Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến sinh trưởng của cây trẩu vernicia montana lour giai đoạn vườn ươm tại trường đại học nông lâm thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.79 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
------------------------------------------

HÀ THỊ VÂN

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA HỖN HỢP
RUỘT BẦU ĐẾN SINH TRƢỞNG CỦA CÂY TRẨU
(Vernicia montana Lour) GIAI ĐOẠN VƢỜN ƢƠM TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành : Nông lâm kết hợp
Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2011 – 2015

Thái Nguyên, 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
------------------------------------------



HÀ THỊ VÂN

NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA HỖN HỢP
RUỘT BẦU ĐẾN SINH TRƢỞNG CỦA CÂY TRẨU
(Vernicia montana Lour) GIAI ĐOẠN VƢỜN ƢƠM TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Nông lâm kết hợp

Lớp

: 43 – NLKH

Khoa

: Lâm nghiệp

Khóa học

: 2011 – 2015

Giảng viên hướng dẫn : TS. Dƣơng Văn Thảo


Thái Nguyên, 2015


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu, kết quả nghiên cứu trong khóa luận là trung
thực. Khóa luận đã được giáo viên hướng dẫn xem và sửa.
Thái Nguyên, ngày 25 tháng 05 năm 2015
Giảng viên hƣớng dẫn

Sinh viên

TS. Dƣơng Văn Thảo

Hà Thị Vân


ii

LỜI CẢM ƠN
Trường Đại Học Nông Lâm với mục tiêu đào tạo được những kỹ sư
không chỉ nắm vững lý thuyết mà còn phải thành thạo thực hành. Bởi vậy,
thực tập tốt nghiệp là một giai đoạn không thể thiếu để mỗi sinh viên có thể
vận dụng được những gì đã học và áp dụng vào thực tiễn, tích lũy được những
kinh nghiệm cần thiết sau này.
Được sự nhất trí của ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên tôi tiến hành thực tập tốt nghiệp với đề tài: “Nghiên
cứu ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến sinh trưởng của cây Trẩu

(Vernicia montana Lour) giai đoạn vườn ươm tại trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên”.
Để hoàn thành khóa luận này tôi đã nhận sự giúp đỡ tận tình của cán bộ
công nhân viên Vườn ươm khoa Lâm Nghiệp, các thầy cô giáo trong khoa
Lâm Nghiệp, đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng
dẫn: TS. Dƣơng Văn Thảo đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình làm đề tài.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả sự giúp đỡ quý báu đó.
Trong suốt quá trình thực tập, mặc dù đã rất cố gắng để hoàn thành tốt
bản khóa luận, nhưng do thời gian và kiến thức bản thân còn hạn chế. Vì vậy
bản khóa luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Vậy tôi rất mong được
sự giúp đỡ, góp ý chân thành của các thầy cô giáo và toàn thể các bạn bè đồng
nghiệp để khóa luận tốt nghiệp của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Hà Thị Vân


iii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Kết quả phân tích mẫu đất .............................................................. 12
Mẫu bảng 3.1: Các chỉ tiêu sinh trưởng Hvn , Doo , chất lượng của cây con ... 23
Mẫu bảng 3.2: Bảng sắp xếp các trị số quan sát phân tích phương sai 1 nhân
tố ...................................................................................................... 24
Mẫu bảng 3.3: Bảng phân tích phương sai 1 nhân tố ANOVA ...................... 28
Mẫu bảng 3.4: Tỷ lệ cây con xuất vườn của các công thức hỗn hợp ruột bầu ..... 29
Bảng 4.1: Kết quả sinh trưởng H vn của cây Trẩu giai đoạn vườn ươm ............ 30
ở các công thức thí nghiệm ............................................................................. 30

Bảng 4.2: Sắp xếp các chỉ số quan sát Hvn trong phân tích phương sai một
nhân tố ............................................................................................. 32
Bảng 4.3. Bảng phân tích phương sai một nhân tố của hỗn hợp ruột bầu tới
sinh trưởng chiều cao cây Trẩu ....................................................... 33
Bảng 4.4: Bảng sai dị từng cặp xi  xj cho sinh trưởng về chiều cao vút ngọn
của cây Trẩu ..................................................................................... 34
Bảng 4.5: Kết quả sinh trưởng D 00 của cây Trẩu giai đoạn vườn ươm ở các
công thức thí nghiệm ....................................................................... 35
Bảng 4.6: Sắp xếp các chỉ số quan sát D00 trong phân tích phương sai một
nhân tố ............................................................................................. 37
Bảng 4.7: Bảng phân tích phương sai một nhân tố đối với hỗn hợp ruột bầu
tới sinh trưởngđường kính cổ rễ của cây Trẩu ................................ 38
Bảng 4.8: Bảng sai dị từng cặp xi  xj cho sinh trưởng về đường kính cổ rễ
cây Trẩu ........................................................................................... 39
Bảng 4.9: Ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến sinh khối khô của cây Trẩu ở
các công thức thí nghiệm ................................................................. 40
Bảng 4.10: Dự tính tỷ lệ xuất vườn của cây Trẩu ở các CTNN ..................... 43


iv
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Sơ đồ bố trí các công thức thí nghiệm ............................................ 21
Hình 4.1: Đồ thị biểu diễn sinh trưởng H vn của cây Trẩu ............................. 30
Hình 4.2: Biểu đồ biểu diễn sinh trưởng về đường kính cổ rễ (cm) của cây
Trẩu ở các công thức thí nghiệm ..................................................... 36
Hình 4.3: Biểu đồ biểu diễn sinh khối khô của cây Trẩu ở các công thức thí
nghiệm ............................................................................................. 41
Hình 4.4: Ảnh sinh khối khô của cây Trẩu ở các công thức thí nghiệm ........ 41
Hình 4.5: Biểu đồ tỷ lệ % cây tốt, trung bình, xấu của Trẩu .......................... 44

Hình 4.6: Biểu đồ tỷ lệ % cây con Trẩu xuất vườn ........................................ 45
Hình 4.7: Một số hình ảnh cây Trẩu ở các công thức thí nghiệm................. 46


v
DANH MỤC VIẾT TẮT
CTTN

: Công thức thí nghiệm

Hvn

: Chiều cao vút ngọn

D00

: Đường kính cổ rễ.

