MỞ ĐẦU
* Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay phát triển nông thôn không còn là việc riêng của các nước đang
phát triển mà là sự quan tâm của cả cộng đồng thế giới. Việt Nam là nước đông
dân, với 80% dân số, 70% lao động nông nghiệp đang sinh sống ở vùng nông
thôn. Nông thôn chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển đất nước.
Thực trạng nông thôn Việt Nam hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập, so sánh với
thành thị, trình độ văn hóa, đời sống vật chất, văn hóa tinh thần và khả năng tiếp
cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật của người dân nông thôn thấp hơn, cơ sở hạ
tầng thiếu thốn, kém hơn cả về số lượng và chất lượng…Tuy nhiên, nông thôn
có tiềm năng đất đai, tài nguyên khoáng sản phong phú, nguồn nhân lực dồi
dào…Là điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển. Xây dựng, quy hoạch phát
triển nông thôn mới nhằm sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn tài nguyên, nhanh
chóng thay đổi bộ mặt nông thôn, phát triển nông thôn toàn diện, bền vững là
nhiệm vụ cần thiết của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng nông thôn
mới là bước đầu tiên để tiến tới công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Hội nghị lần
thứ 7 của ban chấp hành trung ương Đảng khóa X đã ban hành nghị quyết số 26NQ/TW ngày 5/8/2008 về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Nghị
quyết đã xác định mục tiêu xây dựng nông thôn mới đến năm 2020. Ngày
16/4/2009 Thủ Tướng Chính phủ đã có quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành bộ
tiêu chí quốc gia (bao gồm 19 tiêu chí) về nông thôn mới. Đây là cơ sở để chỉ
đạo xây dựng mô hình nông thôn mới nhằm thực hiện các mục tiêu quốc gia về
nông thôn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn mới sẽ được triển khai trên
địa bàn cấp xã trong phạm vi cả nước nhằm phát triển nông thôn toàn diện; có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình
thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp,
dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn
dân chủ ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái được bảo
vệ, an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân
ngày càng nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quảng Nam là một tỉnh có nền sản xuất nông nghiệp chiếm vị trí quan
trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên ở nhiều nơi điều kiện giao
thông đi lại, các công trình phục vụ sản xuất chưa đáp ứng được yêu cầu của
người dân, chưa khai thác tối đa được tiềm năng hiện có…Vì vậy xây dựng
nông thôn mới ở tỉnh Quảng Nam là hết sức cần thiết, phù hợp với yêu cầu phát
triển xã hội, gìn giữ bản sắc văn hóa địa phương và nâng cao chất lượng cuộc
1
sống của nhân dân; đáp ứng được nội dung tinh thần Nghị quyết Trung ương 7
khóa X của Đảng. Xuất phát từ tình hình trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, thực trạng và giải
pháp”.
* Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận chung về nông thôn mới và xây dựng
nông thôn mới.
- Phân tích và đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam trong thời gian qua để tìm ra vấn đề cần giải quyết.
- Đưa ra một số giải pháp để thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.
* Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
- Vận dụng lý luận xây dựng nông thôn mới vào phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn tỉnh Quảng Nam với những đặc thù của địa phương.
- Các giải pháp được kiến nghị dựa trên tính đặc thù của địa phương hứa
hẹn có hữu ích cho việc hoạch định chính sách xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn tỉnh.
2
CHƯƠNG 1:LÝ LUẬN CHUNG VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG VÀ NGUYÊN TẮC CỦA XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI
1.1.1. Khái niệm.
1.1.1.1. Khái niệm nông thôn
Khái niêm nông thôn được thống nhất với quy định tại Thông tư số
54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21-8-2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, cụ thể: "Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các
thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban
nhân dân xã".
1.1.1.2. Khái niệm nông thôn mới
Là nông thôn mà trong đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị.
Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.
Nông thôn mới có kinh tế phát triển toàn diện, bền vững, cơ sở hạ tầng
được xây dựng đồng bộ, hiện đại, phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa
nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị. Nông thôn ổn định, giàu bản sắc
văn hoá dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ. Sức mạnh của hệ thống
chính trị được nâng cao, đảm bảo giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.
1.1.1.3. Xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để
cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình
khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp,
dịch vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo;
thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn
dân, của cả hệ thống chính trị. Nông thôn mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã
hội, mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp.
Xây dựng nông thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực,
chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân
chủ, văn minh.
3
1.1.2. Đặc trưng của nông thôn mới
Theo cuốn “Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới” (Nhà xuất bản
Lao động 2010), đặc trưng của Nông thôn mới thời kỳ CNH –HĐH, giai đoạn
2010-2020, bao gổm:
- Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn
được nâng cao;
- Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội
hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ;
- Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy;
- An ninh tốt, quản lý dân chủ.
- Chất lương hệ thống chính trị được nâng cao...
1.1.3. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
- Nội dung xây dựng nông thôn mới hướng tới thực hiện Bộ tiêu chí Quốc
gia được qui định tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng
Chính phủ.
- Xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của
cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban
hành các tiêu chí, quy chuẩn, xã đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng
dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân
chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.
- Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình mục
tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác
đang triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần
thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành phần
kinh tế; huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư.
- Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy
hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu
chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban hành).
- Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng, chính
quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch,
tổ chức thực hiện; Hình thành cuộc vận động “toàn dân xây dựng nông thôn
mới" do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã hội vận động
mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nông thôn
mới.
4
1.2. NỘI DUNG CÁC TIÊU CHÍ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
VIỆT NAM
Ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
491/QĐ-TTg về Ban hành bộ tiêu chí Quốc gia về NTM. Theo Quyết định có 05
nội dung với 19 tiêu chí qui định về xã đạt chuẩn NTM.
1.2.1. Nhóm tiêu chí
Thứ 1, về Quy hoạch: Tiêu chí 1: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch: quy
hoạch sử dụng đất, hạ tầng kinh tế- xã hội và quy hoạch các khu dân cư;
Thứ 2, về Hạ tầng kinh tế- kỹ thuật, gồm: Tiêu chí 2: Giao thông; 3: Thuỷ
lợi; 4: Điện; 5: Trường học; 6: Cơ sở vật chất văn hoá; 7: Chợ; 8: Bưu điện; 9:
Nhà ở dân cư;
Thứ 3, về Kinh tế và Tổ chức sản xuất, gồm: Tiêu chí 10: Thu nhập; 11:
Hộ nghèo; 12: Cơ cấu lao động; 13: Hình thức tổ chức sản xuất;
Thứ 4, về Văn hoá xã hội, môi trường, gồm: Tiêu chí 14: Giáo dục; 15: Y
tế; 16: Văn hoá; 17: Môi trường;
Thứ 5, về Hệ thống chính trị, gồm: Tiêu chí 18: Hệ thống tổ chức chính trị
xã hội vững mạnh và 19: An ninh, trật tự xã hội.
Trong từng tiêu chí có các chỉ tiêu cụ thể cho từng vùng, miền, từng
ngành, lĩnh vực.
1.2.2. Nội dung tiêu chí
Có 11 nhóm nội dung các tiêu chí của Việt Nam gồm:
Thứ 1, về quy hoạch xây dựng NTM: đến năm 2011, cơ bản phủ kín quy
hoạch xây dựng NT trên địa bàn cả nước, làm cơ sở để thực hiện mục tiêu Quốc
gia xây dựng NTM giai đoạn 2010-2020;
Thứ 2, về phát triển kinh tế- xã hội: tập trung đẩy mạnh phát triển hệ
thống hạ tầng KT-XH thiết yếu ở NT theo chuẩn mới, gồm giao thông; thủy lợi;
điện; trường học; cơ sở vật chất văn hóa; chợ nông thôn; bưu điện; nhà ở dân cư;
Thứ 3, về chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập: thu
nhập của dân cư NT tăng gấp trên 2,5 lần so với hiện nay;
Thứ 4, về giảm nghèo và an sinh xã hội: giảm tỷ lệ hộ nghèo dưới 5%;
Thứ 5, về đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở NT: đến
năm 2015 có 65% số xã đạt chuẩn và năm 2020 có 75% số xã đạt chuẩn;
Thứ 6, về phát triển giáo dục- đào tạo ở nông thôn: đến năm 2015 có 45%
số xã đạt chuẩn và đến năm 2020 có 80% số xã đạt chuẩn;
Thứ 7, về phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cư dân nông thôn: đến năm
2015 có 50% và 2020 có 75% số xã đạt chuẩn;
5
Thứ 8, về xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông nông
thôn: đến năm 2015 có 30% số xã có nhà văn hóa, thôn và 45% số xã có bưu
điện và điểm internet đạt chuẩn, năm 2020 có 75% số xã có nhà văn hóa xã thôn
và 70% có bưu điện và điểm internet đạt chuẩn;
Thứ 9, về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; đến năm 2015
có 35% số xã đạt chuẩn và 2020 có 80% số xã đạt chuẩn;
Thứ 10, về nâng cao chất lượng Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị xã
hội trên địa bàn: đến năm 2015 có 85% số xã đạt chuẩn và 2020 có 95% số xã
đạt chuẩn;
Thứ 11, về giữ vững an ninh trật tự xã hội nông thôn: đến năm 2015 có
85% xã đạt chuẩn và 2020 có 95% số xã đạt chuẩn.
