ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------------------
HOÀNG THỊ THUYỀN
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG MỐI HẠI GỖ NHÀ SÀN
TẠI XÃ CẨM GIÀNG - HUYỆN BẠCH THÔNG - TỈNH BẮC KẠN
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo
: Chính quy
Chuyên ngành
: Nông lâm kết hợp
Khoa
: Lâm Nghiệp
Khóa học
: 2011-2015
Thái Nguyên, 2015
ii
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
---------------------
HOÀNG THỊ THUYỀN
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG MỐI HẠI GỖ NHÀ SÀN
TẠI XÃ CẨM GIÀNG - HUYỆN BẠCH THÔNG - TỈNH BẮC KẠN
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo
Chuyên ngành
Khoa
Lớp
Khóa học
: Chính quy
: Nông lâm kết hợp
: Lâm Nghiệp
: K43 - NLKH
: 2011-2015
Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Nguyễn Việt Hƣng
Khoa Lâm nghiệp - Trƣờng Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Thái Nguyên, 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của bản thân tôi.Các
số liệu và kết quả nghiên cứu là quá trình điều tra trên thực địa hoàn toàn trung
thực, chưa công bố trên các tài liệu, nếu có gì sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Thái Nguyên, ngày
tháng
năm 2015
Xác nhận của GVHD
Ngƣời viết cam đoan
Đồng ý cho bảo vệ kết quả
( Ký, ghi rõ họ tên)
trước hội đồng khoa học
(Ký, ghi rõ họ tên)
ThS. Nguyễn VIệt Hƣng
Hoàng Thị Thuyền
XÁC NHẬN CỦA GIÁO VIÊN CHẤM PHẢN BIỆN
Giáo viên chấm phản biện xác nhận sinh viên đã sửa chữa sai sót sau khi Hội đồng
chấm yêu cầu
( Ký, họ và tên)
i
LỜI CẢM ƠN
Bốn năm học tại trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên đã trôi qua và giờ
đây sinh viên chúng tôi được tiến hành thực hiện khoá luận tốt nghiệp đại học, đây
là việc giúp sinh viên củng cố lại kiến thức đã và đang học ở nhà trường và biết vận
dụng lý thuyết vào thực tế. Từ đó mỗi sinh viên khi ra trường sẽ có nhiều kinh
nghiệm phục vụ cho việc hoàn thiện hơn kiến thức lý luận và nâng cao trình độ
chuyên môn, phương pháp làm việc, thái độ và năng lực công tác khi ra trường.
Xuất phát từ phương châm đó, được sự nhất trí của trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, Ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp và nguyện vọng của bản thân. Tôi
tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu thực trạng mối hại gỗ nhà sàn tại xã
Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn”.
Trong suốt thời gian thực hiện khoá luận tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt
tình của các thầy giáo, cô giáo trong khoa, sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn
bè. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới:
- Ban giám hiệu trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
- Ban chủ nhiệm khoa Lâm Nghiệp.
- Ban lãnh đạo xã và cùng toàn thể nhân dân trong xã Cẩm Giàng – huyện
Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn.
- Đặc biệt là sự chỉ bảo, hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo ThS. Nguyễn Việt
Hƣng đã giúp tôi hoàn thành bài khoá luận này.
