Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tiểu luận Thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.17 KB, 32 trang )

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THỰC HIỆN
PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Khái niệm về dân chủ, dân chủ ở cơ sở
a) Khái niệm dân chủ:
Thuật ngữ “dân chủ” ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại, khoảng thế kỷ thứ VII-VI
trước công nguyên. Theo tiếng Hy Lạp cổ, dân chủ là do hai từ hợp thành,
“demos” là nhân dân và “kuatos” là quyền lực hay chính quyền. “Demoskratia” –
dân chủ - có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam
định nghĩa: “Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên
việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình
đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào các tổ chức và hoạt động của
những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định”
Như vậy, dân chủ được coi là tiêu chí đánh giá cách thức, trình độ tổ chức
và thực hiện quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Song vấn đề dân chủ luôn là vấn đề phức tạp, có nội dung rộng lớn, luôn luôn mới,
gắn với những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của loài người. Để nghiên cứu, hiểu rõ
bản chất, tính chất và nội dung của dân chủ phải xem xét nó dưới các góc độ, khía
cạnh khác nhau.
Bản thân thuật ngữ dân chủ được tiếp cận dưới nhiều góc độ: Triết học,
chính trị; dân chủ là một hình thái nhà nước; dân chủ là một hiện thực chính trị;dân
chủ là một hiện thực kinh tế, một hiện thực xã hội và dân chủ là một trạng thái của
hệ thống quan hệ quốc tế. Nếu xét theo trình độ phát triển của lịch sử nhân loại thì
có các nền dân chủ: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về
mặt phạm vi, dân chủ rất toàn diện, bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội, từ kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng; từ các mối quan hệ giữa con người với con
người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với Nhà nước, giữa
các tổ chức và thể chế hiện hành, giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Hiện
nay, với quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, dân chủ còn được hiểu như là phương
thức, cách thức tổ chức, là thước đo số cá thể (cá nhân, tổ chức) tham gia vào quá
1



trình xã hội hóa công nghệ, tài chính, thông tin, văn hóa. Song, dù tiếp cận dưới
góc độ nào thì thực chất nội dung, tính chất và khuynh hướng phát triển của dân
chủ là hoàn toàn phụ thuộc vào chỗ quyền lực chính trị thuộc về ai, phục vụ ai
trong mối quan hệ, trong cộng đồng và xã hội đó.
Sự phát triển của dân chủ phụ thộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
năng lực nhận thức của công dân và chính quyền, truyền thống lịch sử, văn hóa,
pháp lý,…Dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển của quốc gia, dân tộc.
Dân chủ là khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người trong đó
có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ và quyền làm
chủ đó có lúc, có nơi đã được những người cầm quyền trong lịch sử nhận thức và thể
chế thành pháp luật thực định cùng các thiết chế chính trị - xã hội khác. Song, chỉ
đến khi nền dân chủ vô sản – dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, thì đó mới là chế độ
dân chủ thực sự, dân chủ của đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện của pháp
luật, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin là một hiện tượng lịch sử
gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau
trong điều kiện tương ứng của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong xã hội xã hội
chủ nghĩa, “dân chủ” có một chất lượng mới do được phát triển đầy đủ trên cơ sở
một nền kinh tế phát triển cao, nhờ đó con người được giải phóng và phát triển
toàn diện. Trong đó, “sự phát triển của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của
tất cả mọi người”
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin dân chủ trước hết là một hình thức Nhà nước.
V. I Lênin viết: “ Chế độ dân chủ, đó là một Nhà nước thừa nhận việc thiểu số
phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức đảm bảo cho một giai cấp thi hành bạo lực
một cách có hệ thống chống lại giai cấp khác”. Vì vậy, dân chủ luôn mang tính giai
cấp, nó tồn tại và biến đổi cùng với sự biến đổi của cuộc đấu tranh giai cấp và sự
thay đổi của phương thức sản xuất chủ yếu của xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là
một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân

chủ khác và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là giải phóng con người, để con
2


người có thể thực hiện được những quyền tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh
và quyết định những vấn đề xã hội. Theo C.Mác, dân chủ xã hội chủ nghĩa thực
chất là chế độ “do nhân dân tự quy định Nhà nước”, nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực Nhà nước. Nhân dân tự tổ chức quyền lực nhà nước qua bầu cử,
tham gia quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt
động của Nhà nước thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện.
Lênin đã khái quát quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của dân thành ba nội
dung lớn: quyền bầu cử, quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và
quyền bãi miễn.
Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm cơ
bản sau:
+ Dân chủ cho nhân dân lao động;
+ Dân chủ thực sự;
+ Dân chủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn
hóa…thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách thực sự bình
đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào quản lý công việc Nhà
nước và xã hội. Thống nhất được quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ
với Nhà nước. Vì vậy, nó trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội.
b) Khái niệm dân chủ cơ sở:
Quần chúng nhân dân là những người trực tiếp sản xuất ra những giá trị vật
chất và sáng tạo ra giá trị tinh thần. Trong lao động và sinh sống, nhân dân luôn
gắn bó mật thiết với một đơn vị, một tổ chức, một địa bàn dân cư nhất định. Bất cứ
một tổ chức nào, xét theo hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ thống cấu trúc từ
nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trong một hệ thống có tư cách như một
chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn bộ hệ thống được gọi
là cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của hệ thống. Bất cứ một công dân, một thành viên nào

của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao động, học tập ở một cơ sở nhất định
trong hệ thống. Đó chính là xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cơ
sở…nơi diễn ra các quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính
trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
3


nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, được tổ chức thành 4 cấp:
trung ương, tỉnh, huyện và xã (cơ sở) là cấp cuối cùng. Xã, phường, thị trấn là nơi trực
tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm
nghiệm một cách chính xác nhất đường lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan. Dân chủ, với ý nghĩa tối cao nhất là quyền tự
nhiên của con người được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Nhân dân có quyền được
biết, được bàn và được tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra
ở cơ sở. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện dưới hình thức gián tiếp và dân chủ trực
tiếp ,là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể
hiện ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động ở cơ sở.Dân
chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất những vấn đề về chính trị, kinh tế,
văn hóa. Dân chủ trực tiếp giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm chính sách pháp
luật một cách nhanh nhất, sát với thực tế khách quan, khắc phục bệnh chủ quan, duy ý
chí, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân.
Tăng cường, hoàn thiện và thực hiện dân chủ thực sự là mục tiêu lâu dài và
thường xuyên của Đảng và Nhà nước.Mỗi bước phát triển của dân chủ phải được
ghi nhận bởi các quy định của pháp luật. Dân chủ phải gắn liền với pháp luật và
thực hiện pháp luật. Song việc phát huy và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình
độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, truyền thống văn hóa, phong tục tập
quán của mỗi cộng đồng, dân chủ gắn liền với kỷ cương. Hiện tại, các quy định về
thực hiện dân chủ ở cơ sở của Nhà nước ta mới chỉ thể chế đối với cơ sở ở xã,
phường, thị trấn, cơ quan doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn. Trong đó, dân chủ ở xã, phường, thị trấn là một nội dung quan

trọng, chủ yếu đề cập đến thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trong hệ thống chính
quyền 4 cấp ở nước ta theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”. Còn rất nhiều loại hình cơ sở khác chưa có quy định về thực hiện dân chủ đặt
ra cho Đảng, Nhà nước yêu cầu tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các
quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về dân chủ ở cơ sở
4