CT

: Công thức.

STT

: Số thứ tự.

H vn

: Là chiều cao vút ngọn trung bình


D oo

: Là đường kính gốc trung bình

Di

: Là giá trị đường kính gốc một cây

Hi

: Là giá trị chiều cao vút ngọn của một cây

N

: Là dung lượng mẫu điều tra

i

: Là thứ tự cây thứ i

cm

: xentimet

mm

: milimet

TB


: trung bình

SL

: Số lượng


vi
MỤC LỤC
Trang
PHẦN 1 MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1
1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1
1.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2
1.3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 2
1.4. Ý nghĩa nghiên cứu .................................................................................... 3
PHẦN 2 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................... 4
2.1. Cơ sở khoa học ........................................................................................... 4
2.2. Những nghiên cứu trên thế giới ................................................................. 9
2.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam ................................................................ 10
2.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu ................................................................ 11
2.5. Một số thông tin về loài cây Trẩu ............................................................ 12
PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU19
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................... 19
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ............................................................ 19
3.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 19
3.4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 19
3.4.1. Phương pháp ngoại nghiệp ................................................................... 20
3.4.2. Phương pháp nội nghiệp ....................................................................... 23
PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ .................................... 30
4.1. Kết quả nghiên cứu sinh trưởng về chiều cao của cây Trẩu dưới ảnh

hưởng của các công thức ruột bầu .................................................................. 30
4.2. Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng đường kính cổ rễ D 00 của cây Trẩu
giai đoạn vườn ươm ở các công thức thí nghiệm ......................................... 35


vii
4.3. Kết quả nghiên cứu về sinh khối khô của cây Trẩu ở các CTTN ................ 40
4.4. Dự tính tỷ lệ xuất vườn của cây Trẩu ở các công thức thí nghiệm.............. 42
PHẦN 5 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ .................................... 47
5.1. Kết luận .................................................................................................... 47
5.2. Kiến nghị .................................................................................................. 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 49


1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rừng là nguồn tài nguyên tự nhiên vô cùng quý giá của con người, nếu
chúng ta biết khai thác và sử dụng, bảo vệ một cách hợp lý. Rừng không chỉ
cung cấp những các lâm đặc sản như: gỗ củi, tre, nứa, cây dược liệu, nấm,…
mà rừng còn là lá phổi xanh của nhân loại, điều hòa khí hậu, hấp thụ chất độc
hại như: CO2, SO2,…. làm sạch không khí, giảm tiếng ôn, cân bằng môi
trường sinh thái đem lại cuộc sống trong lành cho con người.
Rừng có vai trò rất lớn như vậy, nhưng trong những năm vừa qua diện
tích rừng tự nhiên của chúng ta ngày càng giảm sút cả về chất lượng và số
lượng. Theo số liệu điều tra của viện điều tra quy hoạch rừng, Năm 1945 diện
tích rừng tự nhiên của nước ta là 14 triệu ha tương đương với độ che phủ là
43% đến năm 1990 diện tích rừng tự nhiên nước ta chỉ còn 9,175 triệu ha,
tương đương với độ che phủ là 27,2%. Nguyên nhân chủ yếu là do chiến

tranh, đốt nương làm rẫy, khai thác rừng bừa bãi. Từ khi chính phủ có chỉ thị
268/TTg (1996) cấm khai thác rừng tự nhiên nên tốc độ rừng phục hồi đã trở
nên khả quan hơn. Đến Năm 2003 tổng diện tích rừng của cả nước ta là 12
triệu ha, với độ che phủ là 36,1% trong đó rừng tự nhiên chiếm 10 triệu ha và
rừng trồng là 2 triệu ha. Hiện nay, độ che phủ bình quân trong cả nước
khoảng 42% [1]. Độ che phủ của rừng ở nước ta, ở những thập kỷ trước giảm
sút mạnh là do nguyên nhân: Khai thác rừng, quản lý bảo vệ rừng không hợp
lý, trồng rừng chưa được chú trọng, các loài cây trồng rừng năng suất thấp,
hiệu quả không cao cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Để phát triển và nâng cao giá trị của rừng một trong những khâu quan
trọng là trồng rừng là chọn loại cây trồng. Trẩu là loài cây bản địa đa tác
dụng, mọc nhanh, đã được lựa chọn để trồng rừng trong những năm qua. Gỗ


2
dùng làm củi đun, làm nguyên liệu để sản xuất nấm ăn rất tốt. Do tính chịu
mặn, chịu kiềm của nó nên các dụng cụ tàu thuyền đi biển sau khi sơn phủ
đảm bảo độ bền. Trẩu là cây cho dầu dùng để chế biến nhiều mặt hàng tiêu
dùng như công nghiệp sơn, các loại chất dẻo, da nhân tạo, đến các loại thuốc
giải độc, thuốc chữa mụn nhọt. Dầu trẩu mau khô, tỷ trọng nhẹ, bóng, không
dẫn nhiệt, không dẫn điện, có tính chống ẩm, chống ải và chống mục tốt. Khô
dầu trẩu cũng là một loại phân bón rất tốt. Trong khô dầu có tới 77,58% chất
hữu cơ, 3,5% đạm, 0,97% lân, 0,5% kali. Ngoài ra nếu được khử sạch độc tố
thì cũng có thể dùng làm thức ăn cho gia súc.
Người ta có thể trồng trẩu bằng cách gieo hạt thẳng. Nhưng gieo hạt
thẳng do không chọn giống được kỹ nên sau này tỷ lệ cây cho hoa đực nhiều.
Vì thế hiện nay chủ yếu trồng bằng cây ghép, cho nên cần lập vườn ươm để
sản xuất cây trẩu con mọc từ hạt.
Trong sản xuất cây con, sản xuất cây từ hạt có nhiều yếu tố ảnh hưởng
đến sinh trưởng của cây con trong giai đoạn vườn ươm, trong đó có hỗn hợp

