhằm phát triển nhân cách trẻ em nói chung
và hình thành KNHT cho trẻ MG nói riêng được các nhà sư phạm trên thế giới đặc
biệt quan tâm.
Từ những năm 30 của thế kỉ XX, các nhà tâm lý học, giáo dục học Xô Viết
như L.X.Vưgốtxki, A.N.Lêonchiep, Đ.B.Encônhin, A.V.Dapôrôzet .v.v… đã đưa ra
một cách nhìn mới mẻ về bản chất xã hội trong trò chơi trẻ em. Trong trò chơi, trẻ
dễ dàng phối hợp hành động, trẻ thiết lập được các mối quan hệ bạn bè. Theo họ,
trò chơi là một hình thức hoạt động chủ yếu hình thành hành vi xã hội của trẻ, hình
thành thái độ của trẻ đối với cuộc sống và mọi người xung quanh. Đó là phương
tiện hữu hiệu kích thích trẻ em thực hiện các hành động thực tiễn và là phương tiện
hình thành và phát triển sự hợp tác cần thiết ở trẻ MG.
L.X.Vưgốtxki khi nói về trò chơi của trẻ, ông nhấn mạnh sự cần thiết của
việc thỏa thuận và hợp tác với bạn trong trò chơi. Ông cho rằng chính sự hợp tác đã
thúc đẩy nhận thức của trẻ vượt ra ngoài phạm vi chức năng phát triển bình thường
của trẻ. Theo ông, tất cả trò chơi đều có luật và việc chấp hành đúng luật chơi là

điều kiện để duy trì trò chơi, dựa vào luật chơi để đánh giá và điều chỉnh hành vi
của các vai chơi. Qua đó trẻ hiểu được các hành vi xã hội và phát triển được năng
lực thỏa thuận luật chơi trước khi chơi. Đó chính là điều kiện để thúc đẩy trẻ hợp
tác với nhau.
Các nhà giáo dục như K.Đ.Usinxki, A.P.Uxôva và E.U.Chikhiepva đã có
cùng quan điểm về vai trò của trò chơi đối với việc hình thành xã hội trẻ em và hoạt
động vui chơi chính là cơ hội thuận lợi cho trẻ thể hiện KNHT. Chính trong quá
trình chơi, nhân cách trẻ được hình thành và phát triển. Đặc biệt những trò chơi tập
thể đã tạo điều kiện hình thành và phát triển các mối quan hệ xã hội đầu tiên của trẻ,
đồng thời trẻ dễ dàng lĩnh hội được các kinh nghiệm văn hóa – xã hội. Trò chơi là
hình thức tổ chức cuộc sống của trẻ, là phương tiện hình thành “xã hội trẻ em”,

12


trong quá trình chơi của trẻ hiện diện hai loại quan hệ, đó là quan hệ chơi và quan
hệ thực. Những mối quan hệ đi kèm trò chơi là cơ sở để hình thành xã hội trẻ em.
Thông qua trò chơi hình thành và phát triển ở trẻ những phẩm chất mang tính xã
hội, khả năng thiết lập các mối quan hệ với trẻ khác. Các trò chơi tập thể giúp trẻ
liên kết với nhau, làm nảy nở tình cảm bạn bè. Khi chơi, trẻ biết kết hợp quyền lợi
của cá nhân với lợi ích của nhóm, đôi khi trẻ biết hy sinh ý muốn của mình vì lợi
ích chung của cả nhóm, đây cũng có thể coi là cơ sở ban đầu của sự hợp tác.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Vì nhận thức được KNHT có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của
trẻ MN nên ở trong nước, bên cạnh những công trình nghiên cứu về KNHT nói
chung thì vấn đề KNHT của trẻ MG đã bắt đầu được một số nhà tâm lý, GDMN chú
ý đến. Họ đi theo các con đường khác nhau nhưng nhìn chung họ đều có mong
muốn tìm ra con đường tốt nhất để giúp trẻ MG phát triển toàn diện nhân cách.
Theo các nhà tâm lý học, giáo dục học thì con đường nhanh nhất và hiệu quả
nhất để hình thành KNHT cho trẻ là thông qua hoạt động vui chơi. Cho nên từ