6
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
2.1. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN
2.1.1. Thuận lợi
Tỉnh Quảng Nam thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ, gồm 18 huyện,
thành phố với 204 xã/213 xã thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới. Là tỉnh có nhiều tiềm năng về phát triển công nghiệp, dịch vụ,
nông lâm ngư nghiệp có giá trị kinh tế cao, đa dạng và phong phú; có vị trí chiến
lược trong an ninh quốc phòng và bảo vệ chủ quyền của đất nước. Đồng thời,
Quảng Nam còn có thế mạnh để phát triển du lịch thông qua khai thác cảnh quang
thiên nhiên, rừng, di tích văn hóa, di tích lịch sử và di sản văn hóa thế giới, di sản
đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số. Trong những năm qua, kinh tế chung cả
nước gặp nhiều khó khăn, nhất là tình trạng suy giảm của những năm gần đây; một
lần nữa, nông nghiệp, nông thôn tiếp tục khẳng định vai trò tạo sự ổn định kinh tế,
xã hội, chính trị của mình.
2.1.2. Những khó khăn, thách thức:
Tuy nhiên, do đặc điểm của địa hình phức tạp, là tỉnh có vùng nông thôn rộng
lớn, với 50% số huyện (9 huyện) là miền núi (trong đó, có 6 huyện nghèo thuộc
huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính
phủ), xuất phát điểm thấp về kết cấu hạ tầng và nguồn lực tại chỗ; nhiều địa
phương thường xuyên bị ảnh hưởng của bão, lũ, hạn hán; cơ cấu kinh tế chủ yếu
dựa vào sản xuất nông nghiệp nhưng hiệu quả còn hạn chế; kinh tế nông hộ với
quy mô sản xuất nhỏ lẻ đang là rào cản của sản xuất nông nghiệp hàng hóa, cạnh
tranh hội nhập, thiếu liên kết bền vững với doanh nghiệp; kết cấu hạ tầng, nhất là
giao thông, thủy lợi, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, bưu điện, chợ, nước
sạch,... ở nhiều xã còn thiếu và yếu. Cơ cấu kinh tế nông thôn, nội bộ ngành nông
nghiệp chuyển dịch chậm, tỷ lệ chăn nuôi còn thấp, tỷ trọng đóng góp của khoa học
công nghệ vào giá trị gia tăng nông sản không đáng kể; thu nhập của nhân dân ở
khu vực nông thôn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, khó khăn trong việc huy động sự đóng
góp cộng đồng dân cư để xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ
cấp huyện, cấp xã đều là kiêm nhiệm, ở cấp xã vừa yếu, vừa thiếu và năng lực hạn
chế, nhất là các xã miền núi, nên khó triển khai thực hiện những nội dung của
Chương trình xây dựng xã nông thôn mới.
7
2.2. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
2.2.1. Những kết quả đạt được:
Sau 05 năm (2011 – 2015) thực hiện Chương trình, với sự tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo quyết liệt của các cấp ủy Đảng; sự quản lý, điều hành của chính quyền, các
ngành, Hội, đoàn thể các cấp từ tỉnh đến xã, thôn; sự vào cuộc của hệ thống chính
trị và toàn xã hội; sự đồng tình ủng hộ và tham gia thực hiện của người dân; đặc
biệt là sự tập trung chỉ đạo quyết liệt của UBND tỉnh trong công tác quy hoạch xây
dựng xã nông thôn mới và nhiều nhiệm vụ trọng tâm khác, nên đã đạt được một số
kết quả đáng ghi nhận, tạo tiền đề cho việc triển khai thực hiện Chương trình đến
năm 2020 trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
2.2.1.1. Công tác chỉ đạo, điều hành quản lý Chương trình
Trong 5 năm (2011 - 2015), các Sở, ngành đã tham mưu Tỉnh uỷ, HĐND
tỉnh và UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản quan trọng để lãnh đạo, điều hành
Chương trình. Tỉnh ủy ban hành Chương trình hành động, 03 Nghị quyết và 02
Chỉ thị; trong đó, đáng chú ý là Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 01/9/2011 của
Tỉnh ủy về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (Khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn gắn với
thực hiện thắng lợi Chương trình; Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 24/4/2013 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy về việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt
Chương trình; HĐND tỉnh ban hành 19 nghị quyết chuyên đề; UBND tỉnh đã
ban hành 02 Chỉ thị, 103 Quyết định, 07 đề án và trên 81 văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn khác để triển khai thực hiện Chương trình trên địa bàn tỉnh Quảng Nam;
trong đó có những văn bản đáng chú ý mang tính đặc thù của địa phương như:
Quyết định quy định tỷ lệ hỗ trợ, mức hỗ trợ cụ thể từ ngân sách nhà nước các
cấp để xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn, phục vụ Chương trình;
Quyết định quy định đánh giá, xét công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới;
Quyết định ban hành quy định trình tự, thủ tục, hồ sơ xét công nhận và công bố
xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) trên địa bàn tỉnh; Quyết định ban hành suất
hỗ trợ từ ngân sách Trung ương, ngân sách tỉnh cho một số công trình; Quyết
định về tiêu chuẩn và hình thức khen thưởng phong trào thi đua “Chung sức xây
dựng nông thôn mới” giai đoạn 2011 - 2015, định hướng đến năm 2020; các
quyết định ban hành thiết kế mẫu, thiết kế điển hình các công trình, các quyết
định về cơ chế chính sách có liên quan đến Chương trình như hỗ trợ cơ giới hóa,
hỗ trợ giống cây trồng, con vật nuôi, dồn điền đổi thửa,...Các văn bản hướng dẫn
được UBND tỉnh ban hành kịp thời, đầy đủ, căn cứ trên các văn bản hướng dẫn
của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương và tình hình thực tế địa
phương.
8
- Các huyện, thị xã, thành phố và các xã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ
thị, Kế hoạch thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Các địa
phương đã tổ chức Hội nghị sơ kết hằng năm để đánh giá kết quả và triển khai
thực hiện Chương trình.
2.2.1.2. Công tác tuyên truyền, vận động
- Uỷ ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số 4016/UBND-KH ngày 03/11/
2011 về tổ chức phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 – 2015
và quy định tạm thời cơ chế khen thưởng thành tích thực hiện Chương trình; các
địa phương đã hưởng ứng thực hiện Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới” của Trung ương
và tỉnh phát động;
- Văn phòng Điều phối NTM tỉnh đã phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền
hình Quảng Nam mở chuyên mục “Xây dựng nông thôn mới” phát sóng định kỳ
hằng tuần vào lúc 19h50 - Thứ 2 (bản tin với thời lượng 5 phút) và lúc 18h10 Chủ nhật (chuyên đề với thời lượng 10 phút) và phát lại vào lúc 06h00 sáng ngày
hôm sau, qua đó thông tin tuyên truyền cho người dân về mục tiêu, ý nghĩa, nội
dung Chương trình, để người dân hiểu rõ được vai trò chủ thể của mình đối với
Chương trình, hiểu rõ được mục tiêu, phương châm của Chương trình đó là “Dân
biết, Dân bàn, Dân làm, Dân kiểm tra, Dân hưởng thụ”; thông qua các chuyên
mục, bản tin này đã cung cấp kịp thời cho người dân các văn bản của Trung ương,
của tỉnh về các cơ chế, chính sách của Chương trình để người dân kịp thời nắm
bắt, thực hiện; đồng thời thông tin, giới thiệu những mô hình hay, có hiệu quả
kinh tế cao đến với người dân để học hỏi, đúc rút kinh nghiệm và áp dụng vào
phát triển sản xuất nâng cao thu nhập cho kinh tế hộ gia đình.