Mặc dù bản thân đã rất nỗ lực học tập, nghiên cứu nhưng bài khoá luận không
thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp, xây dựng của các
thầy giáo, cô giáo và các bạn để bài khoá luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thái Nguyên, tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Hoàng Thị Thuyền
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
1
Bảng 4.1. Một số loại gỗ được sử dụng trong công trình xây dựng
28
tại xã Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn
2
Bảng 4.2. Lịch sử phòng mối cho các công trình nhà sàn tại xã
30
Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn
3
Bảng 4.3. Thực trạng trạng mối xuất hiện trong các công trình nhà
31
sàn tại xã Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn
4
Bảng 4.4. Thực trạng công tác kiểm tra phòng trừ mối cho các
43
công trình xây dựng tại xã Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh
Bắc Kạn
5
Bảng 4.5. Kế hoạch phòng trừ mối cho các công trình công cộng
tại xã Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn
46
iii
DANH MỤC CÁC HÌNH
STT
Tên hình
Trang
1
Hình 2.1. Cấu trúc tổ mối
5
2
Hình 2.2. Mối chúa và mối vua
7
3
Hình 2.3. Mối cánh
8
4
Hình 2.4. Mối lính
9
5
Hình 2.5. Mối thợ
10
6
Hình 4.1. Mối hại gỗ tại xã Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông –
33
tỉnh Bắc Kạn
7
Hình 4.2. Mối ăn hại phần gỗ sớm
34
8
Hình 4.3. Mối ăn hại phần gỗ giác
34
9
Hình 4.4. Mối hại tại các công trình công cộng tại xã Cẩm Giàng
35
– huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn
10
Hình 4.5. Mối hại gỗ gia đình ông Đàm Văn San, thôn Nà Ngăm
36
11
Hình 4.6. Mối hại gỗ gia đình ông Hoàng Văn Tự, thôn Nà Ngăm
37
12
Hình 4.7. .Mối hại gỗ gia đình ông Lục Văn Khảo, thôn Khuổi
38
Dấm
13
Hình 4.8. Mối hại gỗ gia đình ông Đàm Văn Đoài, thôn Khuổi
39
Dấm
14
Hình 4.9. Mối hại gỗ gia đình ông Hoàng Văn Hoà, thôn Bó Bả
40
15
Hình 4.10. Mối hại gỗ gia đình ông Đinh Quang Kỳ thôn Nà Pẻn
41
16
Hình 4.11. Diệt tổ mối
47
17
Hình 4.12. Phòng mối nền
48
18
Hình 4.13. Cột nhà kê trên đá tảng
48
19
Hình 4.14. Cột chôn trực tiếp xuống nền đất
49
20
Hình 4.15. Bẫy mối cánh
51
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................. i
DANH MỤC CÁC BẢNG......................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC HÌNH ......................................................................................... iii
Phần 1. MỞ ĐẦU ......................................................................................................1
1.1. Đặt vấn đề .........................................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu đề tài ..............................................................................2
1.3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .........................................................................2
1.4. Ý nghĩa của đề tài .............................................................................................3
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu .........................................................3
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn ...............................................................................3
Phần 2. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................................4
2.1. Đặc điểm sinh học của mối hại gỗ ....................................................................4
2.1.1. Tổ mối ........................................................................................................4
2.1.2. Thức ăn của mối .........................................................................................6
2.1.3. Hình thái và chức năng các dạng mối ........................................................7
2.1.4. Sự phân chia và hình thành tổ mối ...........................................................10
2.1.5. Cách thức xâm nhập của mối vào công trình ...........................................11
2.1.6. Các yếu tố sinh thái ảnh hưởng tới mối ...................................................11
2.2. Tình hình mối hại gỗ trên thế giới và Việt Nam.............................................13
2.3. Tình hình nghiên cứu về mối hại gỗ trên thế giới và ở Việt Nam ..................16
2.3.1. Tình hình nghiên cứu về mối hại gỗ trên thế giới ....................................16
2.3.2. Tình hình nghiên cứu mối hại gỗ ở Việt Nam .........................................18
2.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu ......................................................................20
2.4.1. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................20
2.4.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .........................................................................21
Phần 3. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......23