những năm 70 trở lại đây các nhà khoa học GD Việt Nam đã có nhiều công trình
nghiên cứu về trò chơi trẻ em với việc hình thành, phát triển nhân cách nói chung và
hình thành KNHT cho trẻ MN nói riêng. Tiêu biểu như:
GS.TS Đặng Thành Hưng cho rằng khi có KNHT thì trẻ có thể hiểu sâu sắc,
toàn diện và biết cách đánh giá những ý tưởng của nhiều người. Từ đó trẻ dễ dàng
hòa nhập nhiều hoạt động, nhiều sự kiện khác nhau và trên cơ sở đó, trẻ sẽ có cơ hội
được trải nghiệm, tìm ra nhiều giải pháp dựa trên quá trình thu thập kinh nghiệm
của nhiều cá nhân. Từ đó trẻ có thể tự kiểm định, đánh giá các năng lực và thành
tựu của cá nhân. [16]
Trong các công trình nghiên cứu về kĩ năng sống của con người thì PGS.
Nguyễn Thanh Bình đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của KNHT trong học tập cũng
như trong sinh hoạt ở mọi lứa tuổi, trong đó có cả lứa tuổi MN. Vì vậy trong quá
trình GD trẻ cần chú ý đến việc hình thành KNHT cho trẻ nhỏ và nâng cao hiệu quả
dạy học bằng cách áp dụng các biện pháp dạy học theo nhóm. [3]

13


Chính vì hiểu được tầm quan trọng của KNHT đối với trẻ MN nên nhóm các
tác giả như Lê Xuân Hồng, Lê Thị Khang, Hồ Lai Châu, Hoàng Mai… đã đề cập
đến việc phát triển những kĩ năng cần thiết cho trẻ MN. Trong đó, phát triển KNHT
là một nhiệm vụ trọng tâm của ngành học MN với mục tiêu chung là thúc đẩy sự
phát triển KNHT của trẻ bằng cách giúp trẻ học cách hoà nhập với những trẻ khác,
và những mục tiêu cụ thể là tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc với trẻ khác, giúp trẻ
học cách tham gia vào trò chơi, tạo ra sự cảm nhận giúp trẻ tôn trọng những quyền
lợi của trẻ khác qua việc chia sẻ với nhau. Các tác giả này đã phân tích trò chơi ở
khía cạnh phát triển các kĩ năng giao tiếp trong nhóm chơi: thông qua hoạt động vui
chơi trong nhóm, trẻ thể hiện được sự tích cực chủ động hợp tác với nhau trong hoạt
động vui chơi. Nhờ các mối quan hệ trong trò chơi mà trẻ dễ dàng thể hiện tinh thần
hợp tác và tương trợ lẫn nhau tạo quan hệ tốt, các mối quan hệ thực và quan hệ chơi

được thiết lập chuyển đổi một cách dễ dàng. [12]
Trên tinh thần tiếp thu có chọn lọc thành quả của các công trình nghiên cứu lý
luận và thực tiễn về KNHT của các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới, đồng thời
trên cơ sở lý luận và thực tiễn GD Việt Nam, các nhà tâm lý học – giáo dục học đã
đề cập đến sự hợp tác của trẻ trong hoạt động vui chơi.
Hai tác giả Nguyễn Thị Tính và Hà Kim Linh đã khẳng định ưu thế của hoạt
động vui chơi đối với việc hình thành KNHT cho trẻ MG, đồng thời cho thấy vai trò
của hoạt động chơi theo nhóm đối với trẻ MG: “Hoạt động chơi cùng nhóm bạn sẽ
giúp trẻ hình thành KNHT, kĩ năng giao tiếp, giúp trẻ biết đồng cảm, chia sẻ với
nhau trong hoạt động. Hoạt động chơi theo nhóm đối với trẻ MG giúp trẻ thiết lập
các mối quan hệ xã hội với tư cách là một chủ thể có ý thức. Trong quá trình đó, trẻ
vừa là người tạo ra các mối quan hệ xã hội, đồng thời lại là sản phẩm của các mối
quan hệ xã hội đó. [31; 24].
PGS.TS. Nguyễn Ánh Tuyết đã phân tích vai trò chủ đạo của trò chơi và sự
phát triển các phẩm chất nhân cách của trẻ. Bà đã khẳng định trò chơi là con đường
cơ bản để hình thành sự hợp tác ở trẻ, đặc biệt là trò chơi đóng vai theo chủ đề - một
dạng hoạt động đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các thành viên trong trò chơi với