1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ cơ sở
Những yếu tố dân chủ, tinh thần dân chủ, truyền thống lấy dân làm gốc, coi
trọng dân vốn đã hình thành trong lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước của
dân tộc ta, đã được Đảng ta kế thừa và phát huy trong điều kiện mới. Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, đã có nhận thức sâu sắc về vấn
đề dân chủ và vai trò của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người,
dân chủ được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, dân là chủ: “Nước ta là nước dân chủ, địa
vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”; thứ hai, dân chủ tức là dân làm chủ: “Nước ta là
nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”; dân chủ là toàn bộ quyền lực,
lợi ích đều thuộc về nhân dân: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì
lợi ích của dân mà làm. Khắp nơi đều có đoàn thể nhân dân, như: Hội đồng nhân dân,
Mặt trận, công đoàn… những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh
vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với chính phủ”.
Hồ Chí Minh cũng sớm nhận thức sâu sắc về sức mạnh của quần chúng nhân
dân; coi dân là gốc của nước, của cách mạng. Người nói:
“Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”
Hay:
“Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được.
Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên” .
Bởi vì, theo Người, dân chủ là lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối

quần chúng. Dân chủ đối lập với quan liêu: “Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là
dân chủ”. Không chỉ có quan niệm dân chủ đúng đắn mà Người còn nhận thấy vai
trò, tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ. Trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, việc thực hành dân chủ là nhằm đem lại ấm no, hạnh phúc, bình đẳng cho
quần chúng nhân dân một cách đích thực. Người nói: “Thực hành dân chủ là chìa
khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” .
Trong bản Di Chúc để lại cho dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:
“Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách
mạng thế giới”. Như vậy, dân chủ luôn là nội dung quan trọng trong tư tưởng của
5


Hồ Chí Minh. Đây chính là cơ sở lý luận, tư tưởng giúp Đảng Cộng sản Việt Nam
vận dụng trong xây dựng nền dân chủ XHCN ở nước ta.
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ cơ sở
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam mà Đảng ta đã vạch ra và lãnh
đạo đó chính là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn đầu là
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong đó hai mục tiêu dân tộc và dân chủ
gắn bó với nhau từ buổi đầu sự nghiệp cách mạng. Nội dung dân chủ trong giai
đoạn cách mạng trước chủ yếu là đem lại ruộng đất cho dân cày – thành phần đông
đảo nhất trong dân cư. Sau cách mạng dân tộc, dân chủ thành công, Đảng ta lãnh
đạo đất nước chuyển sang giai đoạn cách mạng mới - cách mạng XHCN - đó chính
là cuộc cách mạng giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân ở trình độ hoàn thiện và toàn diện hơn, tiến tới thực hiện mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Từ Đại hội IV (12/1976), Đảng ta đã xác định việc xây dựng chế độ làm chủ tập
thể XHCN là một trong bốn mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN, và cũng là một
trong bốn đặc trưng của cách mạng XHCN ở nước ta. Quan điểm đó được tiếp tục
khẳng định và cụ thể hoá từng bước trong Nghị quyết Đại hội V (3/1982) của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng là Đại hội mở đầu
cho sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Quan điểm “lấy dân làm gốc”, phát huy sức
mạnh của các thành phần kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất; đổi mới nội
dung và phương pháp lãnh đạo của Đảng trên cơ sở nắm vững nguyên tắc kiên
định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những thành tựu văn minh của nhân loại, bảo
đảm quá trình đổi mới diễn ra theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần VII của Đảng với việc thông qua cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã nhấn mạnh: “Xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ” và “Toàn bộ
tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân
6


dân”, “Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống
chính trị. Đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới” .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây
dựng nền dân chủ XHCN là nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước
ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và
Nhà nước. Thực hiện tốt quy chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại
diện, làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở”. Việc ban hành Chỉ thị
30 CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định 29 NĐ/CP (1998) là sự cụ thể hoá quan
điểm đó của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng được xem là đại hội của trí
tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới. Tại Đại hội này nội dung dân chủ càng được coi
trọng. Dân chủ đã được đặt trong mục tiêu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, đó là “độc lập dân chủ gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” .

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4- 2006), với chủ đề
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn
dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển”. Tại Đại hội này, Đảng ta đã rút ra năm bài học lớn, trong đó
vấn đề dân chủ tiếp tục là vấn đề cốt yếu của nhà nước chủ nghĩa xã hội – bài học
thứ năm nêu rõ: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không
ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Ban
Chấp hành Trung Ương Đảng cũng khẳng định “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều
vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ
được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Nâng cao ý thức về quyền
và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân”
7


Như vậy, nội dung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân luôn là
nội dung quan trọng và nhất quán trong toàn bộ đường lối của Đảng ta từ trước đến
nay. Dân chủ gắn liền với “dân sinh”, “dân trí”; dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng nói chung và của công cuộc đổi mới nói riêng.
Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, của các tổ chức chính trị - xã hội. Việc thực hiện dân chủ XHCN, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân được tiến hành dưới nhiều cấp độ, nhiều hình thức.
Trong đó, thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung, ở phường, xã nói riêng là vấn đề
hết sức quan trọng; có ý nghĩa vừa cấp bách, vừa lâu dài.
1.3. Những quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã
Pháp luật về dân chủ là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm
bảo thực hiện; điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa Nhà nước; các tổ chức

chính trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công dân nhằm đảm bảo cho công dân
thực hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Do
đó, pháp luật về dân chủ có phạm vi và nội dung điều chỉnh rất rộng lớn. Pháp luật
về dân chủ ở cơ sở là một nội dung rất quan trọng của pháp luật về dân chủ, bao
gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước, các tổ
chức chính trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công dân đảm bảo cho nhân dân
thực hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội trên
địa bàn xã, phường, thị trấn. Để thực hiện và thể chế hóa quan điểm của chỉ thị 30/
CT – TW ngày 18/12/1998 của Bộ Chính trị, ngày 26/2/1998, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 45-1998/ NQ-UBTVQH10 giao cho Chính
phủ khẩn chương ban hành quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Quán triệt tinh
thần đó, ngày 11/5/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về
việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị
số 22/1998/CT-TTg ngày 15/5/1998 về việc triển khai thực hiện QCDC ở xã và
Ban tổ chức – Cán bộ Chính phủ ban hành thông tư số 03/1998/TT-TCCP ngày
6/7/1998 hướng dẫn áp dụng “Quy chế thực hiện dân chủ xã” đối với phường và
thị trấn. Các quy phạm pháp luật đó được thể hiện ở nhiều văn bản pháp luật bao
gồm: Hiến pháp, luật bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng
8


nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật đất đai, Luật
Thương mại, Luật khiếu nại tố cáo, Luật phòng chống tham nhũng…Pháp lệnh
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Nghị định 71/1998 quy định về quy chế
thực hiện dân chủ ở cơ quan hành chính và Nghị định 07/1999 quy định về quy chế
dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước, Nghị định 87/2007 quy định về thực hiện quy
chế dân chủ trong công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Nhưng được
quy định và thể hiện tập trung, chủ yếu tại các Nghị định 79,07,71,87 của Chính
phủ quy định quy định về quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở và Nghị định 79/ NĐ
được hoàn thiện thành Pháp lệnh số 34/2007 thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị

trấn. Pháp lệnh này được ban hành ngày 20 tháng 4 năm 2007 gồm 6 chương, 28
điều. Trong đó, chương 1 gồm 4 điều bao gồm các quy định chung; chương 2 quy
định những điều dân cần được biết (5 điều); chương 3 gồm có 9 điều chia thành 3
mục quy định về những điều dân trực tiếp bàn và quyết định; chương 4 gồm 4 điều
quy định về những nội dung dân thông qua trước khi được quyết định của cơ quan
có thẩm quyền; chương 5 gồm 4 điều quy định về những việc nhân dân được giám
sát và chương 6 gồm 2 điều quy định về điều khoản thi hành của pháp lệnh
Các văn bản pháp luật này nhằm thể chế phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” trên các lĩnh vực đời sống xã hội diễn ra ở cơ sở, nơi mỗi
công dân đều gắn bó, sinh sống, lao động, học tập, nơi họ có quyền làm chủ. Trong
đó Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn là văn bản pháp luật quy
định cụ thể những việc Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông
tin kịp thời và công khai để dân biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp,
những việc nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan Nhà nước quyết định,
những việc dân giám sát, kiêm tra và các hình thức thực hiện dân chủ ở xã,
phường, thị trấn bao gồm cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
1.4. Sự cần thiết phải mở rộng dân chủ ở cơ sở
Dân chủ XHCN là nền dân chủ mang bản chất của giai cấp công nhân, nền
dân chủ rộng rãi nhất cho nhân dân lao động; là nền dân chủ phát huy tính tự giác,
sáng tạo của quần chúng, của mỗi cá nhân. Nền dân chủ này dựa trên chế độ sở
9


hữu mới - Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu, nên nó được đảm bảo một
cách vững chắc.
Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề thuộc bản chất của chế
độ XHCN; là chủ trương của Đảng, Nhà nước ta; là mục tiêu và động lực của công
cuộc đổi mới. Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân đã được khẳng định thông
qua bốn bản Hiến pháp của nước ta. Nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của
quyền lực Nhà nước. Điều này không chỉ làm sáng tỏ về mặt lý luận, mà còn thể

hiện ở cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước trên thực tiễn sao cho mục đích về
một Nhà nước của dân, do dân, vì dân trở thành hiện thực và hiệu quả.
Dân chủ ở phường, xã diễn ra trên các lĩnh vực của đời sống xã hội một cách
trực tiếp và sinh động, liên tục đối với mọi người, nó được thực hiện thông qua các
tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở và liên quan đến trình độ nhận thức, khả
năng của mỗi người. Nhưng dù thế nào thì dân chủ ở phường, xã cũng phải dựa trên
cơ sở của hiến pháp, pháp luật của nhà nước, và theo đúng đường lối của Đảng trực tiếp là Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội
– đó là thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đây là
quy trình phản ánh quá trình từ nhận thức đến hành động; qua kiểm tra, đánh giá kết
quả hành động, rồi tiếp tục nhận thức và hành động với kết quả cao hơn.
Khác với dân chủ tư sản, tính ưu việt của nền dân chủ XHCN thể hiện ở cả
bốn nội dung của phương châm trên đều là lấy dân làm gốc, dân làm chủ thể. Khái
niệm “dân” ở đây, cần được nhận thức trong mối quan hệ được quy định theo cơ
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”; mặt khác, “nhân dân
làm chủ” là mục tiêu của Đảng lãnh đạo, quản lý của Nhà nước đều hướng tới mục
tiêu phát huy quyền làm chủ, sáng tạo của nhân dân một cách rộng rãi. Cơ chế đó
cũng có nghĩa là: Đảng lãnh đạo nhưng dân phải được biết được bàn, được tham
gia ý kiến và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng; phải cùng tham gia kiểm
tra cán bộ, đảng viên. Dân chủ tạo nên cơ chế đối trọng, kiểm tra, giám sát đối với
hình thức dân chủ đại diện, với bộ máy nhà nước, giảm bớt được sự tuỳ tiện, lộng
quyền, phát huy được tính tự giác, tích cực của mỗi thành viên trong tập thể, khắc
phục được tính trì trệ; phát huy truyền thống tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau.
10


Từ đó tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Dân chủ cơ sở là “hệ thống báo động” nhạy
cảm nhất, những thông tin phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu quả của các
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để kịp thời
sửa chữa, bổ sung.

Trong bốn cấp chính quyền của bộ máy nhà nước, chính quyền phường, xã
là cấp cơ sở; là nền tảng của xã hội, là nơi đông đảo nhân dân sinh sống; là nơi dân
thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhằm giải quyết các công việc
trong cộng đồng dân cư, bảo đảm đoàn kết, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và vệ
sinh môi trường; là nơi dân sản xuất, kinh doanh, lao động, học tập; xã, phường
cũng là nơi nảy sinh nhiều yêu cầu bức xúc hàng ngày của các lĩnh vực kinh tế,
chính trị - xã hội; cũng là nơi thực hiện trực tiếp mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước. Do vậy cũng là nơi đang có nhiều đòi hỏi về quyền làm chủ,
nơi diễn ra sự tiếp xúc và thể hiện các mối liên hệ đan chéo nhau, như: Đảng với
dân, dân với dân, các tổ chức, các đơn vị kinh tế, xã hội với dân… Các phong trào
hành động cách mạng của quần chúng, cũng như các vấn đề dân sinh, dân chủ, dân
an đều thể hiện rõ nhất ở cấp xã. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền tảng của
mọi công tác là cấp xã” và “Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính.
Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong”.
Thực hiện dân chủ ở xã, phường cũng sẽ góp phần cải cách hành chính, sửa
đổi những cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính sao cho sát thực, phù hợp với
cuộc sống thực tiễn hàng ngày. Thực hiện dân chủ ở xã, phường cũng là biện pháp
phát huy và mở rộng dân chủ, đưa nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra” đi vào cuộc sống, có hiệu quả cao hơn.
Trong những năm qua, mặc dù đã có những thành tựu nhất định. Song,
quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ
quan liêu, cửa quyền, hách dịch, tham nhũng, sách nhiễu dân vẫn xảy ra phổ biến
và nghiêm trọng. Đây là nguy cơ lớn của Đảng cầm quyền. Quan liêu và tham
nhũng làm xói mòn bản chất cách mạng của Đảng, của Nhà nước, làm suy thoái
đội ngũ đảng viên, cán bộ công chức về đạo đức, chính trị, phá hoại mối liên hệ
11


mật thiết giữa Đảng và quần chúng nhân dân. Phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hoá bằng pháp luật, thành cơ chế, nên

chậm đi vào cuộc sống.
Vì vậy, chỉ có mở rộng dân chủ XHCN, phát huy sức mạnh quyền làm chủ
của nhân dân, chống tiêu cực, chống suy thoái, chống tham nhũng, củng cố Đảng,
làm trong sạch bộ máy nhà nước, lành mạnh hoá các quan hệ xã hội… mới có thể
tạo động lực to lớn xây dựng và phát triển đất nước.