- Xây dựng Cổng Thông tin điện tử Nông thôn mới của tỉnh tại địa chỉ
đã giúp cho cán bộ, đảng viên, người dân hiểu rõ về
Chương trình để tổ chức thực hiện (đến ngày 24/7/2015, có hơn 17,3 triệu lượt
người truy cập, bình quân từ 2.500 đến 3.000 lượt người truy cập/ngày); xây
dựng cơ sở dữ liệu để tích hợp lên Cổng Thông tin điện tử NTM của tỉnh, nhằm
giúp các địa phương thuận tiện trong việc cập nhật báo cáo định kỳ.
- Văn phòng Điều phối NTM tỉnh phối hợp với Công ty TNHH Tiềm
Năng Việt kêu gọi sự chung tay, hỗ trợ của các công ty, doanh nghiệp trong và
ngoài địa bàn tỉnh để xây dựng các băng rôn, pano,... góp phần thông tin tuyên
truyền đến người dân hiểu về Chương trình trên địa bàn tỉnh.
- Phối hợp với Báo Quảng Nam, Báo Nông thôn ngày nay, Báo Nông
nghiệp Việt Nam xây dựng chuyên mục nông thôn mới; các Đài Truyền thanh –
Phát lại Truyền hình huyện và truyền thanh xã đều có chuyên mục xây dựng
nông thôn mới trong các bản tin hằng ngày.
9
- Bản tin Tuyên giáo và Bản tin Thông báo nội bộ của Ban Tuyên giáo
Tỉnh ủy phát hành hằng tháng cũng đã phục vụ tích cực cho công tác tuyên
truyền xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.
- Cổng Thông tin điện tử của các Sở, Ban ngành và huyện, thị xã, thành
phố thường xuyên cập nhật, đưa những tin có liên quan đến Chương trình; trong
đó, điển hình như các Sở: Nông nghiệp và PTNT, Công Thương, Khoa học và
Công nghệ, Thông tin và Truyền thông, Xây dựng,…và các huyện: Thăng Bình,
Phú Ninh, Điện Bàn, Duy Xuyên,…
- Biên tập, phát hành trên 3.000 cuốn Sổ tay tuyên truyền cấp đến xã; các
hội đoàn thể cấp tỉnh, các huyện, xã cũng đã in hàng nghìn cuốn sổ tay, cẩm
nang, tờ rơi cấp phát đến tận các thôn, bản, hộ gia đình.
- Các cấp, các ngành từ tỉnh đến cơ sở đã tổ chức trên 100 hội nghị, hội thảo,
hội thi với chuyên đề: “Xây dựng nông thôn mới”. Trong đó, điển hình là ngành
Văn hóa - Thể thao và Du lịch, Nông nghiệp và PTNT, Công an, Đoàn Thanh niên,
… và có nhiều huyện đã tổ chức theo hình thức sân khấu hóa như Thăng Bình, Phú
Ninh, Điện Bàn,...; đã thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Trong 05 năm đã tổ
chức trên 1.100 đợt tuyên truyền với gần 500 ngàn lượt người tham gia (trong đó,
tổ chức tập huấn gần 450 lớp, với gần 25 ngàn lượt người tham dự).
- Ngoài ra, các cấp hội, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đã tổ chức tuyên truyền
bằng nhiều pano, appich, khẩu hiệu, bia tường,…; như các hội, đoàn thể: Nông
dân, Đoàn thanh niên, Cựu chiến binh tại huyện Thăng Bình đã phát động mỗi
thôn xây dựng 1 bia tường.
- Đã có trên 162 xã tổ chức Lễ phát động xây dựng NTM, với hàng ngàn
người dân ở mỗi xã tham dự. Tại buổi Lễ, Ban nhân dân các thôn đã ký giao ước thi
đua xây dựng NTM, tạo không khí thi đua sôi nổi trong toàn dân về Chương trình.
2.2.1.3. Công tác đào tạo, tập huấn
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức xã luôn được
quan tâm đầu tư, cụ thể:
+ Đào tạo lý luận chính trị: Tổng số công chức xã được đào tạo là 1.752
người. Trong đó cao cấp: 63 người; trung cấp: 1.689 người;
+ Đào tạo chuyên môn: Cử 1.219 cán bộ xã đi học chuyên môn; trong đó,
660 người học đại học; 470 người học trung cấp; 89 người học sơ cấp (công an);
+ Bồi dưỡng: Cử 11.656 người đi bồi dưỡng; trong đó bồi dưỡng kiến thức
và kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho 1.011 Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND, UBND
xã; bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng hoạt động cho 5.760 đại biểu HĐND cấp xã;
bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ cho 1.354 cán bộ xã...
10
- Tập huấn: Trên 600 lượt người tham gia các lớp tập huấn do Trung ương
tổ chức; tỉnh, huyện, xã đã tổ chức tập huấn 990 lớp, với hơn 402.600 lượt người
tham gia, gồm các nội dung liên quan đến nông thôn mới; tổng kinh phí trên 5,6
tỷ đồng. Các Sở, ngành đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn cho cán bộ làm công tác
xây dựng nông thôn mới cấp huyện, xã, như: Xây dựng (tiêu chí số 1, số 9),
Thống kê (tiêu chí số 10), Nông nghiệp và PTNT (tiêu chí số 3, số 13), Văn hóa
– Thể thao và Du lịch (tiêu chí số 16), Nội vụ (tiêu chí số 18), Công an (tiêu chí
số 19); Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Kho bạc Nhà nước tỉnh hướng dẫn về
công tác quản lý tài chính, xây dựng kế hoạch, thủ tục đầu tư; Hội Nông dân,
Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh tổ chức tập huấn, tuyên truyền về
nông thôn mới,…
2.2.1.4. Công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới
Tổng số xã trên địa bàn tỉnh có 213 xã, trong đó 9 xã UBND tỉnh đã thống
nhất không lập quy hoạch xây dựng xã NTM, vì đã có quy hoạch phát triển đô
thị, hoặc quy hoạch phát triển công nghiệp, các xã này lập quy hoạch sản xuất và
Đề án phát triển sản xuất (Đề án PTSX), nâng cao thu nhập cho người dân nông
thôn; như vậy, số xã còn lại lập quy hoạch xây dựng NTM là 204 xã. Tính đến
tháng 7/2015, có 202/204 xã (xã Tam Quang, xã Tam Anh Nam - huyện Núi Thành
chưa phê duyệt đồ án quy hoạch xây dựng xã NTM) hoàn thành công tác lập quy
hoạch, đạt 99,02%.
Dự kiến đến cuối năm 2015, hoàn thành công tác lập quy hoạch xây dựng
xã nông thôn mới cho 204 xã (204 xã/204 xã phê duyệt đồ án quy hoạch).
Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Trung ương, tỉnh đã biên soạn, tập
huấn hướng dẫn nội dung đề cương, các biểu mẫu và công tác thẩm định, phê
duyệt đề án xây dựng xã NTM (Đề án) cho tất cả các xã trên địa bàn tỉnh; qua
đó, các địa phương đã cụ thể hóa trên từng địa bàn xã, thực hiện các bước để
tiến hành lập, trình UBND cấp huyện phê duyệt, đến nay đã có 188 xã/204 xã
(đạt 92,15%) phê duyệt Đề án. Dự kiến đến cuối năm 2015, 100% số xã phê
duyệt Đề án xây dựng NTM.
2.2.1.5. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân
Hiện nay, có 155/204 xã đã phê duyệt đề án phát triển sản xuất (đạt 76%);
có hơn 250 mô hình phát triển sản xuất có hiệu quả; trong đó, các mô hình phát
triển sản xuất đang được nhân rộng, như: dồn điền, đổi thửa gắn với quy hoạch sản
xuất nông sản hàng hoá; mở rộng diện tích xây dựng cánh đồng mẫu, cánh đồng kỹ
thuật; theo đó, các HTXNN đã liên kết với các doanh nghiệp sản xuất và bao tiêu
sản phẩm cho nông dân (có khoảng 4.000 ha liên kết sản xuất lúa giống). Đây là
một giải pháp quan trọng, lâu dài góp phần tái cơ cấu ngành nông nghiệp, nâng cao
giá trị gia tăng và phát triển bền vững, xây dựng thành những vùng sản xuất chuyên
11
canh tập trung, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng cơ giới hoá trong quá trình
sản xuất.