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ......................................................................23
v
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ......................................................................23
3.3. Nội dung nghiên cứu ……………………………………………………….23
3.4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................23
3.4.1. Phương pháp thu thập tài liệu ...................................................................23
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu ...................................................................23
3.4.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu ...................................................24
3.4.4.Phương pháp đánh giá mức độ mối hại .....................................................25
Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................................28
4.1. Lịch sử phòng trừ mối hại công trình nhà sàn tại xã Cẩm Giàng – huyện Bạch
Thông- tỉnh Bắc Kạn .............................................................................................28
4.1.1. Gỗ sử dụng trong các công trình nhà sàn .................................................28
4.1.2. Lịch sử phòng trừ mối hại công trình nhà sàn ..........................................29
4.2. Thực trạng trạng mối hại gỗ trong các công trình nhà sàn tại xã Cẩm Giàng –
huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc ...............................................................................31
4.3. Kinh nghiệm phòng trừ mối của địa phương ..................................................43
4.4. Giải pháp khắc phục và kế hoạch phòng trừ mối hại gỗ tại địa phương ........45
4.4.1. Giải pháp khắc phục tình trạng mối hại gỗ ..............................................45
4.4.2. Kế hoạch phòng trừ mối hại gỗ tại địa phương ........................................46
4.4.3. Các phương pháp phòng trừ mối có thể áp dụng tại địa phương .............47
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ...........................................................52
5.1. Kết luận ...........................................................................................................52
5.2. Khuyến nghị ....................................................................................................52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................54
vi
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Mối (Isoptera) là một loại côn trùng xã hội đa hình thái. Do sự chuyển hóa về
chức năng, mối phân hóa thành các dạng khác nhau về hình dạng và cấu tạo cơ thể:
mối vua, mối chúa, mối cánh, mối lính, mối thợ trong cùng một đàn. Mối sinh sản
là các dạng mối có khả năng sinh sản như mối cánh trưởng thành, mối chúa, mối
vua. Mối vô sinh là các dạng không có khả năng sinh sản hoặc cơ quan sinh dục đã
bị tiêu giảm như mối lính, mối thợ (Trần Công Loanh và cs, 1997)[5].
Là côn trùng bộ cánh đều, cơ thể mối gồm 3 phần: đầu, ngực, bụng với ranh
giới rõ rệt, dính nhau bằng các tấm màng đệm, vỏ cơ thể có cấu tạo cutin rắn chắc
nhưng rất mềm dẻo ở phần giữa các đốt và các phần phụ chuyển động. Chúng phân
bố ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, hàng năm gây thiệt hại rất lớn cho nhiều
loại cây trồng và cho các công trình kiến trúc, kho tàng, đê điều...(Tại Ấn Độ, ước
tính hàng năm trị giá số cây cối bị mối làm hại tới 280 triệu rupi)..
Trong tự nhiên thuộc địa của loại côn trùng này có thể chứa hàng ngàn đến
hàng triệu con mối, mối ngầm có liên quan chặt chẽ với môi tường sống (đất),
chúng có thể xác định được vị trí nước và thức ăn (ví dụ: gỗ và các vật liệu chứa
cellulose khác). Mối có thể công phá bất cứ loại gỗ gì trên đường đi của chúng và
hậu quả chúng để lại là những thanh gỗ, miếng gỗ còn lại những lớp vỏ bên ngoài
còn bên trong thì rỗng không. Mối di chuyển trên mặt đất hoặc bất cứ nơi nào chúng
đi được bằng cách là chúng tạo một đường (ống đất) để chúng đi và cũng là nơi để
chống lại những kẻ thù tự nhiên chẳng hạn như kiến, ngoài ra đường (ống đất) đó
còn giúp chúng chống lại tác động làm khô do không khí, vì mối rất dễ bị khô và do
đó mối rất phụ thuộc vào môi trường ẩm ướt (Lê Văn Nông, 1999)[6].
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm là điều kiện lý tưởng cho sự
phát triển cũng như sinh sản của loài mối. Chúng phân bố hầu hết trong cả nước từ
miền ngược đến miền xuôi. Cùng với khí hậu thuận lợi thì sự phát triển của các loài
thực vật đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cung cấp nguồn thức ăn cho mối bởi
2
thực vật là nguồn thức ăn chủ yếu có chứa cenllulo mà mối rất ưa thích. Chúng phá
hoại hầu hết các sản phẩm có nguồn gốc từ gỗ: giường, bàn ghế, tủ, cột nhà, cửa
gỗ….gây ra rất nhiều thiệt hại cho người dân.