12


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LỆNH DÂN CHỦ Ở CƠ
SỞ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ TẢO DƯƠNG VĂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Khái quát đặc điểm tình hình chung
Tảo Dương Văn là một xã thuần nông nằm ở vùng trung huyện Ứng Hoà
bao gồm 4 làng; Tảo Khê, Đông Dương, Văn Ông và Văn Cao. Phía bắc giáp xã
Phương Tú, phía nam và đông giáp xã Hoà Lâm, phía tây giáp xã Vạn Thái. Vị trí
của xã cách thị trấn Vân Đình – trung tâm kinh tế, chính trị của huyện đồng thời là
đầu mối giao lưu với Hà Đông 2km về phía Tây Bắc, và không xa địa giới của xã
về phía Bắc và phía Tây có 2 con đường quan trọng: đường 75 nối Vân Đình với
quốc lộ 1 tại cầu Giẽ (huyện Phú Xuyên) và đường 22 nối đường quốc lộ 6 (Hà
Nội - Lai Châu) tại Ba La xuống chợ Dầu (Nam Hà).
Trên địa bàn xã, người dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước nên cuộc
sống nhìn chung còn gặp khó khăn. Song nhờ có sự quan tâm, đầu tư, hỗ trợ trang
thiết bị kĩ thuật và kiến thức trong trồng trọt và chăn nuôi của nhà nước nên nền
kinh tế - xã hội đang ngày càng được mở rộng và phát triển. Cụ thể: tổng diện tích
lúa được đưa vào sử dụng cả hai vụ đông xuân và vụ mùa lên tới 1008,2 ha, sản
lượng lúa cả hai vụ đạt 5344.8 tấn, đạt 101% chỉ tiêu. Ngoài ra, còn kể tới xã đã
thực hiện được 100% chỉ tiêu trong trồng ngô, đậu tương, lạc vào vụ Đông (tổng
diện tích trồng ngô, lạc và đậu tương là 22,75 ha đã đạt sản lượng cao); về chăn
nuôi: đã đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc và gia cầm, chăn nuôi thuỷ sản
cũng được chú trọng đầu tư và phát triển; về đầu tư xây dựng: nhiều dự án đầu tư

vào xã được triển khai kịp thời và thực hiện đúng quan trọng như: giao thông, thuỷ
lợi, lớp học, đặc biệt là dự án đầu tư nâng cấp trục đường chính thông với các làng
trong xã; về xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu như điện, nước, hỗ trợ kinh phí để
người dân tăng gia sản xuất. Về giáo dục, văn hoá - xã hội: chất lượng giáo dục
ngày càng được nâng cao, thực hiện đúng các chính sách hỗ trợ học sinh con nhà
nghèo. Hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao có nhiều tiến bộ. Thực hiện
tốt các chính sách xã hội, phong trào giúp nhau xoá đói giảm nghèo, làm giàu
chính đáng. Công tác phòng chống các tệ nạn được thực hiện tốt, an ninh chính trị,
13


trật tự xã hội được giữ vững, góp phần quan trọng bảo đảm sự bình yên và phát
triển lành mạnh của xã Tảo Dương Văn.
Tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã nhìn chung
là tốt, tuyệt đại bộ phận kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, niềm tin của
nhân dân đối với Đảng và chế độ từng bước được củng cố và nâng cao. Các tổ
chức, đoàn thể hoạt động ngày càng đi vào chiều sâu, và có hiệu quả hơn.
Những đặc điểm trên, là điều kiện thuận lợi cho xã Tảo Dương Văn từng
bước phát triển kinh tế - xã hội nói chung cho thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở
nói riêng. Song, bên cạnh đó còn có nhiều khó khăn, trở ngại đáng kể, xin nêu lên
một vài khó khăn, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn do người dân trong xã sống
chủ yếu bằng nghề nông, các ngành nghề thương mại, dịch vụ… còn kém phát
triển; đất sản xuất nhiều song chưa được sử dụng có hiệu quả, cơ sở hạ tầng còn
nhiều mặt hạn chế, hộ nghèo vẫn còn.Về các tệ nạn xã hội vẫn còn một sồ tiềm ẩn
chưa triệt để, đây chính là nỗi lo của xã.
Thứ hai: ý thức học tập, nghiên cứu Nghị quyết của một bộ phận đảng viên
còn yếu. Tình trạng mất dân chủ, đoàn kết ở một số đơn vị chậm khắc phục và xử
lý chưa dứt điểm, chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì còn nhiều bất cập. Một bộ
phận cán bộ thoái hoá, biến chất, tham nhũng chưa được xử lý nghiêm minh, làm

giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước…
Thứ ba: trình độ dân trí còn hạn chế, người dân ít chịu tìm hiểu về pháp luật.
Vì vậy, quá trình thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã còn bị vi phạm ở nhiều
nơi, dân ít nắm được quyền cũng như nghĩa vụ của mình.
Như vậy, những thuận lợi và khó khăn trên đây về kinh tế, chính trị, văn hoá
- xã hội, sẽ là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của xã Tảo
Dương Văn nói chung; đến việc thực hiện PLDC ở cơ sở nói riêng. Do vậy, việc
nắm bắt một cách đầy đủ, đúng đắn vấn đề này, sẽ giúp cho chúng ta nghiên cứu
một cách đúng đắn quá trình xây dựng và thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã
Tảo Dương Văn hiện nay.
14


Mục tiêu tổng quát của xã Tảo Dương Văn được thông qua trong Báo cáo
trình kỳ họp lần thứ 15 – HĐND xã khoá 18 (Về tình hình thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội an ninh quốc phòng năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ,
mục tiêu đến năm 2015) đó chính là: “Tranh thủ thời cơ, huy động và sử dụng các
nguồn lực, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, tập trung tháo
gỡ những vướng mắc, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định và bền
vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực gắn với ổn định đời sống
nhân dân. Nâng cấp giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; phát triển y tế,
nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Áp dụng khoa học kĩ thuật
công nghệ vào sản xuất, thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, tăng cường các
chính sách xoá đói - giảm nghèo bền vững, hoàn thành vượt mức các kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm (2010 – 2015); tạo tiền đề động lực cho phát triển và
thực hiện tiêu kinh tế - xã hội 5 năm tiếp theo (2015 – 2012)”.
Để thực hiện được những mục tiêu trên, xã Tảo Dương Văn phải phát huy cả
nội lực và ngoại lực, cả yếu tố vật chất và tinh thần. Đặc biệt là phát huy nguồn lực
con người trên địa bàn xã.
Một trong những yếu tố nhằm phát huy cao độ của nguồn nhân lực, là phát

huy tính chủ động, sáng tạo. Muốn vậy, phải xoá bỏ chế độ quan liêu, cửa
quyền…, thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi trong nhân dân.
Việc thực hiện PLDC ở cơ sở được tiến hành dưới nhiều hình thức, nhiều cấp độ
khác nhau; trong đó, thực hiện PLDC cơ sở có ý nghĩa quan trọng, vừa cấp bách, vừa
cơ bản và lâu dài. Nó không chỉ thực hiện PLDC một cách nói chung, trực tiếp và rộng
rãi, mà nó còn phát huy nguồn nhân lực một cách mạnh mẽ, đặc biệt là từ nhân dân.
Dân chủ cơ sở, trong đó dân chủ ở phường, xã đóng vai trò hết sức quan
trọng; bởi vậy mà PLDC ở cơ sở ra đời rất đúng lúc, được quần chúng nhân dân
đồng tình ủng hộ. Mục đích của PLDC là phát huy quyền làm chủ và tinh thần
sáng tạo của quần chúng nhân dân, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần của
nhân dân nhằm phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, tăng cường đoàn kết,
ngăn chặn tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng; góp phần vào sự nghiệp
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” theo định hướng XHCN.
15