Tiếp tục thực hiện cơ chế hỗ trợ khuyến khích phát triển hợp tác xã (HTX),
các địa phương tạo điều kiện hình thành và phát triển các tổ hợp tác (THT), HTX
để liên kết với các doanh nghiệp để sản xuất nông sản hàng hoá gắn sản xuất với
tiêu thụ sản phẩm; từng bước đổi mới, củng cố và phát triển kinh tế tập thể.
Công tác hỗ trợ, đào tạo nghề gắn với nhu cầu tuyển dụng lao động của
doanh nghiệp và đào tạo nghề cho lao động nông thôn đang được triển khai tích
cực. Trong 05 năm qua, đã tổ chức đào tạo cho trên 13.924 người lao động khu vực
nông thôn học nghề góp phần tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo.
Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2014 đạt: 20,166
triệu đồng/người/năm, tăng gần 10 triệu đồng/người/năm so với năm 2010 và tỷ
lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 12,10% (giảm 12,08% so với năm 2010). Phấn đấu đến
cuối năm 2015, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 21,108
triệu đồng/người/năm và tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 9,50%. Tuy nhiên, mức thu
nhập của hộ nông thôn miền núi và bộ phận nông dân nghèo còn thấp, đời sống còn
rất khó khăn; khả năng tái nghèo xảy ra khi gặp thiên tai, dịch bệnh là rất cao. Tỷ lệ
hộ nghèo toàn tỉnh giảm 9,28%, từ 24,18% năm 2010 giảm còn 14,91% năm 2013,
tuy nhiên không đồng đều của các khu vực nông thôn và đặc biệt là khu vực các
huyện miền núi. Đến nay, đã có 50 xã đạt tiêu chí hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 24,3% .
Tuy đã có nhiều kết quả nổi bật trong phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập
cho người dân nhưng còn nhiều tồn tại, hạn chế như: công tác chọn mô hình để
phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn còn lúng túng, làm theo
phong trào chứ chưa có chiến lược lâu dài; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp,
ngành nghề nông thôn, thương mại dịch vụ, nhìn chung phát triển còn chậm; doanh
nghiệp chưa đầu tư mạnh vào nông nghiệp, nông thôn; HTX, hộ nông dân, chủ
trang trại vẫn khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng; quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, năng
suất, sản lượng một số cây trồng, con vật nuôi chưa cao, hiệu quả thấp; chuyển
dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa rõ nét; chưa khai thác tốt tiềm năng đất đai,
lao động; kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội đã được đầu tư nhưng còn thiếu và yếu
so với nhu cầu phát triển, nhất ở các xã miền núi; ứng dụng khoa học công nghệ,
thay đổi giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất còn nhiều hạn chế, các vùng
nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến còn phân tán, vận chuyển nông, lâm
sản còn nhiều khó khăn…
2.2.1.6. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn
Với nguồn vốn Chương trình của Trung ương, của tỉnh và lồng ghép các
nguồn vốn từ các chương trình, dự án, các địa phương đã xây dựng, nâng cấp các
công trình thiết yếu phục vụ sản xuất, dân sinh, như: bê tông hoá, cứng hoá giao
12
thông nông thôn, giao thông nội đồng và bảo trì hàng ngàn km tại các tuyến đường
ĐH, ĐX; kiên cố hóa kênh mương thủy lợi, xây mới, sửa chữa, nâng cấp hàng chục
công trình thủy lợi; xây dựng, nâng cấp hàng chục trường học, trạm y tế đạt chuẩn;
xây dựng, nâng cấp các công trình điện; xây dựng nhà văn hóa xã, nhà văn hóa
thôn. Nhờ đó, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn được phát triển đáng kể,
góp phần hoàn thành các tiêu chí nông thôn mới.
2.2.1.7. Giáo dục, y tế, văn hóa - xã hội - môi trường:
- Về tiêu chí giáo dục: Trong những năm qua công tác giáo dục và đào tạo
đã có bước chuyển mạnh mẽ về nhiều mặt, như: Mạng lưới trường lớp ngày càng
đa dạng, rộng khắp và từng bước được sắp xếp phù hợp với khung hệ thống giáo
dục quốc dân, cơ bản đáp ứng được đại bộ phận nhu cầu học tập của con em vùng
nông thôn. Công tác xóa mù chữ và phổ cập giáo dục đã được chú trọng; cơ sở vật
chất trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học được tăng cường, chất lượng giáo dục
được cải thiện. Đến nay, đã có 92 xã đạt chuẩn tiêu chí giáo dục, chiếm 45%.
- Về tiêu chí y tế: Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ có sự phát triển toàn
diện, ngày càng đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân; cơ sở, trang thiết
bị, cán bộ y tế, chất lượng khám chữa bệnh, tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế
tăng hàng năm. Đầu tư xây dựng mới 27 trạm y tế xã và sửa chữa 27 trạm y tế xã,
với tổng kinh phí là 93.695 triệu đồng; năm 2013, tỷ lệ người dân tham gia các
hình thức bảo hiểm y tế là 78%. Đã có 69 xã đạt chuẩn tiêu chí y tế, chiếm 33,6%.
- Về tiêu chí văn hóa: Các huyện, thành phố đã xây dựng kế hoạch và tổ
chức triển khai thực hiện phong trào văn hóa; các địa phương tổ chức Đại hội thể
dục - thể thao, gắn với phát động xây dựng xã nông thôn mới; tổ chức nhiều hội
thảo, hội nghị về xây dựng đời sống văn hóa gắn với xây dựng nông thôn mới,…
Hiện nay, đang tham mưu UBND tỉnh trình HĐND tỉnh Đề án hỗ trợ cho các thiết
chế văn hóa cơ sở. Đến nay, đã có 50 xã đạt tiêu chí văn hóa, chiếm 24,3 %.
- Môi trường: hiện nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 76% số xã có điểm thu
gom rác thải sinh hoạt; tỷ lệ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh toàn tỉnh đến năm
2013 đạt 83,54%, dự kiến đến năm 2015 đạt khoảng 85%; với trên 61,5% số xã có
công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; đã có 54 xã đạt chuẩn tiêu chí môi trường,
chiếm 26,3%.
2.2.1.8. Hệ thống tổ chức chính trị xã hội và an ninh, trật tự xã hội
- Hệ thống tổ chức chính trị xã hội: Tổng số cán bộ, công chức cấp xã là
4.245 người/205 xã (bình quân số cán bộ, công chức là 21 người/xã, không kể bán
chuyên trách); cấp thôn 6.851 người/1.499 thôn (bình quân 5 người/thôn); đã có
121 xã đạt tiêu chí hệ thống tổ chức chính trị xã hội, đạt 58,5%.
- An ninh, trật tự xã hội: Ngành công an tỉnh, huyện đã xây dựng kế hoạch
và phối hợp với các ngành liên quan, các địa phương tổ chức thực hiện nhiệm vụ an
13
ninh trật tự giai đoạn 2010 – 2020; trong đó, nhiều mô hình đem lại hiệu quả thiết
thực trong công tác đảm bảo an ninh trật tự. Trong 05 năm qua, Công an toàn tỉnh
đã phối hợp tổ chức trên 4.765 cuộc vận động, tuyên truyền cho 781.207 lượt
người tham dự. Qua đó, quần chúng đã cung cấp cho lực lượng Công an 2.527 tin
có giá trị giúp cho lực lượng Công an điều tra, khám phá và xử lý kịp thời các vụ
việc xảy ra, mang lại hiệu quả tích cực. Toàn tỉnh hiện có 215 trưởng Công an xã,
286 Phó trưởng Công an xã và 1.799 Công an viên. Đội ngũ này được quan tâm
thực hiện chế độ chính sách, trang bị phương tiện, bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp vụ
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ và
giữ gìn ANTT ở cơ sở, góp phần thực hiện tốt tiêu chí an ninh trật tự. Đến nay, đã
có 191 xã đạt tiêu chí an ninh trật tự xã hội, chiếm 92,7%.