14


nhau. Vì thế, để tiến hành một trò chơi nhằm mô phỏng lại đời sống xã hội,
buộc phải có nhiều trẻ cùng tham gia, cùng hoạt động với nhau, nghĩa là phải
có bạn bè cùng chơi. Hợp tác là một nét phát triển mới trong hoạt động vui chơi
của trẻ MG. [35]
Những năm gần đây, vấn đề kĩ năng sống, trong đó có cả KNHT được rất nhiều
người quan tâm. Chính vì vậy KNHT trở thành đề tài của nhiều công trình nghiên
cứu. Ví dụ như các tác giả Phạm Thị Thu Hương, Hồ Thị Ngọc Trân và Vũ Thị
Nhâm đã có cùng hướng nghiên cứu về sự hình thành và phát triển KNHT ở những
độ tuổi khác nhau thông qua việc tổ chức hoạt động vui chơi của trẻ MG. Tác giả

Phạm Thị Thu Hương đã nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp hình thành tính
hợp tác qua trò chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ MG 3 – 4 tuổi như: tạo tình huống
trong quá trình trẻ chơi, mở rộng các mối quan hệ giữa các vai chơi, chủ đề chơi, và
đưa trẻ vào các nhóm chơi không cùng độ tuổi [19]…Tác giả Hồ Thị Ngọc Trân đã
nghiên cứu về khả năng hợp tác của trẻ MG 3 – 4 tuổi trong hoạt động vui chơi, đặc
biệt là trong trò chơi đóng vai theo chủ đề - trò chơi trung tâm của trẻ MG. Nghiên
cứu này đã chỉ ra sự hợp tác của trẻ được bắt đầu hình thành thông qua hoạt động
vui chơi và nhờ đó mà trẻ thiết lập được mối quan hệ đúng đắn trong xã hội [33].
Còn tác giả Vũ Thị Nhâm đã nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp phát triển
KNHT cho trẻ MG 5 – 6 tuổi qua trò chơi đóng vai theo chủ đề như: khuyến khích
trẻ MG 5 – 6 tuổi chia sẻ kinh nghiệm, ý tưởng chơi cùng nhau, tạo tình huống chơi
hấp dẫn, tạo không gian chơi và bố trí các nguyên vật liệu thiên nhiên, phế liệu
trong các góc chơi để kích thích trẻ tích cực hợp tác với nhau… [25]
Qua lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã cho thấy
việc hình thành KNHT cho trẻ MN là rất quan trọng nên được rất nhiều tác giả
nghiên cứu. Tuy nhiên cho đến nay thì vấn đề tổ chức TCVĐ nhằm hình thành
KNHT cho trẻ MG 4 – 5 tuổi vẫn chưa được quan tâm đúng mức và chưa ai nghiên
cứu về vấn đế này, nên đây chính là cơ sở để chúng tôi xác định hướng nghiên cứu
của mình.

15


1.2. KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi
1.2.1. Khái niệm về KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi
* Khái niệm về hợp tác
Theo từ điển tiếng Việt: “Hợp tác là chung sức giúp đỡ nhau trong một công
việc, một lĩnh vực nào đó nhằm đạt mục đích chung”. [26]
Theo C.Mác thì hợp tác là hình thức lao động của nhiều người làm việc bên
nhau và với nhau trong cùng một quy trình sản xuất hay trong các quy trình sản xuất

khác nhau, nhưng liền với nhau theo kế hoạch.
Các tác giả như Hoàng Hòa Bình, Lê Minh Châu, Phan Thanh Trà thì cho rằng
hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một công việc,
một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung. [4]
Theo PGS. Nguyễn Thanh Bình thì “Hợp tác đó là những hành vi giúp đỡ
người khác, tuân thủ cam kết hoặc cùng chung sức hoàn thành một công việc, cùng
phối hợp hành động trong một lĩnh vực nào đó nhằm một mục đích chung”. [2]
Qua quan niệm của các tác giả trên, chúng ta có thể hiểu hợp tác là quá trình
hoạt động cùng nhau của con người để đạt được mục đích chung.
* Khái niệm về kỹ năng
Trong bất kì một hoạt động nào, muốn đạt được hiệu quả thì không những
cần có tri thức, có ý chí mà phải có những kĩ năng, kĩ xảo nhất định.
Trong từ điển tiếng Việt của NXB Khoa học xã hội thì cho rằng “kĩ năng là
khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn”.
Trong tâm lý học tồn tại hai quan niệm khác nhau về kĩ năng:
Quan niệm thứ nhất: coi kĩ năng là mặt kĩ thuật của thao tác, hành động hay
hoạt động.
Đại điện cho quan niệm này là các tác giả như: Ph.N.Gônôbôlin,
V.A.Krutretxki, V.X.Cudin, A.G.Kôvaliôv, Trần Trọng Thủy, Lê Văn Hồng… Các
tác giả này cho rằng, muốn thực hiện được một hành động, cá nhân phải có tri thức
về hành động đó, tức là phải hiểu được mục đích, phương thức và các điều kiện để

16


thực hiện nó. Vì vậy, nếu ta nắm được các tri thức về hành động, thực hiện được nó
trong thực tiễn theo các yêu cầu khác nhau, tức là ta đã có kĩ năng hành động.
Quan điểm thứ hai: coi kĩ năng không đơn thuần là mặt kĩ thuật của hành động
mà nó còn là một biểu hiện về năng lực của con người. Kĩ năng theo quan niệm này
vừa có tính ổn định, lại vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt và tính mục đích.