ruột bầu. Ruột bầu là nơi cung cấp chủ yếu dinh dưỡng cho cây cây con trong
giai đoạn nuôi dưỡng ở vườn, tuy nhiên mỗi loài cây sẽ phù hợp với thành
phần ruột bầu khác nhau.
Xuất phát từ những vấn đề trên, tôi đã thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu ảnh hưởng của hỗn hợp ruột bầu đến sinh trưởng của cây Trẩu
(Vernicia montana Lour) giai đoạn vườn ươm tại Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm rút ngắn thời gian, giảm chi phí trong gieo ươm, tạo
ra được cây con Trẩu đảm bảo số lượng và chất lượng cung cấp giống cho
công tác trồng rừng hiện nay.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu


3
Xác định được công thức hỗn hợp ruột bầu ảnh hưởng tốt nhất tới sinh
trưởng của cây Trẩu về chiều cao (Hvn), đường kính cổ rễ (Doo), sinh khối ở
giai đoạn vườn ươm.
1.4. Ý nghĩa nghiên cứu
- Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
+ Giúp cho sinh viên làm quen với thực tế sản suất, biết áp dụng và kết
hợp giữa lý thuyết và thực hành.
+ Tạo cho sinh viên một tác phong làm việc làm tự lập khi ra thực tế.
+ Các kết quả nghiên cứu là cơ sở nghiên cứu khoa học cho các nghiên
cứu tiếp theo về kỹ thuật gieo ươm cây Trẩu.
- Ý nghĩa trong thực tiễn sản xuất
+ Kết quả nghiên cứu vận dụng vào sản xuất để tạo hỗn hợp ruột bầu
khi gieo ươm Trẩu.
+ Đề xuất xây dựng những biện pháp chăm sóc tạo giống cây con ở giai
đoạn vườn ươm đảm bảo có chất lượng tốt.



4
PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở khoa học
Chế độ dinh dưỡng trong đất có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống
của thực vật. Nó không những có tác dụng làm cho cây sinh trưởng nhanh mà
còn là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của cơ thể
thực vật.
Phân bón là chất dùng để cũng cấp một trong nhiều chất cần thiết cho
cây. Phân bón có thể là một sản phẩm thiên nhiên học được chế tạo trong
công nghiệp. Trong cả hai trường hợp các nguyên tố dinh dưỡng đều như
nhau và tác động như nhau đối với sinh trưởng của cây,trong các biện pháp kỹ
thuật được sử dụng phổ biến thường xuyên đem lại hiệu quả lớn. Tuy nhiên
bón phân cần phải cân đối để cung cấp cho cây trồng các chất dinh dưỡng
thiết yếu, đủ liều lượng, tỷ lệ thích hợp, thời gian bón hợp lý theo từng đối
tượng cây trồng, từng loại đất và mùa vụ cụ thể sẽ đảm bảo năng xuất cao,
chất lượng tốt [3].
Các loài phân hóa học được sử dụng chăm sóc cây con trong thời gian
ngắn. Bón phân này cần kết hợp với các biện pháp lâm sinh như: Nhổ cỏ, tưới
nước, phòng trừ sâu bệnh phải thường xuyên phát huy tối đa hiệu lực của
phân bón.
Trong sản xuất nông nghiệp: Đất là giá thể, môi trường sinh sống
trực tiếp của bộ rễ và là nguồn cung cấp nước, chất dinh dưỡng cho cây. Đất
tốt, cây sinh trưởng tốt ra hoa kết quả sớm, sản lượng - chất lượng quả, hạt
cao chu kỳ sai quả ngắn và ngược lại. Đất tốt là đất giàu dinh dưỡng chủ yếu
là N, P, K ... và các nguyên tố vi lượng cần thiết đồng thời các thành phần đó
có một tỉ lệ thích hợp [3]. Theo nhiều tài liệu trên thế giới, chỉ sử dụng phân
bón chiếm 30%. Việc kết hợp cân đối nguồn phân, khả năng cung cấp của đất,

thể thống canh tác, giống cây trồng, điều kiện thời tiết thích hợp sẽ nâng cao
hiệu quả sử dụng phân bón, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản suất, bảo vệ
môi trường sinh thái bền vững.


5
Trong gieo ươm:
- Điều kiện đất đai:
Đất là hoàn cảnh để cây con sinh trưởng, phát triển sau này, cây con
sinh trưởng, phát triển tốt hay sấu là do đất cung cấp chất dinh dưỡng, nước
và không khí cho cây.
Chất dinh dưỡng, nước và không khí trong đất có đầy đủ cho cây hay
không chủ yếu là do: Thành phần cơ giới, độ ẩm, độ pH… của đất quyết định.
+ Thành phần cơ giới của đất: Đất vườn ươm nên chọn thành phần cơ
giới cát pha có kết cấu tơi xốp, thoáng khí, khả năng thấm nước và giữ nước
tốt, loại đất này thuận lợi cho hạt nảy mầm, sinh trưởng của cây con, dễ làm
đất và chăm sóc cây con hơn… Tuy nhiên chọn đất xây dựng vườn ươm cũng
cần căn cứ vào đặc tính sinh học loài cây, ví dụ: Gieo ươm cây Mỡ ưa đất thịt
trung bình, đất tơi xốp, thoáng khí và ẩm. Gieo ươm cây Thông ưa đất cát
pha, thoát nước tốt.
+ Độ phì của đất: Đất có độ phì tốt là đất có hàm lượng cao các chất
dinh dưỡng khoáng chủ yếu cho cây như: N, P, K, Mg, Ca và các chất vi
lượng khác… Đồng thời tỷ lệ các chất phải cân đối và thích hợp. Gieo ươm
trên đất tốt cây con sinh trưởng càng nhanh, khỏe mập, các bộ phận rễ,
thân, cành, lá phát triển cân đối [11].
+ Độ ẩm của đất: Có ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng, phát triển cân
đối giữa các bộ phận dưới mặt đất và trên mặt đất của cây con. Đất quá khô
hoặc quá ẩm đều không tốt. Mực nước ngầm trong đất cao hay thấp có liên
quan đến độ ẩm của đất, mực nước ngầm thích hợp cho loại đất cát pha ở độ
sâu là 1,5 - 2m, đất sét là trên 2,5m.