* Tổng hợp kết quả thực hiện tiêu chí nông thôn mới:
a) Kết quả thực hiện đến ngày 31/8/2015
Bình quân chung tiêu chí đạt chuẩn của tỉnh (204 xã) là 10,17 tiêu chí/xã,
tăng 1,49 tiêu chí/xã so với thời điểm cuối năm 2014 (cuối năm 2014 là 8,68 tiêu
chí/xã); chia ra như sau:
- Nhóm 1 (đạt chuẩn nông thôn mới): 36 xã (chiếm 17,65%), trong đó:
+ Có 10 xã đã được công nhận vào cuối năm 2014;
+ Có 8 xã đạt 19 tiêu chí(1) đã được tỉnh thẩm định các tiêu chí NTM;
+ Có 12 xã đạt 19 tiêu chí(2) đã gửi hồ sơ, thủ tục về VPĐP NTM tỉnh đề
nghị thẩm định các tiêu chí NTM;
+ Có 6 xã tự đánh giá đạt 19 tiêu chí (3), đang trong quá trình hoàn thiện hồ
sơ gửi huyện thẩm tra và để đề nghị tỉnh thẩm định;
- Nhóm 2 (từ 15 - 18 tiêu chí): 18 xã (chiếm 8,82 %);
- Nhóm 3 (từ 10 - 14 tiêu chí): 40 xã (chiếm 19,61 %);
- Nhóm 4 (từ 05 - 09 tiêu chí): 76 xã (chiếm 37,25 %);
- Nhóm 5 (dưới 05 tiêu chí): 34 xã (chiếm 16,67%).
Đến ngày 31/8/2015, bình quân số tiêu chí đạt chuẩn của 46 xã đăng ký
đạt chuẩn NTM năm 2015 là 17,39 tiêu chí/xã, tăng bình quân 3,15 tiêu chí/xã
so với thời điểm cuối năm 2014.
Năm 2010 có 25 xã chưa đạt tiêu chí nào (xã trắng tiêu chí), đến tháng
8/2013 không còn xã trắng tiêu chí.
1()
Các xã Bình Giang, Bình Chánh, Bình Định Bắc (huyện Thăng Bình); xã Quế Xuân 1 (huyện Quế
Sơn); các xã Duy Sơn, Duy Phước, Duy Hòa, Duy Trinh (huyện Duy Xuyên).
2()
Các xã Tam Ngọc, Tam Thăng (TP.Tam Kỳ); các xã Tam Đàn, Tam Thái, Tam Vinh (huyện Phú
Ninh); các xã Điện Phước, Điện Thọ, Điện Hồng (Thị xã Điện Bàn); các xã Đại Hồng, Đại An (huyện
Đại Lộc); xã Ba (huyện Đông Giang); xã Tiên Phong (huyện Tiên Phước).
3()
Các xã Tam Dân, Tam Đại (huyện Phú Ninh); các xã Điện Hòa, Điện Thắng Bắc, Điện Thắng
Trung, Điện Thắng Nam (Thị xã Điện Bàn).
14
Theo số liệu báo cáo của các địa phương, cuối năm 2014, toàn tỉnh có đến
48 xã đạt dưới 5 tiêu chí, nhưng đến tháng 8/2015, còn 34 xã đạt dưới 5 tiêu chí,
giảm được 14 xã dưới 5 tiêu chí so với cuối năm. Trong đó, các huyện đã giảm
số xã đạt dưới 5 tiêu chí: Núi Thành (giảm 2 xã), Phước Sơn (giảm 5 xã), Hiệp
Đức (giảm 1 xã), Tiên Phước (giảm 1 xã), Nam Giang (giảm 2 xã), Bắc Trà My
(giảm 3 xã).
b) Dự kiến kết quả thực hiện đến cuối năm 2015
- Có 01 huyện (huyện Phú Ninh) đạt chuẩn huyện nông thôn mới và 01 thị
xã (thị xã Điện Bàn) hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM.
- Số xã đạt chuẩn nông thôn mới: 46 xã, nâng tổng số xã đạt chuẩn giai
đoạn 2011 - 2015 là 56 xã, đạt tỷ lệ 27,31% số xã; đảm bảo hoàn thành mục tiêu
đã đề ra tại Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính
phủ về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010-2020 (20% số xã).
- Số xã đạt 15 - 18 tiêu chí: 18 xã (các xã này phấn đấu đạt chuẩn nông
thôn mới giai đoạn 2016 - 2017).
- Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân chung của toàn tỉnh năm 2015 (204 xã):
11-12 tiêu chí/xã, tăng 2 - 3 tiêu chí/xã so với năm 2014.
- Số xã đạt dưới 5 tiêu chí: Phấn đấu còn dưới 5% số xã (10 xã).
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế:
- Công tác thông tin tuyên truyền của các cấp chưa được thường xuyên, rộng
khắp, nội dung chưa được phong phú; trên một số lĩnh vực, công tác tuyên truyền
chưa mang lại những chuyển biến tích cực. Vai trò chủ thể của người dân trong xây
dựng nông thôn mới chưa được phát huy cao; một bộ phận cán bộ và nhân dân còn
biểu hiện tư tưởng trông chờ, ỷ lại. Sự “chung sức, chung lòng” xây dựng nông
thôn mới đã được phát động, tuyên truyền, nhưng việc thể hiện bằng các hành động
cụ thể còn nhiều hạn chế;
- Trong chỉ đạo xây dựng nông thôn mới còn nặng về xây dựng cơ bản, chưa
tập trung cao cho việc tổ chức chỉ đạo sản xuất; công tác lập và phê duyệt Đề án
xây dựng xã nông thôn mới còn chậm; Đề án của một số xã chưa đánh giá đúng
thực trạng, nhiệm vụ đề ra chưa đảm bảo tính khả thi, chưa thể hiện được sự phát
huy nội lực, còn tâm lý dựa vào sự hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước; công tác thực hiện
việc giải ngân vốn của Chương trình chưa kịp thời.
- Bộ mặt nông thôn qua 05 năm triển khai thực hiện Chương trình tuy có
chuyển biến, nhất là ở 60 xã điểm, nhưng chưa thật rõ nét; vệ sinh môi trường nông
thôn nhiều nơi còn ô nhiễm; cải tạo vườn tạp, chỉnh trang vườn nhà còn hạn chế;
một số tệ nạn xã hội ở nông thôn vẫn còn diễn ra...;
15
- Bình quân số tiêu chí nông thôn mới đạt chuẩn trên một xã còn thấp: 10,17
tiêu chí/xã và hiện có 34 xã tại các huyện miền núi mới chỉ đạt chuẩn dưới 5 tiêu
chí/xã;
- Nguồn vốn ngân sách tỉnh hỗ trợ đầu tư cho Chương trình hạn chế, vốn
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM của Trung ương phân bổ còn thấp;
chậm ban hành cơ chế và giải pháp lồng ghép các nguồn vốn các chương trình, dự
án đầu tư vào Chương trình;
- Công tác báo cáo, thông tin chưa đảm bảo, nhiều địa phương, nhiều ngành
không gửi báo cáo theo quy định (định kỳ, đột xuất) hoặc có gửi nhưng không đảm
bảo nội dung theo yêu cầu của trung ương, của tỉnh dẫn đến không cập nhật được
thông tin, làm trở ngại cho công tác điều hành, chỉ đạo chung cũng như chậm tham
mưu UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo tỉnh báo cáo cho Ban Chỉ đạo Trung ương.
2.2.3. Nguyên nhân đạt được, nguyên nhân hạn chế:
2.2.3.1. Nguyên nhân đạt được
- Có sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng; sự quản lý, điều
hành của chính quyền, các ngành và hội đoàn thể các cấp, từ tỉnh đến xã, thôn
trong việc triển khai thực hiện Chương trình; sự vào cuộc của hệ thống chính trị và
toàn xã hội, nhất là tỉnh đã tập trung chỉ đạo quyết liệt trong công tác quy hoạch
xây dựng xã nông thôn mới và nhiều nhiệm vụ trọng tâm khác. Bước đầu, người
dân thể hiện được vai trò chủ thể của mình khi tham gia xây dựng nông thôn mới.