Đại diện cho quan điểm này là các tác giả: N.D.Lêvitôv, X.I.Kixegof,
K.K.Latônôv, A.V.Barabasicoov, Nguyễn Ánh Tuyết, Ngô Công Hoàn, Nguyễn
Quang Uẩn .v.v…
Như vậy có thể hiểu: Kĩ năng là khả năng thực hiện một hành động, công
việc nào đó đã định sẵn.
* Khái niệm kĩ năng hợp tác
Dựa trên sự phân tích khái niệm “Kĩ năng” và “Hợp tác”, chúng tôi xác định
khái niệm “kĩ năng hợp tác” như sau:
KNHT là khả năng hoạt động cùng nhau để thực hiện một nhiệm vụ hay một
công việc nào đó đã định sẵn.
* Khái niệm KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi
Từ việc xác định khái niệm “kĩ năng hợp tác” chúng tôi đưa ra khái niệm “kĩ
năng hợp tác của trẻ MG 4 – 5 tuổi” như sau:
KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi là khả năng hoạt động cùng nhau để thực hiện
nhiệm vụ nào đó đã định sẵn của trẻ MG 4 – 5 tuổi.

1.2.2. Cơ chế sinh lý của việc hình thành KNHT
KNHT là khả năng hoạt động cùng nhau thực hiện một nhiệm vụ, một công
việc nào đó đã định sẵn, và KNHT được hình thành dựa trên cơ chế sinh lý của việc
hình thành các kĩ năng nói chung, đó là một hệ thống các đường liên hệ thần kinh
tạm thời đã được hình thành tương đối vững chắc trên vỏ não [42]. Nhờ có hệ thống
này, các thao tác đầu tiên của hành động được thực hiện sẽ “tự kéo theo” một chuỗi
các thao tác khác, hầu như không cần có “sự chỉ huy” của ý thức, không cần có sự
tham gia của hệ thống tín hiệu thứ hai, con người không cần suy nghĩ về trình tự
tiến hành từng thao tác. Ta còn gọi hệ thống các đường liên hệ thần kinh đó là động

17


hình (định hình động lực). Toàn bộ hành động nhờ đó sẽ được thực hiện trong một

khâu liên tục, các động tác có liên hệ chặt chẽ với nhau. Đó là hệ thống các phản xạ
có điều kiện được lặp đi lặp lại theo một trình tự nhất định và theo khoảng cách thời
gian nhất định trong một thời gian dài. Khi hệ thống này bền vững chỉ cần phản xạ
đầu xảy ra là toàn bộ phản xạ tiếp theo xảy ra theo lối “dây chuyền” (nghĩa là một
kích thích có thể đại diện cho toàn bộ các kích thích khác để gây phản xạ). Chính vì
thế, động hình là cơ sở của những hành động tự động hóa, thói quen, kỹ năng, kỹ
xảo.
Định hình động lực đã được nghiên cứu kĩ trong phòng thí nghiệm của
Pavlov. Người ta đã cho thấy, nếu một hệ thống các kích thích có điều kiện dương
tính và âm tính luân phiên nhau, cách nhau những khoảng thời gian nhất định, được
sắp xếp theo một trật tự cố định, tác động lâu dài trên cơ thể, thì não bộ sẽ ghi nhận
được hệ thống kích thích này.
Mỗi kích thích, tùy thuộc vào vị trí tương ứng, vào quy luật về lực và mức độ
bảo hòa của con vật, sẽ gây ra một hiệu quả nhất định. Nhờ có khả năng lưu thích
ứng trong các tế bào thuộc vỏ bán cầu đại não, các định hình sẽ được ghi nhận dưới
dạng một hệ thống chức năng phức tạp. Trong hệ thống chức năng này, tất cả các
yếu tố thành phần tác động lên cơ thể sẽ liên kết với nhau thành một tổ hợp thống
nhất mang tính chất tổng hợp. Dựa vào đây, ta có thể coi định hình là phản xạ có
điều kiện đối với một nhóm các kích thích của môi trường. Chỉ cần một kích thích
ban đầu là toàn bộ phản xạ sẽ xảy ra nối tiếp nhau. Trong trường hợp này, não đã
phản ứng với hệ thống các tín hiệu. Nếu đem tách từng kích thích ra rồi cho chúng
tác động riêng lẻ, thì phản xạ có điều kiện sẽ không xuất hiện. Ngược lại, nếu ta
đem thay thế một trong số các kích thích bằng một kích thích khác có lực trung
bình, thì định hình vẫn xuất hiện
Sự tồn tại các định hình động lực làm cho hoạt động của con người được
thuận lợi và dễ dàng hơn. Chính vì vậy, một việc dù khó đến đâu mà ta thao tác lặp
đi, lặp lại nhiều lần cũng trở thành dễ dàng thực hiện. Trong quá trình luyện tập,
những động tác thừa làm hao tổn năng lượng không cần thiết sẽ mất dần đi. Do đó