Chọn đất vườn ươm không nên chỉ dựa vào độ ẩm của đất, mực nước
ngầm cao hay thấp mà còn tùy thuộc vào đặc tính sinh vật học của từng loài
cây ươm. Ví dụ: Gieo ươm cây Phi lao nên chọn đất thường xuyên ẩm, song
gieo ươm cây Thông cần phải chọn đất nơi cao ráo, thoát nước.


6
+ Độ pH của đất: Có ảnh hưởng tới tốc độ nẩy mầm của hạt giống và
sinh trưởng của cây con, đa số các loài cây thích hợp với độ pH trung tính, cá
biệt có loài ưa chua như cây Thông, ưa kiềm như Phi lao.
- Sâu bệnh hại:
Nước ta nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, mưa nhiều nên
hầu hết các vườn ươm đều có nhiều sâu, bệnh hại, làm ảnh hưởng đến sản
lượng và chất lượng cây con, tăng giá thành sản xuất cây con, thậm chí có nơi
còn dẫn đến thất bại hoàn toàn. Cho nên trước khi xây dựng vườn ươm cần
điều tra mức độ nhiễm sâu bệnh hại của đất, để có biện pháp xử lý đất
trước khi gieo ươm hoặc không xây dựng vườn ươm ở những nơi bị nhiễm
sâu bệnh nặng.
Theo Sở nghiên cứu đất thuộc viện khoa học Nông Nghiệp Trung
Quốc: Mục đích của việc bón phân là nhằm làm cho cây phát triển và đạt
năng suất cao, có phẩm chất tốt, cho nên bón phân phải phù hợp với yêu cầu
sinh trưởng và phát triển của cây trồng mới phát huy tối đa tác dụng của phân
bón. Sinh trưởng và phát triển của cây trồng có quan hệ mật thiết với điều
kiện bên ngoài.
Phân bón là chất dùng để cung cấp một trong nhiều chất cần thiết cho
cây. Phân bón có thể là sản phẩm thiên nhiên hoặc được chế tạo trong công
nghiệp. Trong cả hai cả hai trường hợp các nguyên tố dinh dưỡng đều như
nhau và tác dụng như nhau đối với sinh trưởng của cây [3].
- Bón phân qua rễ: Lượng phân bón trực tiếp vào đất, chất dinh dưỡng được
ngấm vào đất. Bộ rễ của cây hút chất dinh dưỡng từ đất chuyển lên các bộ phận

lên trên mặt đất của cây (thân, lá, hoa quả ) cây trồng phát triển bình thường.
- Bón phân qua lá: (Lá, thân, cành, quả, cây) lượng phân hòa tan vào
nước ở một nồng độ cho phép. Phun ướt đẫm lá thân cây và quả, chất dinh
dưỡng được ngấm qua lá.


7
Ruột bầu: Là môi trường trực tiếp nuôi cây, thành phần ruột bầu gồm đất
và phân bón. Đất làm ruột bầu thường sử dụng loại đất có thành phần cơ giới
nhẹ hoặc trung bình, phân bón là phân hữu cơ đã ủ hoai mục (phân chuồng,
phân xanh), phân vi sinh và phân vô cơ. Tùy theo tính chất đất, đặc tính sinh
thái học của cây con mà tỷ lệ pha trộn hỗn hợp ruột bầu cho phù hợp [8].
Trong nhân giống các loài cây gỗ, theo Nguyễn Văn Sở, 2004[9], thành
phần hỗn hợp ruột bầu là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất
lớn đến sinh trưởng cây con trong vườn ươm. Hỗn hợp ruột bầu tốt phải đảm
bảo những điều kiện lý tính và hóa tính giúp cây sinh trưởng khoẻ mạnh và
nhanh. Một hỗn hợp ruột bầu nhẹ, thoáng khí, khả năng giữ nước cao nhưng
nghèo chất khoáng cũng không giúp cây phát triển tốt. Ngược lại, một hỗn
hợp ruột bầu chứa nhiều chất khoáng, nhưng cấu trúc đất nặng, khó thấm
nước và thoát nước cũng ảnh hưởng xấu đến cây con.
Thành phần hỗn hợp ruột bầu bao gồm đất, phân bón (hữu cơ, vô cơ) và
chất phụ gia để đảm bảo điều kiện lý hóa tính của ruột bầu. Đất được chọn làm
ruột bầu là đất tốt, có khả năng giữ ẩm và thoát nước tốt, thành phần cơ giới từ
cát pha đến thịt nhẹ, pH trung tính, không mang mầm mống sâu bệnh hại.
Theo Nguyễn Xuân Quát (1985)[8], để giúp cây con sinh trưởng và
phát triển tốt, vấn đề bổ sung thêm chất khoáng và cải thiện tính chất của ruột
bầu bằng cách bón phân là rất cần thiết. Trong giai đoạn vườn ươm, những
yếu tố được đặc biệt quan tâm là đạm, lân, kali và các chất phụ gia.
Đạm (N) là chất dinh dưỡng cần cho sinh trưởng và phát triển của cây
trồng. Mặc dù hàm lượng trong cây không cao, nhưng nitơ lại có vai trò quan

trọng bậc nhất. Thiếu nitơ cây không thể tồn tại. Nitơ là thành phần quan
trọng cấu tạo nên tất cả các axit amin và từ các axit amin tổng hợp nên tất cả
các loại protein trong cơ thể thực vật. Vai trò của protein đối với sự sống của
cơ thể thực vật là không thể thay thế được. Nitơ có mặt trong axit nucleic,
tham gia vào cấu trúc của vòng porphyril, là những chất đóng vai trò quan