Bạch Thông là một huyện của tỉnh Bắc Kạn với tổng diện tích tự nhiên
545,62km, dân số hơn 32.000 người. Huyện có nhiều công trình xây dựng, nhà cửa
làm từ gỗ đặc biệt là nhà sàn bởi dân cư sống ở đây chủ yếu là đồng bào dân tộc
như: Tày, Nùng, Dao. Trong đó có xã Cẩm Giàng hiện vẫn còn có rất nhiều ngôi
nhà sàn được xây chủ yếu từ gỗ. Qua thực tế tìm hiểu các công trình nhà cửa của
người dân hiện tại đang bị mối tấn công như: cột nhà, cầu thang, các vật dụng làm
từ gỗ khác.....tuy nhiên qua điều tra sơ bộ thì gần người dân tại địa phương vẫn
chưa nhận thức được hết tác hại của mối gây ra cho các công trình của họ và cũng
như các cách phòng trừ chúng sao cho hiệu quả. Hơn nữa hiện nay, các công trình
nghiên cứu về mối, tài liệu nói về mối còn rất ít và chưa được mọi người quan tâm.
Từ thực tế nghiên cứu để giúp nâng cao sự hiểu biết của người dân về mức độ phá
hoại và đưa ra được những biện pháp phòng trừ mối là việc làm rất quan trọng và
cần thiết hiện nay. Vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu thực trạng mối hại gỗ nhà sàn tại xã Cẩm Giàng - huyện
Bạch Thông - tỉnh Bắc Kạn”
1.2. Mục đích nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu khảo sát thực trạng mối hại gỗ nhà sàn tại xã Cẩm Giàng - huyện
Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn, từ đó làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp và lập
kế hoạch phòng trừ mối hại.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Đánh giá được thực trạng tình hình mối hại gỗ nhà sàn tại xã Cẩm Giàng –
huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn.
- Đề xuất được giải pháp và lập kế hoạch phòng trừ mối hiệu quả tại xã Cẩm
Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn.
3
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu
Rèn luyện được các kỹ năng trong học tập và nghiên cứu khoa học. Làm quen
với một số phương pháp, kỹ năng khi nghiên cứu một đề tài cụ thể.
Giúp cho sinh viên củng cố, hệ thống lại các kiến thức đã học, vận dụng bổ sung
thêm các kiến thức thực tế.
1.4.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Qua quá trình tìm hiểu và phân tích tình hình hoạt động của mối hại nhà sàn
tại xã Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn giúp:
Đánh giá và khoanh vùng được mức độ gây hại của loài mối để từ đó đề xuất
những biện pháp phòng trừ mối hiệu quả cho các sản phẩm làm từ gỗ trong các
công trình xây dựng và cách khắc phục những hậu quả mà mối đã gây ra để giảm
thiểu thiệt hại cho người dân tại xã Cẩm Giàng – huyện Bạch Thông – tỉnh Bắc Kạn
nói riêng cũng như cả nước nói chung.
4
Phần 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Đặc điểm sinh học của mối hại gỗ
Mối là tên chung dùng để chỉ một nhóm sâu hại sống có tính chất xã hội thuộc
nhiều họ khác nhau trong bộ cánh bằng (Isoptera). Mối là loài côn trùng hoạt động
ẩn náu theo đàn. Vào khoảng tháng 5 và tháng 6 hàng năm, mối trưởng thành cánh
dài từ trong tổ bay ra, sau đó thì rụng cánh rồi bò. Trong thời gian đó, mối đực tìm
mối cái giao phối ở khu vực phù hợp. Mối đực là mối chúa, chuyên gia phối. Mối
cái là mối hậu, chuyên sinh sản. Chúng là nền tảng để hình thành và xây dựng tổ
mối mới. Sau khi làm tổ 10 ngày thì mối bắt đầu đẻ trứng, một tháng sau ấu trùng ra
đời, qua vài lần lột xác thành mối thợ và mối lính (khoảng hai tháng).