18



có thể coi định hình động lực là cơ sở của những thói quen, của kĩ năng, kĩ xảo. Nó
cũng là một hệ thống phối hợp chức năng tinh xảo của toàn bộ cơ thể. Đó là phản
ứng của vỏ não đối với hoàn cảnh bên ngoài tương đối ổn định, ít thay đổi. Muốn
hình thành và duy trì sự ổn định về cơ cấu của một định hình trong từng trường hợp
cụ thể, phải có điều kiện đặc biệt thỏa mãn những yêu cầu đã được nâng cao đối với
hệ thần kinh trung ương.

1.2.3. Biểu hiện của KNHT
Hợp tác là quá trình hoạt động cùng nhau của con người để đạt được mục đích
chung và KNHT là khả năng hoạt động cùng nhau để thực hiện một nhiệm vụ hay
một công việc nào đó đã định sẵn. Từ 2 khái niệm này, có thể rút ra được những
biểu hiện của người có KNHT [4; 20]:
-

Tôn trọng mục đích, mục tiêu hoạt động chung của nhóm; tôn trọng những
quyết định chung, những điều đã cam kết.

-

Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thông, chia sẻ với các
thành viên khác trong nhóm.

-

Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của nhóm. Đồng
thời biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người
trong nhóm.


-

Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ
đã được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên khác trong
quá trình hoạt động.

-

Biết cùng cả nhóm đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng
mắc để hoàn thành mục đích, mục tiêu hoạt động chung.

-

Có trách nhiệm về những thành công hay thất bại của nhóm, về những sản
phẩm do nhóm tạo ra.

19


Có KNHT là một yêu cầu quan trọng đối với người công dân trong xã hội hiện
đại, bởi vì mỗi người đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng. Sự hợp tác trong
công việc giúp cho mọi người hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau, tạo nên sức mạnh trí tuệ,
tinh thần và thể chất, vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao hơn
cho công việc chung. Bên cạnh đó, trong xã hội hiện đại, lợi ích của mỗi cá nhân,
mỗi cộng đồng đều phụ thuộc vào nhau, ràng buộc lẫn nhau; mỗi người như một chi
tiết của một cỗ máy lớn, phải vận hành đồng bộ, nhịp nhàng, không thể hành động
đơn lẻ. Hơn nữa, KNHT giúp cho cá nhân sống hài hòa và tránh xung đột trong
quan hệ với người khác.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của KNHT đối với sự hình thành nhân cách
trẻ MG, ngành học MN đã xác định việc hình thành KNHT cho trẻ là một trong

những nội dung quan trọng trong lĩnh vực GD tình cảm đạo đức – xã hội. Điều này
được thể hiện trong giáo trình giáo dục học MN hiện hành với nội dung sau: Phát
triển một số nét tính cách cần thiết cho trẻ như sẵn sàng hợp tác, chia sẻ với mọi
người; tự tin vào bản thân và khả năng của mình; dám suy nghĩ và hành động một
cách độc lập…
Trong thực tiễn GDMN, nội dung GD KNHT cho trẻ MG được thể hiện
trong mục tiêu của chương trình GDMN do Bộ GD & ĐT ban hành theo Quyết định
số 17/2009/TT – BGDĐT ngày 25/7/2009. Nội dung này được thể hiện cụ thể trong
phần mục tiêu phát triển tình cảm – xã hội cho trẻ. Đó là:
-

Hợp tác, chia sẻ với các bạn trong các hoạt động.

-

Có hành vi ứng xử đúng với bản thân và mọi người xung quanh.