8
trọng trong quang hợp và hô hấp của thực vật. Nói chung, nitơ là dưỡng chất
cơ bản nhất tham gia vào thành phần chính của protein, vào quá trình hình
thành các chất quan trọng như amino axit, men, nhiều loại vitamin trong cây
như B1, B2, B6…Nitơ thúc đẩy cây tăng trưởng, đâm nhiều chồi, lá to và
xanh, quang hợp mạnh. Nếu thiếu đạm, cây sinh trưởng chậm, còi cọc, lá ít và
có kích thước nhỏ và hơi vàng. Nhưng nếu bón thừa đạm cũng gây tác hại cho
cây. Biểu hiện của triệu chứng thừa đạm là cây sinh trưởng quá mức, cây dễ
đổ ngã, nhiều sâu bệnh, lá có màu xanh đậm vì diệp lục được tổng hợp nhiều.
Lân (P) là yếu tố quan trọng trong quá trình trao đổi năng lượng. Lân
có tác dụng làm tăng tính chịu lạnh cho cây trồng, thúc đẩy sự phát triển của
hệ rễ. Lân cần thiết cho sự phân chia tế bào, mô phân sinh, kích thích sự phát
triển của rễ, ra hoa, sự phát triển của hạt và quả. Cây được cung cấp đầy đủ
lân sẽ tăng khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi như lạnh, nóng, đất chua
và kiềm.
Nếu thiếu lân, kích thước cây nhỏ hơn bình thường, lá cây phồng cứng, lá
màu xanh đậm, sau khi chuyển dần sang vàng; thân cây mềm, thấp; năng suất
chất khô giảm. Ngoài ra, thiếu lân sẽ hạn chế hiệu quả sử dụng đạm. Một vài
loài lá kim khi thiếu lân lá sẽ đổi màu xanh thẫm, tím, tím nâu hay đỏ. Ở
những loài cây lá rộng, thiếu lân sẽ dẫn đến lá có màu xanh đậm xen kẽ với
các vết nâu, cây tăng trưởng chậm. Khi thừa lân không thấy tác hại nghiêm
trọng như thừa nitơ (Trịnh Xuân Vũ, 1975[12]; Viện thổ nhưỡng nông hóa,
1998[13]; Ekata Khurana and J.S Singh,2000[14]; Thomas D. Landis,

1985[15].
Nếu thiếu lân, kích thước cây nhỏ hơn bình thường, lá cây phồng cứng,
lá màu xanh đậm, sau chuyển dần sang vàng; thân cây mềm, thấp; năng xuất
chất khô giảm. Ngoài ra, thiếu lân sẽ hạn chế hiệu quả sử dụng đạm. Một vài
loại lá kim khi thiếu lân lá sẽ đổi màu xanh thẫm, tím, tím nâu hay đỏ. Ở
những loài cây lá rộng, thiếu lân sẽ dẫn đến lá có màu xanh đậm, xen kẽ với


9
các vết nâu, cây tăng trưởng chậm. Khi thừa lân không thấy tác hại nghiêm
trọng như thừa nitơ.
Kali (K) đóng vai trò chủ yếu trong việc chuyển hóa năng lượng, quá
trình đồng hóa của cây, điều khiển quá trình sử dụng nước, thúc đẩy quá trình
sử dụng đạm ở dạng NH4+, giúp cây tăng sức đề kháng, cứng chắc, ít đổ ngã,
chống sâu bệnh, chịu hạn và rét . Do vậy, nếu thiếu kali, thì cây có biểu hiện
về hình thái rất rõ như lá hơi ngắn, phiến lá hẹp và có màu lục tối, sau chuyển
sang vàng, xuất hiện những chấm đỏ, lá bị khô (cháy) rồi rủ xuống. Các chất
phụ gia thường được sử dụng là xơ dừa, tro trấu…Chúng có tác dụng làm xốp
đất, giữ ẩm, thoáng khí…
2.2. Những nghiên cứu trên thế giới
Phân bón lá đã được sử dụng từ lâu trên thế giới. Hàng năm trên thế
giới tiêu thụ khoảng 130 triệu tấn phân bón.
Mở đầu là nhà thực vật học Hà Lan - Van Helmont (1629) ông đã trồng
cây Liễu nặng 2.25kg vào thùng chứa 80kg đất. Một năm sau cây liễu nặng
66kg trong khi đất chỉ giảm 66g. Tác giả kết luận cây chỉ cần nước để sống.
Vào cuối thế kỷ XVIII đầi thế kỷ XIX thuyết mùn do thaer (1873) đề
xuất cho từng cây hấp thụ mùn để sống. Đến thế kỷ XIX nhà hóa học người
Đức Liibig (1840) đã sây dựng thuyết chất khoáng. Liibig cho rằng độ mầu
mỡ của đất là do muối khoáng trong đất. Ông nhấn mạnh rằng việc bón phân
hóa học cho cây sẽ làm tăng năng suất cây trồng. Năm 1963 Kinur và Chiber

khẳng định việc bón phân cho đất theo từng thời kỳ khác nhau là khác nhau.
Cùng năm đó Turbittki đã đưa ra quan điểm: phân bón là nguồn dinh dưỡng
bổ sung cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, đối với từng loài cây, từng tuối
cây cần có nhiều nghiên cứu cụ thể tránh lãng phí phân cón không cần thiết.
Việc bón phân thừa hay thiếu đều dẫn tới biểu hiện cây sinh trưởng chậm và
chất lượng kém.
Năm 1974 polster, Fidler và lir cũng đã kết luận: sinh trưởng của cây
than gỗ phụ thuộc vào sự hút các nhân tố khoáng từ trong đất trong suốt quá