Mối thường làm tổ trong thân cây hay trong đất. Mối thường sống thành
những tập đoàn lớn. Một số xây tổ ở rất cao. Mối chúa và mối vua (nhỏ hơn mối
chúa) sống ở trung tâm của tổ.
Ở Việt Nam có khoảng 100 loài mối thuộc các chi Coptotermers, Neotermes,
Clyptotermes, Odontotermes,…hằng năm, mối gây hại lớn cho các công trình kiến
trúc, đê đập, kho tang và cây trồng. Vì vậy, việc phòng trừ mối cần được quan tâm
nhằm giảm thiểu những thiệt hại do mối gây ra.
2.1.1. Tổ mối
Tổ mối được mối thợ làm từ đất trộn với nước bọt và phân. Tổ mối được bao
bọc bởi 1 lớp tường thành bên ngoài rất cứng. Giữa bức tường thành này và tổ mối
được bố trí những đường dẫn cho phép không khí có thể lưu thông được. Phần trung
tâm của tổ được chia thành vô số các phòng. Một phòng lớn được dành cho mối
chúa liên tục đẻ trứng. Những phòng khác dành để nuôi ấu trùng và nhộng mối
(Ngô Trường Sơn và cs, 2007)[12].
Ngoài ra còn có các nhà kho để đồ dự trữ và các phòng chứa chất thải. Hình
thái của tổ mối cũng rất đa dạng: hình quả lê (Macrotermes annandalei), hình tròn
5
(Odontotermes hainanensis), hình vòm, hình tháp, hình phỏng theo dạng hòm, dạng
nhà,...(Ngô Trường Sơn và cs, 2007)[9].
* Về cấu trúc tổ mối
Phía trên cùng là một lớp đất rắn chắc dày từ 30-60 cm, trong lớp này có nhiều
khoang thông khí đường giao thông . Đây là lớp đất mối dùng để che mưa che nắng
cho tổ.
Trung tâm của tổ là một khoang rộng hình quả lê. Phía trên khoang có những
cột đất giống như thạch nhũ, dưới đó là những lớp đất mỏng xếp chồng lên nhau tạo
thành nhiều buồng ngăn để điều hoà tiểu khí hậu và mối thợ đi lại.
Ở gần đáy tổ có một khối đất mịn to đùng bằng hai cái đĩa úp lại. Trong rỗng
có vách dày đến 1cm đó là hoàng cung nơi mối vua và mối chúa ở.
Hình 2.1. Cấu trúc tổ mối
Về phương diện chống mối, chúng ta cần quan tâm đến vị trí tổ, có thể chia ra
làm 2 dạng:
* Tổ mối ở trong gỗ
Ở nước ta, loài mối thường gặp là loài mối gỗ khô. Tổ chỉ là các hang rỗng,
chúng đục dích dắc trong gỗ, chúng ở đâu thường đùn một phần phân ra ngoài, rơi
xuống như đống cát nhỏ xíu. Căn cứ váo đặc điểm này có thể phát hiện ra chúng.
Tuy chúng ở trong gỗ song cũng đục vào sách vở, quần áo để nơi kế cận tổ. Loài
6
này mỗi tổ khoảng ba bốn trăm con, chỉ cần phát hiện tổ và dùng sơ ranh tiêm thuốc
diệt mối bơm trực tiếp vào tổ là diệt được (An Sinh)[18].
* Tổ mối có liên quan đến đất và nƣớc
Tất cả các loài mối khác khi kiến trúc tổ đều có nhu cầu đất hoặc nước ở ngoài
tổ, phần lớn các loài có cấu trúc một hệ thống tổ gồm một tổ chính và nhiều tổ phụ
để dung nạp được số lượng cá thể lớn, tổ chính có mối vua và mối chúa, có nhiều
loài tổ ở sâu trong lòng đất đến 1-2m.