Việc ban hành, xây dựng và thực hiện PLDC ở cơ sở tạo điều kiện để cho nhân
dân mở mang tri thức trên nhiều lĩnh vực. Khắc phục được tình trạng dân “mù luật”,
“mù thông tin”, không nắm được quyền và nghĩa vụ của các cá nhân – đây chính là một
trong những nguyên nhân của tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu dân,… đồng thời nó
cũng khắc phục tình trạng yếu kém trong chính bản thân của mỗi người; sự hiểu biết
của mỗi người sẽ tạo điều kiện cho nhân dân chủ động, sáng tạo, tự giác, và với ý nghĩa
dân là chủ sẽ đi vào cuộc sống của người dân, trở nên hoàn thiện và thực tế.
PLDC ở cơ sở cũng quy định những việc nhân dân bàn, đóng góp ý kiến ở
các cấp, trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Việc dân bàn, dân
tham gia ý kiến trước khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định có một
vai trò rất quan trọng trong việc giúp các cơ quan nhà nước cấp xã, phường ra
quyết định một cách đúng đắn, hợp lòng dân hơn - đó cũng là một trong những giải
pháp nhằm khắc phục tình trạng quan liêu, bỏ qua ý kiến đóng góp, xây dựng của
dân; khắc phục được tình trạng thiếu dân chủ đang còn nặng nề, khá phổ biến trên

địa bàn xã Tảo Dương Văn hiện nay.
Quy định về những việc nhân dân giám sát, kiểm tra các hoạt động của
chính quyền, tổ chức của Đảng, MTTQ và các đoàn thể trên địa bàn xã Tảo Dương
Văn có một ý nghĩa cực kỳ to lớn đối với sự phát triển, đổi mới trên địa bàn xã
hiện nay.
Pháp lệnh quy định những việc nhân dân xã giám sát, kiểm tra hoạt động của
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
dự toán và quyết toán ngân sách xây dựng công trình do nhân dân đóng góp, và các
chương trình của Nhà nước, các tổ chức đầu tư; các khoản thu và đóng góp của
dân; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ tiêu cực liên quan đến cán bộ xã;
việc thực hiện chế độ, chính sách ưu đãi, chăm sóc, giúp đỡ thương, bệnh binh, gia
đình có công với cách mạng… Với những quy định này, nhân dân được giám sát,
kiểm tra nhưng trong khuôn khổ của pháp luật và với tinh thần xây dựng. Kiểm tra,
giám sát để phát hiện ra những vi phạm, những sai trái, lệch lạc, từ đó có kiến nghị,
chấn chỉnh, kỷ luật những cá nhân hoặc những tổ chức làm sai trái, nhằm làm cho
các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, của các cán bộ quản lý lành mạnh hơn,
16


dân chủ hơn; ngăn chặn được tình trạng quan liêu, tham nhũng, thoái hoá, biến
chất; kịp thời bổ sung, sửa đổi những quyết định sai trái, kém hiệu quả. Việc kiểm
tra, giám sát rõ ràng, minh bạch sẽ tạo điều kiện cho việc khen thưởng, xử phạt
đúng người, đúng tội. Nhờ những quy định này, mà các tổ chức Đảng, chính
quyền, đoàn thể ở trên địa bàn xã Tảo Dương Văn hoạt động hiệu quả và năng
động hơn, hiệu quả hơn, dân chủ hơn, gây được niềm tin của nhân dân với Đảng và
chính quyền Nhà nước nói chung, với cấp uỷ Đảng, chính quyền xã Tảo Dương
Văn nói riêng.
Việc thực hiện PLDC ở cơ sở có ý nghĩa vô cùng to lớn, vừa cấp bách, vừa xây
dựng, hoàn thiện lâu dài đối với sự nghiệp đổi mới trên địa bàn xã Tảo Dương Văn ,
góp phần ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của xã, góp phần cải cách hành chính,

nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực của hệ thống chính trị xã Tảo Dương Văn.
Như vậy, có thể nói rằng, thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã Tảo Dương
Văn vừa có ý nghĩa là mục tiêu, vừa có ý nghĩa là động lực trong quá trình đổi mới hiện
nay.
2.2. Quá trình tổ chức, triển khai
Sau khi tiếp thu chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị và Nghị định 29/CP của Chính
phủ do Tỉnh ủy Hà Tây(cũ) triển khai, Ban thường vụ huyện ủy đã thành lập Ban chỉ
đạo thực hiện quy chế DCCS. Từ năm 1998 đến năm 2008 huyện ủy Ứng Hoà đã
ban hành các loại văn bản: Chỉ thị số 19 của Ban thường vụ Huyện ủy, thông tri số
11, Công văn số 216 về hướng dẫn triển khai, xây dựng, thực hiện quy chế dân chủ
ở có sở và ban hành các Quyết định thành lập, kiện toàn, bổ sung Ban chỉ đạo thực
hiện quy chế DCCS của huyện. Các xã, thị trấn sau mỗi kỳ Đại hội Đảng bộ xã và
các kỳ Đại hội nhiệm kỳ các đoàn thể và hàng năm dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy
đều kiện toàn, bổ sung Ban chỉ đạo thực hiện quy chế DCCS của xã, thị trấn.
Đảng uỷ, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể nhân dân xã Tảo Dương Văn
đã nhận thức sâu sắc rằng: Đây là nội dung quan trọng để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân trong việc xây dựng hệ thống chính trị; đặc biệt là xây dựng bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh. Do vậy, việc thực hiện QCDC ở cơ sở là hết sức
quan trọng, vừa cấp bách, vừa lâu dài. Xã Tảo Dương Văn ngày 29/7/2007, dưới
17


sự chỉ đạo của Huyện uỷ Ứng Hoà, đã ra lập Ban chỉ đạo gồm 11 thành viên, cơ
cấu bao gồm: Bí thư Đảng uỷ xã làm trưởng ban, Chủ tịch xã làm phó ban chỉ đạo
và các trưởng khối bộ phận của Đảng uỷ và chính quyền xã.
Ban chỉ đạo đã tổ chức triển khai vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở trên phạm
vi toàn xã. Phương châm chỉ đạo đó là tiếp tục thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị,
đặc biệt là Pháp Lệnh 34/2007 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, sự lãnh đạo của
cấp trên đối với vấn đề thực hiện QCDC ở cơ sở, tạo điều kiện cho người dân tiếp
cận và nắm được những quyền và nghĩa vụ công dân của mình.Để đảm bảo cho