- Ban Chỉ đạo các cấp tuy hoạt động kiêm nhiệm, nhưng đã bố trí, sắp xếp
thời gian để kiểm tra, chỉ đạo công tác nông thôn mới ở các địa phương được phân
công phụ trách; một số thành viên Ban Chỉ đạo cấp tỉnh đã gắn chức năng, nhiệm
vụ của đơn vị mình, ngành mình với nội dung các tiêu chí xây dựng xã nông thôn,
để phối hợp với các địa phương trong chỉ đạo thực hiện hoàn thành các tiêu chí.
- Công tác thông tin tuyên truyền, đào tạo, tập huấn hướng dẫn nhằm nâng
cao nhận thức, nâng cao trình độ và kỹ năng về công tác xây dựng nông thôn mới
được chú trọng hơn. Nhờ vậy, đã tạo được sự chuyển biến về nhận thức và sự
hưởng ứng tích cực trong cán bộ, đảng viên, nhân dân trong việc thực hiện Chương
trình.
- Đã tập trung huy động, lồng ghép các nguồn vốn để nâng cấp, xây dựng mới
các công trình thiết yếu phục vụ sản xuất, dân sinh tại địa bàn các xã, nhất là các xã
phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2015; tập trung ưu tiên nguồn lực cho
phát triển sản xuất, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, liên kết sản
xuất để hỗ trợ thúc đẩy sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập cho hộ cư dân nông thôn.
2.2.3.2. Nguyên nhân
16
hạn chế
- Tỉnh Quảng Nam có 6 huyện miền núi cao (tỷ lệ hộ nghèo trên 50%), điểm
xuất phát thấp, thu nhập của người dân khu vực nông thôn còn ở mức thấp, tỷ lệ hộ
nghèo cao; trong khi đó, kết cấu hạ tầng nông thôn (giao thông, thủy lợi, trường,
trạm y tế, nước sạch nông thôn,…) còn nhiều yếu kém, nhưng do ngân sách tỉnh
hạn hẹp nên những năm qua vốn đầu tư hỗ trợ trực tiếp cho Chương trình chưa đáp
ứng yêu cầu. Hơn nữa, trình độ, năng lực cán bộ ở cấp cơ sở còn nhiều hạn chế
chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng nông thôn mới;
- Nhiều đơn vị đã được UBND tỉnh, Ban Chỉ đạo tỉnh giao nhiệm vụ nhưng
việc triển khai thực hiện chậm; một số thành viên Ban Chỉ đạo tỉnh chưa thể hiện
đầy đủ trách nhiệm được phân công (chưa xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể
để hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện các tiêu chí thuộc ngành mình quản lý; chưa thông
tin và đề xuất kịp thời các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc...). Công tác chỉ
đạo, điều hành của BCĐ một số địa phương chưa thật sự tập trung, thiếu quyết liệt,
không cụ thể; sự phối hợp triển khai Chương trình ở các cấp chưa đồng bộ, thiếu
gắn kết, nhất là sự phối hợp của một số phòng, ban chuyên môn cấp huyện trong
công tác chỉ đạo, hướng dẫn nói chung, nhất là triển khai thực hiện công tác quy
hoạch xây dựng xã NTM trong thời gian qua.
- Ban Quản lý xây dựng nông thôn mới của nhiều xã chưa chủ động xây dựng
kế hoạch hằng năm, trung hạn để tổ chức thực hiện Chương trình, như Thông tư
liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 13/4/2011 của các Bộ
đã quy định.
- Một số văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của các Bộ, ngành TW, của tỉnh chậm
ban hành, hoặc chưa ban hành nên các địa phương đã lúng túng trong việc tổ chức
thực hiện Chương trình.
- Ban Chỉ đạo, bộ máy giúp việc Ban Chỉ đạo các cấp (tỉnh, huyện, xã) hầu
hết là kiêm nhiệm, nên hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế.
17
CHƯƠNG 3:PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
3.1.1. Phương hướng xây dựng nông thôn mới của tỉnh Quảng Nam
Thứ nhất; Xây dựng nông thôn mới phải thực hiện kiên trì, thường xuyên, liên
tục, bền bỉ, không nóng vội; mục tiêu xây dựng nông thôn mới là phục vụ cho nhân
dân, là sự nghiệp của dân, do dân làm, vì vậy cần phát huy vai trò làm chủ của
người dân trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn
mới.
Thứ hai; Phát triển nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ là nhiệm vụ chiến
lược có tầm quan trọng lâu dài đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội của
tỉnh Quảng Nam. Phát triển nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ phải gắn liền
với sự phát triển nông thôn theo hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
và nông thôn trên từng địa bàn, từng vùng cụ thể, gắn với phân công lại lao động
tại chỗ theo hướng chuyển dần lao động nông nghiệp sang làm các ngành nghề
phi nông nghiệp, tăng thêm việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân
dân, gắn liền với xây dựng nông thôn mới, gắn nông thôn với thành thị, gắn
nông nghiệp với công nghiệp, góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế xã hội lâu dài trên địa bàn.
Thứ ba; Phát triển kinh tế nông nghiệp – công nghiệp đa dạng, gắn bó hữu
cơ giữa nông nghiệp với lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên từng vùng cụ
thể, gắn sản xuất với chế biến công nghiệp, dịch vụ nông thôn. Cùng với sự phát
triển sản xuất, yêu cầu cấp bách đối với kinh tế huyện là phải phát triển chế biến
hàng nông – lâm – thủy sản với qui mô, phẩm chất và trình độ công nghệ khác
nhau, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng
hóa, nâng cao đời sống nhân dân góp phần xây dựng NTM.
Thứ tư; Phát triển nông nghiệp hàng hóa theo hướng CNH, HĐH phải lấy
khoa học kỹ thuật và công nghệ làm nền tảng, gắn với phát triển toàn diện về thể
chất và trình độ của người lao động nông nghiệp, nâng cao dân trí nông thôn,
tăng cường bố trí hợp lý lực lượng trí thức (kỹ sư, bác sĩ, giáo viên) làm việc ở
nông thôn bằng chế độ chính sách khuyến khích thỏa đáng và cả bằng những qui
định bắt buộc.
Thứ năm; Phát triển nông nghiệp có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao,
đáp ứng tiêu dùng xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Hiệu quả của phát triển nông nghiệp hàng hóa phải lấy giá trị làm thước đo chủ
yếu, về mặt xã hội phải xây dựng được công bằng tương đối. Ngoài ra, phải gắn
18
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ thiên nhiên, môi trường, đảm bảo sự phát triển
bền vững của nông nghiệp và nông thôn.
Thứ sáu; Hệ thống các vấn đề văn hóa – xã hội phải đáp ứng yêu cầu nâng
cao thể lực, trí lực, nhân cách của con người, hướng tới và tạo ra những điều
kiện nhằm xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp.
3.1.2. Mục tiêu
3.1.2.1. Mục tiêu chung
Xây dựng NTM nhất thiết phải có cái mới, diện mạo mới, đời sống mới và
đặc biệt là đời sống của người dân được nâng lên cả về vật chất lẫn tinh thần.
3.1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Phấn đấu giai đoạn 2016-2020, có 55 xã đạt chuẩn nông thôn mới và duy trì
56 xã dự kiến đạt chuẩn NTM, giai đoạn 2011-2015, nâng tổng số xã đạt chuẩn
NTM giai đoạn 2016-2020 là 111 xã, chiếm 54% số xã triển khai Chương trình nông
thôn mới, đảm bảo mục tiêu quy định tại Quyết định số 800/QĐ-TTg, cụ thể: Năm
2016: có 5 xã đạt chuẩn, nâng tổng số xã đạt chuẩn lên 61 xã; Năm 2017: có 15 xã
đạt chuẩn, nâng tổng số xã đạt chuẩn lên 76 xã; Năm 2018: có 13 xã đạt chuẩn, nâng
tổng số xã đạt chuẩn lên 89 xã; Năm 2019: có 09 xã đạt chuẩn, nâng tổng số xã đạt
chuẩn lên 98 xã; Năm 2020: có 13 xã đạt chuẩn, nâng tổng số xã đạt chuẩn lên 111
xã (chiếm 54% tổng số xã).