Hệ thống tổ của loài mối nhà vừa ở dưới đất nền và trong các cấu kiện phía
trên, đôi khi nằm hoàn toàn phía trên, song vẫn có đường nối với nguồn nước.
Đối với đê đập, độ rỗng của tổ mối có ảnh hưởng đến độ bền vững của công
trình nên cần thiết phải phát hiện tổ để xử lý, kinh nghiệm lâu đời của nhân dân ta là
vào mùa xuân, phát hiện thấy nấm vũ hoá là đào được tổ, các đối tượng khác, độ
rỗng của tổ ít ảnh hưởng.
2.1.2. Thức ăn của mối
Mối là loại côn trùng đa thực, thức ăn của mối chủ yếu có nguồn gốc từ thực
vật, các loại nấm được cấy trong tổ, có khi chúng ăn cả da của đồng loại lột xác, thi
thể của đồng loại trong một tổ mối, thậm chí khi hiếm thức ăn lên đến cực điểm
chúng nuốt cả trứng mối và mối non, nhưng đó không phải là nguồn thức ăn chủ
yếu của chúng. Trong quần thể mối, mối thợ đảm nhận nhiệm vụ rất quan trọng này.
Quá trình dinh dưỡng của mối diễn ra như sau: đầu tiên thức ăn do mối thợ nuốt vào
trong cơ thể, sau đó mối thợ đem thể dịch thức ăn đã được tiêu hoá hoặc tiêu hoá
một phần trong cơ thể ựa ra đường miệng hoặc bài tiết ra đường hậu môn để bón
cho mối vua, mối chúa, mối lính, mối non mà bản thân chúng không lấy được thức
ăn, giữa những mối thợ cũng bón lẫn cho nhau bằng miệng. Khi thành phần dinh
dưỡng trong thức ăn ở trong ruột bị hấp thụ hết thì bài tiết ra những viên phân dùng
làm nguyên liệu xây tổ mối. Quá trình tiêu hoá thức ăn diễn ra như vậy là nhờ trong
ruột mối có vi sinh vật cộng sinh (Protozoa hay Bacteria) có khả năng phân huỷ
xenlulo thành monoxacarit là sản phẩm mà mối có thể hấp thụ được.
7
Hiện nay người ta phát hiện được hơn 300 loại vi sinh vật trong ruột mối (P.P.
Grassi 1950). Các vi sinh vật này tiết ra men phân giải xenlulose để cung cấp chất
dinh dưỡng cho mối và bản thân nó.
2.1.3. Hình thái và chức năng các dạng mối
Cơ thể mối gồm 3 phần: đầu, ngực, bụng với ranh giới rõ rệt, dính nhau bằng
các tấm màng đệm, vỏ cơ thể có cấu tạo cutin rắn chắc nhưng rất mềm dẻo ở phần
giữa các đốt và các phần phụ chuyển động (Thái Trần Bái )[1].
Do sự chuyển hóa về chức năng, mối phân hóa thành các dạng khác nhau về
hình dạng và cấu tạo cơ thể: mối vua, mối chúa, mối cánh, mối lính, mối thợ trong
cùng một đàn. Mối sinh sản là các dạng mối có khả năng sinh sản như mối cánh
trưởng thành, mối chúa, mối vua, mối giống. Mối vô sinh là các dạng không có khả
năng sinh sản hoặc cơ quan sinh dục đã bị tiêu giảm như mối lính, mối thợ.
* Mối vua và mối chúa
Hình 2.2 . Mối chúa và mối vua
Mối chúa và mối vua (nhỏ hơn mối chúa) sống ở trung tâm của tổ. Mỗi đàn
mối chỉ có một mối chúa, cá biệt có tới 2, 3 mối chúa.