-

Có hành vi, thái độ thể hiện sự quan tâm đến những người gần gũi.

-

Vui vẻ nhận và thực hiện công việc được giao đến cùng…

Và nội dung này còn được thể hiện trong bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi của Bộ
GD & ĐT ban hành:
-

Biết lắng nghe ý kiến của bạn.


20


-

Biết trao đổi ý kiến của mình với các bạn.

-

Biết tìm cách giải quyết mâu thuẫn (dùng lời, nhờ sự can thiệp của người
khác, chấp nhận sự thỏa hiệp).

-

Chấp nhận sự phân công của nhóm.

-

Sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ đơn giản cùng người khác.

Như vậy, trên cơ sở phân tích mục tiêu GDMN kết hợp với việc phân tích các
chương trình CS – GD trẻ MG, chuẩn GDMN, chúng tôi có thể rút ra những biểu
hiện của KNHT ở trẻ MG như sau:
-

Trẻ chấp nhận sự phân công của người trưởng nhóm và của các bạn trong
nhóm.

-


Trẻ biết trao đổi, bàn bạc, thỏa thuận với nhau để đưa ra cách thức thực hiện
nhiệm vụ của hoạt động chung.

-

Trẻ biết phối hợp hành động với các bạn trong nhóm, lớp để hoàn thành
nhiệm vụ chung.

-

Trẻ biết chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ các bạn trong nhóm, lớp để hoàn thành
nhiệm vụ chung.

-

Trẻ có thái độ thân thiện với các bạn, biết cách giải quyết mâu thuẫn xảy ra
trong quá trình hoạt động chung.

1.2.4. Đặc điểm KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi
Vào tuổi MG 4 – 5 tuổi, do đã có ít nhiều vốn sống nhờ việc tiếp xúc hàng
ngày với thế giới đồ vật, giao tiếp rộng rãi với những người xung quanh, nhận thức
của trẻ đã phát triển nên các trò chơi của trẻ cũng phát triển theo. Chính vì thế mà
làm nảy sinh nhu cầu hợp tác của trẻ với các bạn cùng chơi. Không có sự hợp tác,
phối hợp với nhau giữa các thành viên thì không thành trò chơi. Việc hợp tác chơi
với nhau trong nhóm đã trở thành một nhu cầu bức thiết đối với trẻ MG 4 – 5 tuổi.

21



Trong khi chơi, KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi được thể hiện trước hết ở sự
thỏa thuận cùng nhau. Trẻ không chỉ biết thỏa thuận về trò chơi, vai chơi mà còn
biết thỏa thuận về hành động chơi để hoàn thành nhiệm vụ chơi một cách tốt nhất.
Trẻ biết trao đổi ý kiến của mình với các bạn đồng thời cũng biết lắng nghe ý kiến
của các bạn khi bàn bạc với nhau để đưa ra cách thức thực hiện nhiệm vụ chơi.
Ở độ tuổi này, khi tham gia vào trò chơi, trẻ chấp nhận sự phân công của
người trưởng trò và của nhóm chơi một cách tích cực. Trong quá trình chơi trẻ đã
biết tuân thủ quy ước của trò chơi, trẻ biết chấp nhận sự “thắng”, “thua”, trẻ nào vi
phạm những quy ước đó thì bị coi là “ăn gian” và sẽ bị tập thể loại ra khỏi cuộc
chơi. Khi có mâu thuẫn xảy ra trẻ cũng biết tìm cách giải quyết để trò chơi được
tiếp tục diễn ra một cách suôn sẻ như: nhờ sự can thiệp của người khác hay chấp
nhận sự thỏa hiệp.
Việc thiết lập mối quan hệ chơi của trẻ được dễ dàng hơn và sự phối hợp
hành động khi chơi khá ăn ý với nhau, trẻ bắt đầu biết chú ý đến ý kiến của các bạn
cùng chơi, và sẵn sàng hùa theo ý kiến của số đông. Ở độ tuổi này sự đánh giá của
nhóm bạn trở nên đặc biệt quan trọng, vì nó có tác động khá rõ nét tới cả tập thể.
Mỗi đứa trẻ đều cố gắng tự kiềm chế những việc làm không được các bạn tán thành,
và ngược lại, cố gắng làm nhiều việc tốt để được bạn bè yêu quý và tín nhiệm. Mặc
dù trong các hoạt động chung của trẻ vẫn thường xảy ra xung đột, song các mối
quan hệ trong trò chơi cũng đã trở nên bền vững hơn. Như vậy, trẻ đã nhận ra được
sự cần thiết của nhóm chơi, tập thể bạn bè, những biểu hiện tập thể dần hình thành ở
trẻ, những biểu hiện của sự hợp tác ban đầu cũng dần được hình thành qua các vai
chơi trong trò chơi của trẻ. Với sự hướng dẫn của GV, trẻ đã biết liên kết hành động
chơi của mình với hành động của bạn, biết thỏa hiệp, nhường nhịn nhau và hợp tác
với nhau trong các hoạt động chung.
Đối với trẻ MG 4 – 5 tuổi, ý thức về bản thân bắt đầu phát triển, trẻ có khả
năng tự khẳng định mình trong tập thể, có thái độ phù hợp trong mối quan hệ với
các bạn trong nhóm chơi. Vì vậy, ý thức tập thể của trẻ cũng đang được hình thành,