10
trình sinh trưởng. Nhu cầu dinh dưỡng của mỗi cây thân gỗ ở mỗi thời kỳ
khác nhau là khác nhau.
Theo Thomas (1985)[15], chất lượng cây con có mối quan hệ logic với
tình trạng chất khoáng. Nitơ và phốt pho cung cấp nguyên liệu cho sự sinh
trưởng và phát triển của cây con. Tình trạng dinh dưỡng của cây con thể hiện
rõ qua màu sắc của lá. Phân tích thành phần hóa học của mô là một cách duy
nhất để đo lường mức độ thiếu hụt dinh dưỡng của cây con.
Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới như: Mỹ, Anh, Nhật,
Trung Quốc… đã sử dụng nhiều chế phẩm phân bón qua lá có tác dụng làm
tăng năng suất cho nông sản, không làm ô nhiễm môi trường như: Atonik,
Yogen… (Nhật Bản), Bloom, Blus, Solu, Spray-NGrow… (Hoa Kỳ), Diệp lục
tố, đặc phong… (Trung Quốc). Nhiều chế phẩm đã được nghiện cứu và cho
phép sử dụng trong sản suất nông nghiệp ở Việt Nam.
2.3. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Đi đầu trong lĩnh vực này có thể kể đến Nguyễn Hữu Thước (1963),
Nguyễn ngọc Tân (1985), Nguyễn Xuân Quát (1985), Trần Gia Biển
(1985)… các tác giả đều đi đến kết luận chung cho rằng mỗi loại cây trồng
đều có yêu cầu về loại phân, nồng độ, phương thức bón, tỷ lệ hỗn hợp hoàn
toàn khác nhau. Khi nghiên cứu gieo ươm thông nhựa (Pinus merkusii), tác

giả cũng đã tập trung xem xét ảnh hưởng của thành phần hỗn hợp ruột bầu[8].
Những nghiên cứu như thế cũng đã được Hoàng Công Đãng (2000)[4] thực
hiện với loài Bần chua ở giai đoạn vườn ươm
Nguyễn Thị Mừng (1997)[6], thành phần ruột bầu được cấu tạo từ 79%
đất + 18% phân chuồng + 0,5% N + 2% P + 0,5% K hoặc 80% đất + 15%
phân chuồng + 1% N + 3% P + 1% K sẽ đảm bảo cho cây Cẩm lai (Dalbergia
bariaensis Pierre) sinh trưởng tốt trong giai đoạn vườn ươm.
Khi nghiên cứu gieo ươm Dầu song nàng (Dipterrocarpus dyerii),
Nguyễn Tuấn Bình (2002)[2] cũng nhận thấy hỗn hợp ruột bầu có ảnh hưởng


11
rất nhiều đến sinh trưởng của cây con. Theo tác giả, đất feralit đỏ vàng trên
phiến thạch sét và đất xám trên granit có tác dụng nâng cao sức sinh trưởng
của cây con Dầu song nàng. Hàm lượng phân super phốt phát (Long Thành)
thích hợp cho sinh trưởng của Dầu song nàng là 2% – 3%, còn phân NPK là
3% so với trọng lượng bầu.
Theo Nguyễn Văn Thêm và Phạm Thanh Hải (2004)[10], bón lót cho
Chiêu liêu nước (Terminalia calamansanai) trong giai đoạn 6 tháng tuổi ở
vườn ươm là việc làm cần thiết. Nếu bón lót phân tổng hợp NPK (16:16:8)
cho Chiêu liêu nước, thì hàm lượng thích hợp là 1% so với trọng lượng ruột
bầu. Tương tự, phân super photphat là 1%, còn phân hữu cơ hoai là 15% –
20% so với trọng lượng ruột bầu.
Theo Nguyễn Thị Cẩm Nhung (2006)[7], khi gieo ươm cây Huỷnh liên
(Tecoma stans (L.) H.B.K), hỗn hợp ruột bầu thích hợp bao gồm đất, phân
chuồng hoai, xơ dừa, tro, trấu theo tỷ lệ 90:5:2: 2,1 và 0,3% kali clorua, 0,5%
super lân và 0,1% vôi.
Cây cối tiếp nhận được 95% phân bón và được đánh giá là 1 tấn phân bón
lá có hiệu suất bằng 20 tấn phân bón vào đất. Do trên mỗi lá có hàng triệu khí
khổng có khả năng hấp thụ ánh sáng, không khí, nước và chất khoáng. Phân

được xâm nhập trực tiếp, di chuyển nhanh chóng trong cây nên đáp ứng được
yêu cầu cần thiết nhu cầu dinh dưỡng của cây trong thời gian ngắn, giúp cây
sinh trưởng tốt cho năng suất và chất lượng cao [13].
2.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu
*Vị trí địa lý
- Đề tài được tiến hành tại vườn ươm trường Đại Học Nông Lâm thái
Nguyên thuộc địa bàn xã Quyết Thắng, căn cứ vào bản đồ địa lý Thành Phố
Thái Nguyên thì vị trí của trường như sau:
- Phía Bắc giáp với phường Quan Triều
- Phía Nam giáp với phường Thịnh Đán