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
3.2.1. Về công tác tuyên truyền, đào tạo, tập huấn
- Các cấp, các ngành từ tỉnh đến xã, thôn tiếp tục quán triệt và tổ chức triển
khai thực hiện tốt Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 15/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ
về việc tăng cường chỉ đạo thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn
mới; Chỉ thị số 30-CT/TU ngày 24/4/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tăng
cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Chương trình MTQG xây dựng nông thôn
mới; cấp uỷ, chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị các cấp phải trực tiếp chỉ đạo
và chịu trách nhiệm kết quả thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn
mới trên từng lĩnh vực, địa bàn quản lý. Chú trọng đẩy mạnh công tác thông tin,
tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, với nhiều hình thức phong
phú, thiết thực. Coi công tác vận động, tuyên truyền xây dựng NTM là nhiệm vụ
quan trọng, thường xuyên của các cấp ủy, chính quyền, các ngành, Mặt trận và các
đoàn thể ở mỗi địa phương; người đứng đầu cấp uỷ và chính quyền các cấp phải
trực tiếp chỉ đạo và chịu trách nhiệm về triển khai thực hiện Chương trình như Thủ
tướng đã chỉ đạo tại Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 15/7/2014. Công tác vận động,
19
tuyên truyền trong thời gian đến là phải lấy hình ảnh, kết quả đạt được, những kinh
nghiệm tốt, cách làm hay ở mỗi địa phương để nhân ra diện rộng; phát huy vai trò
của người có uy tín ở địa phương, Già làng, Trưởng bản trong việc vận động người
dân chung tay xây dựng nông thôn mới.
- Thực hiện tốt công tác đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ xây
dựng nông thôn mới các cấp; Các Sở, ngành theo chức năng nhiệm vụ được giao,
xây dựng kế hoạch đào tạo, tập huấn hướng dẫn các địa phương trong việc thực
hiện các nội dung xây dựng nông thôn mới do mình phụ trách; trong đó, tập trung
tập huấn, hướng dẫn các văn bản mới được Trung ương, tỉnh ban hành.
- Thực hiện có hiệu quả chương trình phối hợp trong xây dựng nông thôn
mới giữa cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo các cấp với các Hội, đoàn thể.
3.2.2. Chỉ đạo công tác lập quy hoạch và thực hiện Đề án nông thôn mới,
Đề án Phát triển sản xuất và đào tạo nghề cho lao động nông thôn
- Quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới: Tập trung thực hiện tốt công tác
quản lý quy hoạch (công bố, cắm mốc chỉ giới, ban hành quy định quản lý quy
hoạch,…) theo quy định tại Thông tư liên tịch số: 13/2011/TTLT-BXD-BNN
PTNT-BTNMT, Quyết định số 2894/QĐ-UBND ngày 07/9/2012 của UBND tỉnh;
kiểm tra, rà soát, bổ sung, điều chỉnh các nội dung quy hoạch, nhất là nội dung quy
hoạch sản xuất cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Xây dựng và hoàn chỉnh Đề án xã nông thôn mới: Các xã đã phê duyệt Đề
án xây dựng nông thôn mới trước khi phê duyệt Đồ án quy hoạch, thì cần đối chiếu
để trình UBND huyện, thành phố phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề án cho phù
hợp. Ngoài ra, việc điều chỉnh Đề án cần gắn với xây dựng kế hoạch trung hạn, giai
đoạn 2016-2020.
- Tập trung chỉ đạo thực hiện Đề án phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho cư
dân nông thôn đã được UBND cấp huyện phê duyệt; trong đó, chú trọng sử dụng
vốn PTSX từ Chương trình để thực hiện Đề án PTSX;
- Đào tạo nghề cho lao động nông thôn: tiếp tục triển khai Đề án Đào tạo
nghề cho lao động nông thôn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 được ban hành tại
Quyết định số 494/QĐ-UBND ngày 15/02/2011 của UBND tỉnh; khi triển khai đào
tạo nghề cần nghiêm túc quán triệt và thực hiện nguyên tắc: “Không tổ chức dạy
và học khi không dự báo được nơi làm việc và mức thu nhập với việc làm có được
sau khi học”.
3.2.3. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, áp dụng KHCN vào sản xuất
- Đẩy mạnh chỉ đạo phát triển sản xuất, chuyển đổi mạnh cơ cấu sản xuất.
Các huyện đồng bằng tiếp tục đẩy mạnh công tác dồn điền, đổi thửa đất nông
20
nghiệp gắn với quy hoạch sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển hàng hóa,
đảm bảo tính bền vững; chuyển dịch mạnh cơ cấu nội bộ ngành theo hướng tăng tỷ
trọng chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; tiếp tục đẩy mạnh áp dụng cơ giới hoá,
giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất nông nghiệp; nhân rộng các mô hình
cánh đồng lớn, những vùng sản xuất chuyên canh tập trung. Các huyện miền núi
cần chú trọng đẩy mạnh việc ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học-kỹ thuật,
thực hiện tốt Đề án phát triển sản xuất nông, lâm sản góp phần giảm nghèo khu vực
miền núi tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2014-2016 và định hướng đến năm 2020 tại
Quyết định số 2905/QĐ-UBND ngày 24/9/2013 của UBND tỉnh; thực hiện có hiệu
quả các chính sách hỗ trợ giảm nghèo cho miền núi như: chương trình 30a, 135,
chính sách hỗ trợ di dân cho đồng bào dân tộc thiểu số (Quyết định số
33/2007/QĐ-TTg), chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt
cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn (Quyết định số
1592/QĐ-TTg), chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng
khó khăn (theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg)...; đẩy mạnh việc nâng cao nhận
thức, trách nhiệm và khuyến khích người dân vươn lên thoát nghèo bền vững;
- Triển khai đồng bộ kế hoạch hành động thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững theo
Quyết định số 2257/QĐ-UBND ngày 20/8/2013 của UBND tỉnh;
- Các xã cần xác định ít nhất một sản phẩm chủ lực, có ưu thế ở địa phương
(cây trồng, con vật nuôi, ngành nghề …) để phát triển sản xuất hàng hóa, trước mắt
tập trung vào những ngành hàng mà xã đang làm, có lợi thế cạnh tranh và có thị
trường ổn định; đẩy mạnh phát triển các ngành nghề truyền thống, ngành nghề
nông thôn, tiểu thủ công nghiệp, các mặt hàng gia công, chế biến nông lâm thủy
sản; tạo mọi điều kiện khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn như quy định tại Nghị định số 210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 của Chính
phủ; trong đó, trọng tâm là khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp sử dụng nhiều lao động như may mặc, giày da, mây tre lá, chế biến
nông, lâm, thủy sản về khu vực nông thôn.
- Củng cố và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với điều kiện
của địa phương, trong đó phấn đấu năm 2014, các xã điểm đều có các hình thức tổ
chức sản xuất phù hợp; mở rộng phương thức liên kết, liên doanh giữa doanh
nghiệp với HTX, nông hộ, nhằm giải quyết “đầu vào, đầu ra” cho sản xuất theo
Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ;
- Đẩy mạnh áp dụng các thành tựu khoa học, công nghệ vào sản xuất; triển
khai thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Quảng
21
Nam đến 2015, tầm nhìn 2020 (theo Nghị quyết 58/2006/NQ-HĐND tỉnh ngày
20/7/2006 của HĐND tỉnh Quảng Nam).
- Tổng kết đánh giá các mô hình sản xuất mới, có hiệu quả để nhân ra diện
rộng ; đẩy mạnh sản xuất nông sản hàng hóa thông qua việc liên kết, liên doanh
xây dựng cánh đồng lớn; tập trung đẩy mạnh việc ứng dụng và chuyển giao các
tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Đây được xem là giải pháp hàng đầu, quyết
định đến tăng năng suất và chất lượng nông sản, giảm giá thành sản phẩm, tăng thu
nhập cho cư dân nông thôn.
3.2.4. Tập trung tạo sự chuyển biến về văn hoá -xã hội và môi trường
- Giáo dục: nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, gắn giáo dục đào tạo với
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; thực hiện tốt Đề án Quy hoạch phát triển
GD&ĐT tỉnh đến năm 2020; lồng ghép vốn từ nhiều chương trình, dự án và xã hội
hóa đầu tư để tiếp tục tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho giáo dục; thực hiện tốt
Đề án kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ giáo viên.