Mối chúa trưởng thành có một cơ thể khổng lồ giống như khúc lòng lợn chiều
dài 10cm và là một cỗ máy đẻ thực sự. Đôi khi, nó còn đẻ tới hơn 30 trứng trong 1
phút. Nó không thể cử động được và được các mối thợ, dài khoảng 4mm chăm sóc
và nuôi dưỡng (Lê Văn Nông và cs)[7].
8
Mối chúa bắt đầu cuộc đời của mình như một con cái giống, với những chiếc
cánh. Cùng với nhiều con cái khác và những con đực có cánh nó bay ra khỏi tổ, nơi
nó đã sinh ra. Đó là sự chia đàn. Nó hạ cánh ở một nơi nào đó, hai cánh bị mất đi và
kết đôi với một con đực. Như vậy, chúng đã tạo ra được một tập đoàn mới. Sau lần
cặp đôi và đẻ trứng đầu tiên, mối chúa chỉ đẻ 5 – 25 trứng, tùy theo loài. Sức sinh
sản này tăng dần theo tuổi. Mối chúa có thể đẻ hàng triệu trứng một ngày đêm,
trứng mối có màu có màu trắng, chiều dài từ 0,4 – 2mm, tùy từng loại mối mà trứng
có hình dạng khác nhau. Một số loài có khả năng duy trì tuổi thọ của đàn tới gần
100 năm (Lê Văn Nông và cs)[7].
Mối vua có chức năng cơ bản là thụ tinh cho mối chúa. Mối vua cũng được
mối thợ chăm sóc chu đáo nhưng hình dạng và kích thước của nó vẫn giữ nguyên
hình thái của mối cánh đực ban đầu sau khi rụng cánh, chỉ có mắt là rất to. Cũng
như mối chúa trong tổ mối thường chỉ có một mối vua, nhưng cũng có tổ có tới 3, 4
mối vua, thậm chí có tới 5 mối vua.
* Mối giống
Hình 2.3. Mối cánh
Mối giống có cả mối đực và mối cái. Có 2 loại mối giống là: mối giống có
cánh và mối giống không cánh.
Mối giống có cánh có 2 đôi cánh màng dài bằng nhau và dài hơn thân, khi
không bay có xếp bằng dọc trên thân. Trên lưng có màu nâu đen, bụng màu trắng
đục. Đây là thành phần chiếm số lượng đông trong quần thể, chuyên làm nhiệm vụ
9
xây dựng các tổ mới, các cá thể này có hệ sinh sản phát triển (Trần Công Loanh và
cs, 1997)[5].
Mối giống không cánh về hình dạng chỉ khác mối giống có cánh là không có
cánh hoặc cánh ngắn, số lượng ít. Loại này luôn luôn ở trong tổ và được gọi là mối
bổ sung vì trong trường hợp mối vua và mối chúa cũ già yếu hoặc chết đi vì lý do
nào đó thì lợp tức những con mối này được nuôi dưỡng đặc biệt để trở thành mối
vua và mối chúa (Trần Công Loanh và cs, 1997)[5]
* Mối lính
Hình 2.4. Mối lính
Mối lính chiếm khoảng 10% số cả thể trong đàn, có bộ phận đầu và hai hàm
răng phát triển. Đầu có màu nâu hồng, có hạch độc, mỗi khi chiến đấu tiết ra chất
sữa mầu trắng có tính axít. Chức năng của mối lính là canh phòng, báo động, trinh
sát hộ vệ mối lao động đi kiếm ăn, khi gặp những tiếng động bất thường như có
tiếng động mạnh, sự thay đổi cường độ ánh sáng, mùi lạ hoặc đường mui bị phá vỡ
mối lính xông ra nơi có sự cố đồng thời báo động cho quần thể. Một con báo động,
những con khác truyền tiếp, tạo ra những tiếng rào rào, tai ta có thể nghe được. Đặc
điểm này được lợi dụng để phát hiện mối đang hoạt động. Các cá thể mối lính có hệ
sinh sản tiêu và chức năng chủ yếu của chúng là bảo vệ tổ chống kẻ thù [18].