12
- Phía Tây giáp với xã Phúc Hà
- Phía Đông giáp với khu dân cư trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên.
* Địa hình
Địa hình của xã chủ yếu là đồi bát úp không có núi cao. Độ dốc trung
bình 10 - 15°, độ cao trung bình 50 - 70m, địa hình thấp dần từ Tây Bắc
xuống Đông Nam.
Vườn ươm nằm ở khu vực chân đồi, hầu hết đất ở đây là loại đất feralit
phát triển trên đá sa thạch. Do vườn ươm mới chuyển về đây nên đất lấy để
hoạt động đóng bầu gieo cây là đất mặt ở đồi tương đối tốt. Theo kết quả phân
tích mẫu đất của trường thì ta nhận thấy:
Bảng 2.1: Kết quả phân tích mẫu đất
Độ sâu

Chỉ Tiêu

Chỉ tiêu dễ tiêu/100g đất


tầng đất
(cm)

Mùn

N

P2O5

K2O

N

P2O5

K2O

PH

1 -10

1,766 0,024 0,241 0,035 3,64

4,56

0,90

3,5

10 - 30


0,670 0,058 0,211 0,060 3,06

0,12

0,12

3,9

30 -60

0,711 0,034 0,131 0,107 0,107 3,04

3,04

3,7

(Nguồn: Theo số liệu phân tích đất của trường ĐHNL Thái Nguyên)
- Độ pH của đất thấp điều đó chứng tỏ đất ở đây chua.
- Đất nghèo mùn, hàm lượng N, P2O5 ở mức thấp. Chứng tỏ đất nghèo
dinh dưỡng.
2.5. Một số thông tin về loài cây Trẩu
Phân loại khoa học:
Bộ (ordo): Malpighiales
Họ (familia): Euphorbiaceae
Phân họ (subfamilia): Crotonoideae
Tông (tribus): Aleuritideae


13

Chi (genus) Vernicia
Loài (species): V. montana
Danh pháp hai phần: Vernicia montana LOUR.
Danh pháp đồng nghĩa: Aleurites montana; Aleurites vernicia;
Aleurites cordata
Cây trẩu lá xẻ: Vernicia montana Lour
Mô tả thực vật:
Cây Trẩu còn gọi là cây dầu sơn, ngô đồng, mộc đu thụ, thiên niên
đồng, bancoulier, abrasin, thuộc họ thầu dầu euphorbiaceae.
Trẩu là một cây to, cao có thể tới 8m hay nhiều hơn, thân nhẵn, lá đa
dạng, khi thì có thùy sâu, khi xẻ nông, khi thì nguyên và hình tim, mặt trên
bóng, màu sẫm, mặt dưới mờ, màu nhạt. Các lá đa dạng đều có một đặc điểm
chung: Ở gốc phiến lá và kẽ thùy bao giờ cũng có hai tuyến đỏ nổi rõ, cuống
lá dài 7-10cm. Hoa đơn tính, cùng gốc, có khi khác gốc. Tràng 5, màu trắng,
đốm tía ở móng tràng. Quả hình trứng, màu lục, đường kính 3-5cm, mặt ngoài
nhăn nheo, cấu tạo bởi 3 mảnh vỏ, mỗi mảnh có một đường gân nổi cao, 3 hạt
có 3 nội nhũ to chứa có lá xẻ thùy nhiều dầu. Mùa hoa tháng 4, thường ra hoa
trước khi lá non xuất hiện. Thường tháng 9 lại có 1 vụ hoa nữa. Quả của lứa
hoa trước chín vào khoảng tháng 10.
Cây trẩu mọc hoang và được trồng nhiều vùng từ cao đến thấp, miền
núi cũng như đồng bằng ở khắp nước ta. Trẩu ưa đất mát, thoát nước,trên có
dốc. Hầu hết các tỉnh đều có trẩu, miền Bắc như Ninh Bình, Nam Định, Hà
Nam, Hoà Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái
Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, miền Trung như Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh. Tại Hoa Nam - Trung Quốc trẩu mọc và được trồng ở các tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây. Tuy trẩu không đòi hỏi đất lắm nhưng những nơi nào đất
không có độ xốp vừa phải, đất không mát và không tốt thì cay trẩu kém phát
triển. Ở những đất thích hợp cây trẩu mọc rất nhanh, ra hoa ngay vào năm thứ 2



14
hay thứ 3, cành mọc thành tầng ngang, đều. Có thể trồng Trẩu để che phủ chè,
dứa hay cà phê. Một tạ hạt (cả vỏ) cho chừng 19-20kg dầu và 60-65 khô (bã).
Chỉ tiêu chất lượng dầu Trẩu:
Cảm quan: Chất lỏng, màu vàng, mùi thơm đặc trưng
Tỷ trọng (ở 20C): 0,920-0,945
Chỉ số khúc xạ: (ở 20C): 1,500-1,520
Chỉ số acid: 1,4
Chỉ số iod: 149,5-170,58
Chỉ số xà phòng: 193,38-196,73
Thành phần chính: Dầu Trẩu chứa acid béo chủ yếu là α-eleostearic (70
- 80%). Đây là dạng acid béo chưa no với 3 nối đôi có khả năng oxy hoá
mạnh, nên dầu mau khô. Khi khô kết thành màng có tính chất chống ẩm chịu
được thời tiết biến đổi cao, sức co giãn tốt, có tác dụng chống gỉ.
Sau khi ép dầu, khô bã còn lại chứa tới 50% protein thô, 7,5% tro, 3%
cellulose và một số hợp chất khác (trong đó có saponin).
Trong lá và hạt Trẩu có chất saponorit độc, không thể dùng làm thức ăn
cho gia súc được.
Công dụng:
Dầu trẩu có những đặc tính quan trọng mà một số dầu khác không có
đó là tính chịu nhiệt độ cao, chịu nước và chịu mặn. Chính vì vậy, đây là
nguyên liệu quý trong việc chế biến sơn cách nhiệt, sơn trang trí, sơn chống
axit, sơn trong môi trường có sức phá hủy mạnh và kể cả sơn dùng trong
Quốc phòng. Do những tính chất đặc biệt và công dụng lớn như đã nêu trên,
dầu trẩu là một sản phẩm rất có giá trị.
Trong công nghiệp, dầu trẩu được dùng làm sơn cao cấp, (sơn ô tô, máy
bay, tầu thuyền…), sơn cách điện, cách nhiệt, chất dẻo, cao su nhân tạo, xà
phòng, da nhân tạo, vải sơn, vải dầu, sơn mỹ thuật, mực in… Khô dầu dùng
làm phân bón hoặc làm thức ăn gia súc sau khi đã khử các độc tố.