việc thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã đúng với tinh thần của Pháp lệnh 34
của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, của Uỷ ban nhân dân Thành phố, của Ban tổ
chức huyện uỷ; đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa bàn xã. Ngoài
tuyên truyền, tiếp xúc dân cư, Ban chỉ đạo đã tiến hành phô tô, in ấn tài liệu để
cung cấp cho các bí thư chi bộ, các trưởng khối, tiếp đó, là in nội dung thực hiện
Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở với nội dung dễ hiểu (nhất là tài liệu của Ban Dân vận
Trung ương) phát cho nhân dân, trước hết đó là các gia đình.
Với những tài liệu đó, các bí thư chi bộ, truởng thôn, xóm được giao trách
nhiệm hướng dẫn người dân trong các bộ phận dân cư hiểu rõ về thực hiện PLDC
ở cơ sở, giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình triển khai.
2.3. Những kết quả và hạn chế của quá trình thực hiện quy chế dân chủ
ở xã Tảo Dương Văn
2.2.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân của nó
* Những kết quả đạt được
Tảo Dương Văn là một xã thuần nông, điều kiện kinh tế vẫn còn khó khăn.
Tuy nhiên trong thời gian 3 năm (2010 – 2012), với sự nỗ lực, cố gắng của các tổ
chức Đảng, chính quyền, MTTQ, các ban ngành, đoàn thể nhân dân, quy chế đã
tiếp tục được phát huy. Việc thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã Tảo Dương
Văn đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, thể hiện ở trên các lĩnh vực sau:
- Trên lĩnh vực kinh tế: Qua việc thực hiện PLDC ở cơ sở, nhân dân có quyền
được biết, được thông tin các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của chính
quyền xã về các vấn đề kinh tế, đó chính là các vấn đề liên quan trực tiếp đến lợi ích
18


của nhân dân, như: luật lao động, luật vay vốn, luật kinh tế… hay các chủ trương phát
triển kinh tế của địa phương, các khoản thuế, định hướng sản xuất, chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi, phát triển thủ công nghiệp, nông nghiệpdịch vụ…
Thực hiện PLDC ở cơ sở, người dân cũng được trực tiếp bàn bạc một cách
dân chủ các khoản đóng góp, xây dựng trường học, trạm xá, đường, điện, mương

phai, cầu cống, xây dựng cơ sở hạ tầng. Không chỉ như vậy, mà nhân dân còn được
phổ biến kinh nghiệm làm ăn, nắm được các chương trình hỗ trợ vay vốn, xoá đói,
giảm nghèo, giúp đỡ các hộ khó khăn về kinh tế phát triển kinh tế gia đình, vươn lên
thoát nghèo.
Trong thời gian qua, nhân dân trong toàn xã đã tích cực, hăng hái tham gia
vào các hoạt động sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng,
lớp học, công trình thuỷ lợi, mương phai, đường sá đạt hiệu quả cao. Với 04 làng
trực thuộc xã, các làng có những đặc điểm tương đồng nhau, chủ yếu nhân dân
trong các làng lao động theo cụm, trong đó, nhiều thành tựu quan trọng đã đạt được
trên nhiều lĩnh vực: sản xuất nông nghiệp đạt 98.9% chỉ tiêu kế hoạch năm, xã đã
vận động nhân dân tu sửa giao thông, thuỷ lợi với 3 đập thuỷ lợi bê tông, hơn 4 km
mương dẫn nước được khai thông, tu sửa; tất cả các làng trong xã đã có đường bê
tông để đi lại. Tất cả các công trình, cơ sở hạ tầng được tu sửa, xây dựng với phương
châm “nhà nước và nhân dân cùng làm”. Đặc biệt là thông qua chương trình xây
dựng nông thôn mới.
Qua việc thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã Tảo Dương Văn, nhân dân
được biết, được bàn các nội dung thu, chi, định mức cụ thể từng khoản đóng góp
tuỳ tiện tràn lan, quá khả năng thực tế đã ngăn chặn. Nhân dân không những biết,
bàn, mà còn trực tiếp tham gia, trực tiếp kiểm tra, giám sát các hoạt động chi tiêu,
quản lý nguồn tài chính mà mình đóng góp. Họ cử người vào quản lý công trình để
kiểm tra, giám sát các hoạt động xây dựng, nghiệm thu chất lượng công trình…
Điều đó khẳng định rằng, khi người dân được tham gia trực tiếp vào quá trình kinh
tế như là chủ thể, từ khâu bàn bạc đến thực hiện, kiểm tra, kiểm soát hoạt động của
chính quyền cơ sở thì việc huy động nguồn lực của người dân mới nhanh chóng
phục vụ cho lợi ích thiết thực của nhân dân.
19


- Trên lĩnh vực chính trị: Việc triển khai, thực hiện PLDC ở cơ sở đã bước đầu
nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng trong nhân dân, mà trước hết là ý thức dân chủ.

Quá trình thực hiện PLDC ở cơ sở bước đầu đã tạo ra sự chuyển biến tích
cực, mạnh mẽ trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò
và ý nghĩa của việc thực hiện PLDC ở cơ sở với việc phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Sinh hoạt chính trị của nhân dân đã bình đẳng hơn; nhân dân nhiệt tình
tham gia sinh hoạt chính trị, hưởng ứng các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước. Họ cũng sôi nổi, hăng hái, tự giác bàn và quyết định nhiều công việc
quan trọng, thiết thực; được tự do phát biểu ý kiến xây dựng, được quyền gia nhập,
sinh hoạt trong các tổ chức xã hội phù hợp với lợi ích thiết thực của bản thân; được
tham gia đóng góp ý kiến vào các văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước khi
còn là dự thảo; được yêu cầu bãi miễn cán bộ dân cử có sai phạm… quyền làm chủ
trên lĩnh vực chính trị của nhân dân ở cơ sở còn được phát huy, trước hết các
quyền bầu cử và ứng cử, lựa chọn những người đại diện cho lợi ích và quyền lợi
của mình. Trong quá trình thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở, trên địa bàn xã
Tảo Dương Văn có 4/4 làng đã được kiện toàn. Trong đó, số trưởng thôn được bầu
mới là 0/4 = 0% trưởng thôn tái cử là 04/04 = 100%.
Việc nhân dân bầu trưởng một cách trực tiếp là phù hợp với nguyện vọng của
quần chúng nhân dân, thể hiện dân chủ một cách sâu sắc, hợp lòng dân, được nhân dân
quan tâm, nhiệt tình hưởng ứng với trách nhiệm cao, vì lợi ích thiết thực của dân chúng.
Để phục vụ cho nghiên cứu đề tài, tác giả đã cố gắng thực hiện phương pháp
điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi. Vào tháng 10/2012, tác giả đã xây dựng phiếu
hỏi ở 4/4 thôn dân cư, với 160 phiếu (xem Phụ lục) dành cho các đối tượng là:
Đoàn viên, nông dân, đảng viên,... Ở đây, tác giả đã chọn dung lượng mẫu trên
tổng thể là 4769/8545 nhân khẩu là công dân đủ 18 tuổi trở lên trên địa bàn
(Nguồn: Báo cáo điều tra dân số theo định kỳ xã Tảo Dương Văn, 2010), với yêu
cầu mức độ tin cậy là 99%, sai số không vượt quá 10%. Xử lý mẫu phiếu hỏi bước
đầu thu được các kết quả về thực hiện Pháp lệnh dân chủ trên địa bàn xã như sau:
Trả lời câu hỏi: “Ông (bà), anh (chị) có thái độ như thế nào trước việc thực
hiện Pháp lệnh dân chủ trên địa bàn xã?”, tỉ lệ trả lời như sau:
20