22



trẻ bắt đầu biết phối hợp hành động cùng với nhau, biết đưa ra ý kiến nhận xét về
hành động cũng như kết quả hoạt động của bản thân và các bạn trong nhóm, lớp.
Qua đây có thể thấy trẻ MG nói chung và trẻ MG 4 – 5 tuổi nói riêng đã có
những biểu hiện ban đầu của KNHT. Sự hợp tác của trẻ MG được hình thành và
phát triển không chỉ phụ thuộc vào lứa tuổi mà còn phụ thuộc rất nhiều vào cách
thức tổ chức, hướng dẫn của người lớn. Người lớn cần quan tâm, tạo điều kiện, cơ
hội cho trẻ tham gia vào các hoạt động chung của tập thể, hay hoạt động trong các
nhóm chơi với những nội dung, cách thức, phương pháp hấp dẫn vì sự hình thành
và phát triển KNHT cho trẻ ở lứa tuổi này là hết sức quan trọng và cần thiết. Có thể
nói rằng đây là thời điểm thuận lợi nhất để hình thành KNHT cho trẻ. Bỏ qua thời kì
này, không quan tâm hình thành KNHT cho trẻ là một sai lầm nghiêm trọng.

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành KNHT của trẻ MG 4 – 5
tuổi
Sự hình thành KNHT của trẻ MG 4 – 5 tuổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có
thể kể đến các yếu tố sau:
* Đặc điểm tâm lý của trẻ MG 4 – 5 tuổi
Cơ thể trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển, quá trình này diễn ra một
cách liên tục. Những thay đổi trong quá trình trưởng thành của trẻ ở lứa tuổi MG
cho phép trẻ giải quyết những tình huống phức tạp hơn. Qua các hoạt động hàng
ngày trẻ tiếp tục được hình thành và phát triển các kĩ năng cần thiết như: KNHT
cùng chung sống, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng vận động…Những bước tiến trong sự
phát triển của cơ thể giúp trẻ trở nên độc lập, mạnh dạn và dễ dàng hòa nhập vào
cuộc sống cộng đồng hơn.
Do nhu cầu tiếp xúc với thế giới bên ngoài ngày càng được mở rộng nên trẻ
có nhiều cơ hội tiếp xúc với những người xung quanh. Trong quá trình tham gia vào
các hoạt động chung thì vốn kinh nghiệm của trẻ được tăng lên, đồng thời trẻ cũng
trở nên mạnh dạn và tự tin hơn.