15
Vỏ quả có thể dùng làm than hoạt tính.
Gỗ màu trắng, mềm dễ bị mối mọt, nên có thể dùng làm bột giấy hoặc
làm củi đun. Những nghiên cứu gần đây của Đại học Lâm nghiệp cho biết, gỗ
trẩu có thể xử lý để sản xuất đồ mộc dạng ván ghép thanh.
Thâ ̣n tro ̣ng: Hạn sử dụng 03 năm kể từ ngày sản xuất
Bảo quản nơi khô ráo, tránh ánh nắng trực tiếp
Đựng trong thùng kín, tránh để gần lửa
Yêu cầu khí hậu, đất đai
Trẩu lá xẻ phân bố tự nhiên ở Việt Nam, Trung Quốc, Lào v.v… ở Việt Nam
phân bố ở vùng đồi, núi các tỉnh miền Trung và miền Bắc. Trẩu cũng đã được
nhân dân gây trồng lâu đời.
Phạm vi thích ứng với khí hậu của cây trẩu này rất rộng. Nhiệt độ thích hợp
nhất để trẩu sinh trưởng tốt, sản lượng quả cao là những nơi có nhiệt độ bình
quân hàng năm trên 20oC, ẩm độ không khí 85-90%, lượng mưa 1000-2000
mm. Trong mùa sinh trưởng từ tháng 4-7 cần lượng mưa tương đối nhiều, nếu
mưa ít thì sản lượng quả thấp.
Trẩu yêu cầu đất tốt, tầng đất dày, đất tơi xốp, thoát nước, nhưng đủ
ẩm, hơi chua (độ pH 5-6,5). Những nơi đất chua, kiềm, đất bị chặt, nhiều đá
lẫn hoặc sỏi sạn thì trẩu sinh trưởng không tốt.
Trẩu là cây ưa sáng mạnh, nên nơi đồi gò, trồng thưa, tán cây xòe rộng
thì trẩu kết quả nhiều. Nơi khe núi, chân núi do thiếu ánh sáng nên trẩu ra hoa
kết quả kém mặc dù cây vẫn có thể mọc tốt.
Kỹ thuật gây trồng
Cần chú ý đầu tiên đến khâu chọn giống. Khả năng ra hoa kết quả của
trẩu biến động rất lớn theo từng cá thể. Những cây ra hoa cái nhiều thường là
giữ được tính ổn định, người ta đã dùng cách ghép mắt của cây ra hoa cái
nhiều vào cây trẩu con mọc từ hạt rồi đem trồng thì sẽ đem lại kết quả cao.



16
Trẩu ra hoa vào mùa xuân, quả chín mùa thu khi vỏ quả từ màu xanh
vàng chuyển sang màu nâu đen, hơi nứt ở đỉnh, dễ rụng, vỏ hạt có màu đen là
lúc hạt chín, có thể thu hái được. Hàng ngày có thể nhặt quả mới rụng ở gốc
hoặc rung cây cho quả chín rụng xuống rồi nhặt. Quả thu về có thể xếp đống
ở góc vườn, phủ rơm, rạ, đợi đến mùa xuân năm sau thì đem gieo. Hạt sau khi
gieo 20-30 ngày thì nảy mầm.
Người ta có thể trồng trẩu bằng cách gieo hạt thẳng. Nhưng gieo hạt
thẳng do không chọn giống được kỹ nên sau này tỷ lệ cây cho hoa đực nhiều.
Vì thế hiện nay chủ yếu trồng bằng cây ghép, cho nên cần lập vườn ươm để
sản xuất cây trẩu con mọc từ hạt.
Chọn cây mẹ sai quả, lấy mắt ghép vào cây trẩu con. Thường ghép vào
mùa thu, tháng 7 hoặc tháng 8. Có thể ghép mắt, ghép cành.
Sau khi đã chọn cây mẹ sai quả cũng cần chọn cành để ghép. Cành
ghép cần to, mập, mắt dày và phân bố đều trên cành. Tuổi cành ghép trên dưới 1 năm. Nếu địa điểm vườn ươm và nơi lấy cành ghép gần nhau thì có thể
lấy ngày nào ghép ngày ấy. Nếu nơi lấy cành ghép xa thì sau khi cắt cành
ghép xong cần nhúng vào nước 1-2 giờ sau đó cắt bỏ lá, mặt cắt cành nên bôi
sáp để tránh thoát hơi nước, xếp cành ghép trong rong, rêu ẩm, để trong thùng
rồi vận chuyển đến nơi ghép.
Ghép xong cần làm giàn che, phun ẩm để nâng cao tỷ lệ sống. Sau 1-2
tuần kiểm tra nếu mắt ghép không sống thì có thể ghép lại ở mặt đối diện. Khi
mắt ghép sống và mọc cao 1-2 cm thì có thể bỏ dây buộc, kịp thời làm cỏ xới
đất, bón thúc, cắt bỏ những chồi mọc lên từ gốc ghép, đảm bảo cho cành ghép
phát triển thuận lợi.
Trẩu chủ yếu trồng để lấy quả, hạt, vì thế cần trồng thưa ngay từ đầu.
Trồng bằng cây ghép tuy tốn công nhưng đạt hiệu quả kinh tế cao, cây con
mọc lên sẽ sai quả.
Mật độ trồng cây ghép thường từ 300-400 cây/ha là thích hợp.



×