“Phấn khởi”: 102/160 phiếu, chiếm 64%.
“Bình thường”: 43/160 phiếu, chiếm 27%.
“Khó trả lời”: 15/160 phiếu, chiếm 9%.
Việc thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã Tảo Dương Văn có tác động tích
cực đến việc xây dựng Đảng, củng cố chính quyền xã. Các lĩnh vực hoạt động của
Đảng, chính quyền xã đều được công khai, dân chủ; nhiều công việc, kỳ họp quan
trọng đều được đưa ra thảo luận, thăm dò ý kiến của nhân dân trước khi đưa ra quyết
định. Đó cũng chính là một điều khẳng định sự tham góp của quần chúng nhân dân
vào công việc của chính quyền nhà nước ở cơ sở, thể hiện tinh thần dân chủ cao.
Qua việc thực hiện PLDC ở cơ sở, các tổ chức Đảng, chính quyền làm việc
thiết thực hơn, sâu sát với tình hình thực tế. Do vậy, niềm tin của nhân dân vào
Đảng, vào Nhà nước XHCN càng được củng cố và được nâng cao hơn. Hơn nữa,
cán bộ quản lý, đại diện cho Nhà nước, Đảng cũng do nhân dân tín nhiệm bầu ra,
vì thế việc thực hiện PLDC ở cơ sở càng làm cho mối quan hệ giữa Đảng, chính
quyền thêm gắn bó, sâu sắc; hạn chế được tình trạng quan liêu, phạm luật, ngăn
chặn được tình trạng biến chất thoái hoá trong bộ phận cán bộ, đảng viên. Theo đó,
đội ngũ của cán bộ đảng viên cũng đã tu dưỡng, rèn luyện, giữ vững phẩm chất;
giảm tiêu cực, không được lòng dân. Điều đó đã được nhân dân đánh giá cao.
Trả lời câu hỏi: “Theo ông (bà), anh (chị) thực hiện tốt Pháp lệnh dân chủ ở
cơ sở, thì trình độ, năng lực, phẩm chất của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
dân như thế nào?”. Trả lời câu hỏi này có tỉ lệ như sau:
“Được nâng cao”: 133/160 phiếu, chiếm 83%.
“Bình thường”: 27/160 phiếu, chiếm 17%.
“Không được nâng cao”: 0/160 phiếu, chiếm 0%
Như vậy, việc thực hiện PLDC ở cơ sở đã giúp chính quyền, Đảng bộ xã Tảo
Dương Văn có căn cứ để đánh giá đúng và sâu sát về đội ngũ cán bộ chủ chốt trên
địa bàn về trình độ, năng lực cũng như phẩm chất đạo đức. Việc thông qua các đoàn
thể đại diện, nhân dân đã thực sự được kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước, cụ thể đó là giám sát bầu cử Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các

trưởng phó thôn, từ đó được lựa chọn cho mình những đại biểu xứng đáng, tin cậy.
21


- Trên lĩnh vực văn hoá – xã hội: Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực
này thể hiện tập trung ở sự nâng cao trình độ dân trí, xây dựng đời sống văn hoá,
tinh thần lành mạnh, tăng cường củng cố tình đoàn kết làng xóm, cộng đồng; giáo
dục truyền thống văn hoá, nâng cao ý thức chính trị cho nhân dân. Ở đây, nhân dân
ở tất cả các làng trong xã đã xây dựng những quy ước, hương ước phù hợp với điều
kiện từng thôn, trong khuôn khổ của pháp luật, nhằm xây dựng, củng cố khối đoàn
kết toàn dân, xây dựng môi trường văn hoá văn minh, lành mạnh trong từng gia
đình, thôn xóm. Nhờ có những bản quy ước, hương ước và những buổi tổng kết,
rút kinh nghiệm, đã góp phần làm cho đời sống của nhân dân đi vào ổn định, ít xảy
ra sự mất đoàn kết trong nhân dân trong các làng, trên phạm vi địa bàn xã.
Trả lời cho câu hỏi: “Trong làng ông (bà), anh (chị), tình hình xây dựng nếp
sống văn hoá như thế nào?”. Tỉ lệ số phiếu cho kết quả như sau:
“Đã xây dựng”: 124/160 phiếu, chiếm 77.5%.
“Đang xây dựng”: 36/160 phiếu, chiếm 22.5%
“Chưa đặt ra”: 0/160 phiếu, chiếm 0%.
Việc xây dựng làng văn hoá là một công tác thường xuyên của chính quyền
địa phương, cũng là tinh thần chung của nhân dân, dân tộc xã Tảo Dương Văn.
Đây là một mục tiêu khẳng định tính tích cực, chủ động của nhân dân trong việc
góp phần đưa dân cư vào nếp sinh hoạt văn hoá tích cực, lành mạnh. Đến nay, mặc
dù điều kiện khó khăn, kinh tế - xã hội cũng mới chỉ dừng lại ở một mức độ nhất
định, toàn xã có 04/04 làng được công nhận là làng văn hoá. Kết quả ấy đánh giá
sự nỗ lực, phấn đấu của chính quyền, Đảng bộ, nhân dân xã nói chung và nhân dân
ở các làng đạt danh hiệu “Làng văn hoá” nói riêng; phần nào đánh giá được những
thành tựu bước đầu của việc thực hiện PLDC ở cơ sở đem lại.
Thành tựu trên lĩnh vực văn hoá - xã hội còn phải kể đến sự đóng góp của
nhân dân trong việc xây dựng trạm y tế, lớp học cho con em của mình; đầu năm học,

mỗi phụ huynh học sinh đều có trách nhiệm đi tu sửa trường lớp, chuẩn bị cơ sở vật
chất cho việc học tập của học sinh, con em mình; Mỗi làng đều thành lập một đội
văn nghệ không chuyên, để giao lưu, sinh hoạt với làng bạn, hay đem ra biểu diễn
trong các dịp lễ, tết - tạo nên những nét văn hoá đi sâu vào đời sống của nhân dân.
22