23


Sự phát triển hoàn thiện dần về mặt cấu tạo và chức năng sinh lý cũng như
sự phát triển của các chức năng tâm lý đã tạo nên những điều kiện thuận lợi giúp trẻ
trở nên độc lập, mạnh dạn và dễ hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng hơn. Đây là
điều kiện thuận lợi cho sự hình thành KNHT ở trẻ MG 4 – 5 tuổi, để trẻ có thể tiếp
tục phát triển ở tuổi MG 5 – 6 tuổi, là sự chuẩn bị cần thiết cho trẻ bước vào học tập
ở trường phổ thông và hòa nhập tốt vào cuộc sống xã hội.
Các nhà tâm lý học cho rằng, sự tự ý thức về bản thân đóng vai trò điều
chỉnh trong hành vi của con người. Nó quyết định đến thái độ của cá nhân đối với
bản thân và những người xung quanh. Khi trẻ biết tự ý thức về bản thân thì trẻ
không chỉ có khả năng tự đánh giá bản thân mà còn biết đánh giá người khác để
nhận thức được cái đúng, cái sai, cái hay, cái dở. Từ đó, trẻ càng có nhiều cơ hội
được trải nghiệm xã hội thì KNHT càng bền vững.
* Sự tích cực, chủ động, hứng thú của bản thân trẻ MG 4 – 5 tuổi đối với
công việc chung
Trẻ em rất ham hiểu biết, giàu trí tưởng tượng, ưa thích hoạt động để khẳng
định bản thân và đó là phẩm chất sẵn có của mỗi trẻ. Điều đó được biểu hiện ở tính
tích cực, chủ động tìm hiểu và nhận thức thế giới xung quanh, ở nhu cầu muốn tham
gia vào các hoạt động, đặc biệt là hoạt động vui chơi. Có thể nói, không có một hoạt
động nào như hoạt động vui chơi, khi tham gia vào hoạt động này, trẻ thật sự trở
thành một chủ thể tích cực hoạt động (trẻ trao đổi, bàn bạc, thỏa thuận một cách
thoải mái, tự do, trẻ tự nhiên giải bày xúc cảm tình cảm của mình …) nhờ đó mà
nhân cách trẻ được hình thành và phát triển, như Leônchiev nói “Nhân cách trẻ chỉ
được hình thành trong hoạt động và thông qua hoạt động”.
Sự tích cực là nhu cầu mang tính cảm xúc cao của trẻ và có được trước khi
có động cơ hoạt động. Khi trẻ tích cực, chủ động với công việc gì đó sẽ nảy sinh
động cơ, mong muốn tham gia vào hoạt động đó, mang lại hiệu quả công việc cao

hơn. Một câu chuyện hấp dẫn, trẻ tích cực, chủ động nghe thì sẽ nhớ lâu. Khi trẻ
tích cực tham gia vào một trò chơi, trẻ sẽ chơi trò chơi đó tới cùng.

24


Sự hợp tác của trẻ phụ thuộc rất nhiều vào sự tích cực, chủ động của trẻ.
Trong hoạt động chung nếu thiếu tính tích cực, chủ động thì mối quan hệ hợp tác
của trẻ sẽ không bền vững, lỏng lẻo và việc hình thành KNHT cho trẻ cũng sẽ gặp
rất nhiều khó khăn.
Sự tích cực, chủ động trong hoạt động sẽ tác động tới trẻ, làm cho trẻ trở nên
thân thiện, gần gũi, dễ đồng cảm và chia sẻ với nhau hơn. Đồng thời tính tích cực,
chủ động sẽ làm giảm sự căng thẳng, mệt mỏi và mở ra con đường dẫn đến sự hợp
tác. Sự tích cực, chủ động giúp cho trẻ tham gia vào hoạt động hợp tác một cách
thoải mái, say mê và còn có thể làm thay đổi kết quả hoạt động của trẻ.
Hứng thú với công việc chung có ảnh hưởng rất lớn đến sự hợp tác của trẻ,
bởi khi có hứng thú thì trẻ sẽ hợp tác với nhau dễ dàng hơn. Hứng thú với công việc
chung càng cao thì trẻ càng hợp tác với nhau. Trong hoạt động chung nếu thiếu
hứng thú thì mối quan hệ hợp tác của trẻ sẽ lỏng lẻo, không bền vững và việc hình
thành KNHT cho trẻ cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Hứng thú với công việc chung như là một sự thúc đẩy bên trong làm biến đổi
một cách đáng kể mối quan hệ giữa trẻ với nhau, trẻ trở nên thân thiện, dễ hòa đồng,
dễ đồng cảm và sẵn sàng chia sẻ với nhau hơn. Đồng thời, hứng thú sẽ làm giảm sự
căng thẳng, mệt nhọc và nó mở ra con đường dẫn tới sự hợp tác, nó giúp cho trẻ
tham gia vào hoạt động hợp tác một cách thoải mái, say mê và hiệu quả hơn. Thậm
chí, hứng thú với công việc chung có thể làm thay đổi cả kết quả hoạt động của trẻ.
Trong quá trình hoạt động của trẻ, GV có thể hình thành, duy trì, điều khiển
được hứng thú với công việc chung mọi lúc bằng cách xây dựng mục tiêu, nội dung,
phương pháp, biện pháp, phương tiện dạy học phù hợp cho từng hoạt động.
* Hoạt động nhóm và quy mô nhóm

Trong môi trường hoạt động nhóm, làm việc tập thể, mọi cá nhân đều nhận
ra, hiểu rõ và tin rằng: “Không một ai trong chúng ta có thể giỏi bằng tất cả chúng
ta hợp lại”. Như vậy, hành động sẽ được thực hiện tốt hơn và kết quả hành động sẽ
mỹ mãn hơn khi tất cả chúng ta cùng hợp tác.

25


×