- Y tế: vận động người dân tham gia các loại hình BHYT; thực hiện tốt Quy
hoạch phát triển sự nghiệp y tế đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2025. Đồng
thời, đầu tư hỗ trợ kinh phí để sửa chữa, mua sắm thiết bị cần thiết phục vụ công
tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, từng bước chuẩn hóa Trạm Y tế xã.
- Văn hóa: tiếp tục chỉ đạo hoàn thiện các thiết chế văn hóa ở nông thôn, đầu
tư cơ sở vật chất phục vụ việc tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng;
- Thông tin, truyền thông nông thôn: tổ chức thực hiện tốt Đề án Phát triển
hệ thống điểm Bưu điện văn hóa xã đảm bảo cung cấp thông tin cộng đồng phục vụ
xây dựng nông thôn mới đến năm 2020. Thông qua đề án này, tiếp tục chủ trương
lồng ghép việc duy trì hoạt động các điểm BĐVHX với việc nâng cao chất lượng
các điểm phục vụ bưu chính, viễn thông, cung cấp thông tin cần thiết phục vụ xây
dựng nông thôn mới.
- Nhà ở dân cư: triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nhà
ở người có công theo Quyết định số 22/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ; xây
dựng và triển khai thực hiện Đề án xây dựng một số nhà trú bão, lụt cộng đồng ở
những vùng xung yếu, Chương trình phát triển nhà ở tỉnh Quảng Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Môi trường: Triển khai xây dựng đồng bộ hệ thống quản lý, thu gom, xử lý
rác thải các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh nhằm kiểm soát ô nhiễm, bảo vệ môi
trường, sức khỏe người dân. Thực hiện có hiệu quả Đề án quản lý chất thải rắn các
vùng nông thôn tỉnh Quảng Nam đến năm 2020 của UBND tỉnh Quảng Nam. Đảm
bảo 100% người dân được truyền thông để nâng cao nhận thức trong công tác bảo
vệ môi trường.
22
3.2.5. Nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu
Căn cứ vào định hướng trong quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới và
Đề án NTM, chỉ đạo các địa phương lựa chọn để ưu tiên làm trước các công
trình cơ sở hạ tầng thiết yếu cấp xã, tập trung phát triển các công trình ở thôn
trực tiếp gắn với phát triển sản xuất, đời sống hàng ngày của người dân phù hợp
với quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới (như công trình thủy lợi, giao thông,
điện, nước sạch, trường học, y tế,...). Đối với các công trình quy mô nhỏ, kỹ
thuật đơn giản thì áp dụng thiết kế mẫu, thiết kế điển hình và giao cho cộng
đồng dân cư tự thực hiện theo Thông tư số 03/2013/TT-BKHĐT ngày 07/8/2013
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Quyết định số 498/QĐ-TTg
ngày 21/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ và Công văn số 3111/UBND-KTN
ngày 19/8/2013 của UBND tỉnh.
3.2.6. Huy động nguồn lực
- Chỉ đạo các xã rà soát lại các Đề án nông thôn mới đã được phê duyệt để
đảm bảo tình hình thực tế huy động nguồn lực hiện nay, gắn với việc xây dựng kế
hoạch trung hạn, giai đoạn 2016-2020; Lồng ghép tốt các nguồn vốn từ các chương
trình, dự án khác trên địa bàn với nguồn vốn thuộc Chương trình nông thôn mới để
phát huy hiệu quả đầu tư. Chú trọng phát huy nội lực của cộng đồng dân cư, vận
động nhân dân đóng góp sức người, sức của, hiến vật kiến trúc, cây lâu năm, quyền
sử dụng đất,... để góp phần cùng với ngân sách nhà nước thực hiện có hiệu quả các
nội dung Chương trình. Đồng thời, phải tăng cường tuyên truyền để người dân hiểu
và tự nguyện tham gia.
- Thực hiện tốt chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định số 210/2013/NĐ-CP; tiếp tục hướng
dẫn khuyến khích và tạo điều kiện tối đa cho người dân và các tổ chức kinh tế vay
vốn tín dụng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số
41/2010/NĐ-CP; hướng dẫn nông dân vay vốn nhằm giảm tổn thất trong nông
nghiệp theo cơ chế tại Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg; thực hiện tốt các cơ chế tín
dụng có liên quan.
- Huy động có hiệu quả nguồn lực từ đấu giá quyền sử dụng đất; thực hiện
tốt tỷ lệ hỗ trợ từ ngân sách nhà nước các cấp cho các nội dung Chương trình
MTQG xây dựng nông thôn mới theo quy định của HĐND tỉnh Quảng Nam;
tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc quản lý, sử dụng vốn đầu tư trực
tiếp cho Chương trình theo kế hoạch hằng năm; đảm bảo việc đầu tư hiệu quả,
đúng trọng tâm theo lộ trình đã đề ra trong Đề án xây dựng nông thôn mới.
23
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
1. Một số nội dung về xây dựng hạ tầng, như: Điện (tiêu chí số 4); khu thể
thao xã (chỉ tiêu của tiêu chí số 6); chợ nông thôn (tiêu chí số 7); nghĩa trang
nhân dân (tiêu chí số 17); các công trình vệ sinh môi trường nông thôn (chỉ tiêu
của tiêu chí số 17), có trong Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, nhưng
Trung ương chưa quy định hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách Trung ương
để thực hiện (theo quy định tại Quyết định số 695/QĐ-TTg và Điểm 12, Điều 1
Thông tư liên tịch số 51/2013/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày 02/12/
2013). Do đó, kính đề nghị Trung ương bổ sung các nội dung trên vào Điểm b,
Điều 1 Quyết định số 695/QĐ-TTg, tạo điều kiện cho địa phương triển khai thực
hiện đảm bảo các nguyên tắc của Chương trình.
2. Trung ương sớm ban hành nội dung sửa đổi, bổ sung các tiêu chí nông
thôn mới và các Bộ, Ban, ngành Trung ương sớm ban hành các văn bản hướng
dẫn thực hiện một cách đồng bộ.
3. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới là một
Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tổng thể, toàn diện, lâu dài, thường
xuyên và liên tục trong nông thôn; rất thiết thực, hiệu quả, góp phần nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của người dân khu vực nông thôn; vì vậy, kính đề
nghị Trung ương nghiên cứu lồng ghép các nội dung, dự án thành phần của từng
chương trình vào Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
4. Có cơ chế, chính sách phù hợp khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp; đồng thời, rà soát, chỉnh sửa các tiêu chí số 3, 6, 7, 10 cho phù
hợp với thực tế của từng địa phương.
5. Bổ sung vào quy hoạch sử dụng đất, trong đó đặc biệt là quy hoạch hệ
thống giao thông, thủy lợi nội đồng để thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp; quy
hoạch diện tích đất nông nghiệp không sản xuất được, do ảnh hưởng của các dự
án.
6. Khai thác phát triển khu công nghiệp ở các vùng đồi, vùng đất bạc màu,
hạn chế tối đa khai thác quỹ đất trồng lúa cho phát triển công nghiệp, bảo đảm
cho sự phát triển bền vững các Khu công nghiệp. Không sử dụng đất canh tác để
làm sân golf, tránh lãng phí đất nông nghiệp.
7. Theo quy định tại Thông tư số 03/2013/TT-BKHĐT ngày 07/8/2013 của
Bộ Kế hoạch & Đầu tư thì đối với công trình công trình theo cơ chế đầu tư đặc
thù, có tổng vốn đầu tư dưới 3 tỷ đồng thì chỉ định cộng đồng dân cư hưởng lợi
tự thực hiện, tuy nhiên theo Luật Đấu thầu năm 2013 thì đối với gói thầu có giá
trị từ 1 tỷ đồng trở lên đều phải đấu thầu; do đó, kính đề nghị Trung ương xem
xét điều chỉnh quy mô, tổng vốn đầu tư đối với công trình đặc thù cho phù hợp
24
với Luật đấu thầu năm 2013, nhằm thuận lợi cho địa phương việc phê duyệt kế
hoạch đầu thầu, lựa chọn nhà thầu đối với gói thầu thực hiện theo hình thức đầu
tư đặc thù.
8. Ưu tiên bố trí vốn trung hạn để địa phương chủ động trong công tác lập
kế hoạch đầu tư và huy động các nguồn lực;sớm hướng dẫn việc lồng ghép vốn.
25