Như vậy, từ thành tựu đạt được trong 3 năm tiếp tục thực hiệnPLDC ở cơ sở,
ta có thể khẳng định rằng: Việc thực hiện PLDC ở cơ sở không chỉ nâng cao ý thức
chính trị, góp phần cải cách hệ thống chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế; mà còn
góp phần cải tạo môi trường văn hoá, giáo dục, làm lành mạnh hoá các mối quan
hệ xã hội, quan hệ ứng xử trong từng gia đình, cộng đồng; nếp sống văn minh, lịch
sự đã được nâng cao, an ninh trật tự đi vào ổn định. Đây thực sự là kết quả không
nhỏ đối với quá trình đổi mới, xây dựng xã Tảo Dương Văn hiện nay, và với quá
trình dân chủ hoá đời sống xã hội trên phạm vi toàn địa bàn.
Tóm lại, từ năm 2007 đến năm 2012, năm năm tiếp tục triển khai thực hiện
PLDC ở cơ sở xã Tảo Dương Văn đã đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi
nhận. Đây sẽ là nền tảng, cơ sở vững chắc cho việc phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, và việc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh trên địa bàn xã Tảo Dương Văn
* Nguyên nhân của những kết quả trên
Những kết quả trên trong quá trình thực hiện PLDC ở cơ sở đạt được là do
những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Thứ nhất, PLDC ở cơ sở đã đáp ứng được đòi hỏi bức xúc của thực tiễn
cuộc sống hàng ngày của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, nhiệt tình
tham gia, hưởng ứng cao.
- Thứ hai, quá trình thực hiện quy chế được sự quan tâm chỉ đạo sát sao, đầy
trách nhiệm của Đảng bộ, chính quyền xã, MTTQ, các đoàn thể quần chúng nhân
dân. Điều đó thể hiện qua 100 ý kiến khi được hỏi: “Vai trò của Đảng bộ, chi bộ
trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở như thế nào?”. Tỉ lệ câu trả lời như
sau:

“Đã phát huy vai trò”: 111/160 phiếu, chiếm 69%.
“Chưa phát huy vai trò”: 49/160 phiếu, chiếm 31%.
“Khó trả lời”: 0/160 phiếu, chiếm 0%.
- Thứ ba, công tác tổ chức chuẩn bị, tuyên truyền, sơ kết, tổng kết, đúc rút
kinh nghiệm của quá trình thực hiện PLDC trên địa bàn được tiến hành đúng quy
trình, chu đáo.
23


- Thứ tư, đội ngũ cán bộ quản lý, các đảng viên đã thực sự trở thành
những hạt nhân gương mẫu, tích cực của việc thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa
bàn xã Tảo Dương Văn
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của nó
* Những hạn chế
Trong năm năm (2007 - 2012) tiếp tục thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn
xã Tảo Dương Văn (Ứng Hòa- Hà Nội) bên cạnh những mặt đã đạt được thì còn có
những mặt hạn chế sau:
- Vấn đề thực hiện PLDC cơ sở trên địa bàn xã Tảo Dương Văn đã được
triển khai từ lâu, song ở một số bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân
về mặt nhận thức vẫn còn hạn chế, chưa nắm rõ tinh thần Chỉ thị, Nghị quyết của
Bộ chính trị và Thủ tướng Chính phủ. Trong 100 ý kiến trả lời cho câu hỏi: “Ông
(bà), anh (chị) hiểu được quy chế dân chủ ở cơ sở như thế nào?”. Tỉ lệ trả lời câu
hỏi như sau:
“Hiểu được”: 93/160 phiếu, chiếm 58%.
“Hiểu ít”: 38/160 phiếu, chiếm 24%.
“Không hiểu”: 29/160 phiếu, chiếm 18%.
Như vậy, tỉ lệ người trả lời là “hiểu” chỉ chiếm tỉ lệ khá, còn ngoài ra là chưa
kể đến những người không được hỏi hoặc không quan tâm tới vấn đề này. Đây là
một hạn chế trong quá trình thực hiện ở cơ sở trên địa bàn xã Tảo Dương Văn dễ
dẫn tới việc vi phạm nguyên tắc dân chủ, vi phạm pháp luật do chưa hiểu rõ luật.

- Vai trò của chi bộ Đảng ở một số nơi chưa thực sự phát huy tính gương
mẫu, đi đầu trong các hoạt động, công tác xã hội. Tinh thần đấu tranh tự phê bình
và phê bình chưa cao; một số bộ phận chưa hiểu rõ được, chưa nhận thức đầy đủ
vai trò, vị trí chiến lược của vấn đề dân chủ, chưa phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Công tác chỉ đạo chưa thực hiện thường xuyên, liên tục.
- Quá trình thực hiện ở cơ sở chưa đạt được hiệu quả như mong muốn, chủ
yếu là công tác dân vận, tuyên truyền còn mang tính hình thức, chiếu lệ; chưa đi
sâu vào bản chất của vấn đề. Trả lời cho câu hỏi: “Việc tuyên truyền quy chế dân
24


chủ ở địa phương ông (bà), anh (chị) được thực hiện ra sao?”, tỉ lệ lựa chọn
phương án như sau:
“Tuyên truyền sâu”: 110/160 phiếu, chiếm 69%.
“Tuyên truyền lấy lệ”: 39/160 phiếu, chiếm 24%.
“Không tuyên truyền”: 11/160 phiếu, chiếm 7%.
Như vậy, có thể thấy tỉ lệ khá cao khẳng định việc tuyên truyền không hiệu
quả về vấn đề thực hiện PLDC ở cơ sở trên địa bàn xã.
- Hiệu quả quản lý của chính quyền địa phương chưa được tốt. Tệ quan liêu,
cửa quyền… vẫn còn tồn tại ở chính quyền xã. Quyền làm chủ của nhân dân còn bị
vi phạm ở nhiều nơi, nhân dân chưa thực sự phát huy được phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, hiệu quả còn thấp.
Vai trò làm chủ của nhân dân trong quá trình thực hiện PLDC ở cơ sở cũng
chưa cao. Nhân dân thể hiện vai trò làm chủ của mình thông qua hai hình thức: dân
chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí
không trực tiếp từ chủ thể quyền lực mà thông qua đại diện có thẩm quyền do chủ
thể bầu ra như Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong thời gian qua, các tổ chức này còn chưa thể hiện được tính đặc thù trong
hoạt động của tổ chức mình, mà còn dựa vào chính quyền là phần nhiều, chưa có
phương thức phù hợp để vận động và tập hợp dân chúng. Bản thân nhân dân cũng

chưa ý thức được sâu sắc quyền làm chủ của mình; vì thế mà một số bộ phận còn
coi nhẹ quyền “biết, bàn, làm, kiểm tra”. Tình hình đó ảnh hưởng không nhỏ đến
việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân còn hạn
chế không chỉ do vai trò của các tổ chức Đảng, chính quyền ở cơ sở chưa quan tâm
đúng mức; mà còn một phần là còn xuất phát chính bản thân người dân, họ còn thờ
ơ với chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chưa biết bảo vệ
quyền làm chủ của mình trong cộng đồng. Trình độ học vấn thấp, vì thế trình độ
văn hoá dân chủ, pháp luật còn thấp, chưa đủ cho họ niềm tin, mạnh dạn đấu tranh
chống lại các hiện tượng tiêu cực một cách hiệu quả.
Những vi phạm về dân chủ, về một số tệ nạn (rượu chè, cờ bạc…) trên địa
bàn xã chủ yếu là do nhận thức chưa đúng đắn về pháp luật, hành động cảm tính,
25


×