10
* Mối thợ
Hình 2.5. Mối thợ
Mối thợ chiếm số lượng lớn nhất trong đàn và chúng thường nhỏ hơn các
thành viên khác trong đàn. Chức năng chủ yếu của mối thợ là xây tổ, làm đường
mui vận chuyển thức ăn, ấp trứng, chăm sóc nuôi dưỡng mối chúa, mối vua, mối
non, mối lính, cây nấm, điều hoà khí hậu trong tổ, thông tin giữa các cá thể mối
với nhau [18].
2.1.4. Sự phân chia và hình thành tổ mối
Chia đàn là hình thức phát triển của mối. Một tổ mối trưởng thành hàng năm
có thể sinh ra từ vài trăm đến hàng vạn mối giống. Khi mối giống có cánh đã xuất
hiện, gặp điều kiện thời tiết thuận lợi mối thợ đục một lỗ vũ hoá ở trên đỉnh tổ cho
mối cánh bay ra chia đàn.
Mối ở nước ta thường chia đàn từ cuối tháng 3 đến cuối tháng 8, cá biệt có
một số loài chia đàn đến tháng 12, có đàn chia vào lúc trời mưa dông, có loài chia
đàn vào lúc xẩm tối hay ban đêm.
Mối cánh bay ra khỏi tổ lúc đầu bay vút lên cao chừng 30m và bay xa tổ đến
hàng kilomet. Chúng bay theo hướng gió sau đó mới tập trung hạ cánh xuống mặt
đất. Mối cánh có tính xu quang mạnh nên cũng thường tập trung ở dưới ánh đèn.
Khi con cái hạ cánh xuống đất liền phát ra tín hiệu hấp dẫn con đực. Nhận
được tín hiệu mối cánh đực bay đến dung râu môi dưới cọ vào lưng mối cánh cái.
Khi thấy mối đực mối cánh lập tức tự rụng cánh và ngay sau đó mối cánh đực
cũng tự rụng cánh. Mối cái đi trước mối đực cắn đuôi theo sau chúng không rời
nhau một bước. Chúng dẫn nhau đi tìm nơi thích hợp để xây tổ mới.
11
Khi xây tổ xong chúng bắt đầu giao phối và đẻ trứng. Số lượng trứng ban đầu rất ít
và đa phần trứng nở ra thành mối thợ để xây tổ.
Sau này tổ mối ngày một phát triển, bụng của mối cái to dần số lượng trứng đẻ ra
ngày càng nhiều. Như vậy con cái trở thành mối chúa và con đực trở thành mối
vua (Trần Công Loanh và cs, 1997)[5].
2.1.5. Cách thức xâm nhập của mối vào công trình
Mối thường xâm nhập vào công trình theo 3 cách thức cơ bản sau:
1. Xâm nhập từ dưới đất lên và từ các vùng lân cận vào công trình: Đây là
cách xâm nhập phổ biến nhất và hay gặp nhất. Theo cách xâm nhập này, mối sẽ từ
các tổ mối có sẵn dưới nền công trình hoặc từ các khu vực xung quanh xâm nhập
vào công trình thông qua các hệ thống đường đất liên tục nối từ tổ mối đến nơi có
nguồn thức ăn.
2. Xâm nhập bằng đường không: Tức là khi mối trưởng thành (khoảng 3 – 4
năm tuổi), chúng mọc cánh và bay ra ngoài tổ (còn gọi là hiện tượng vũ hóa –
thường xuất hiện khi trời sắp mưa hoặc giông). Sau khi rụng cánh, một trongsố
cặp mối đó sẽ kết thành đôi với nhau và chui vào những nơi kín đáo như khuôn,
khe cửa, khu vực ẩm thấp… ở trên các tầng để thiết lập tổ mối mới.
3. Xâm nhập qua đường lây nhiễm: tức là mối xâm nhập vào các công trình
qua việc vận chuyển các đồ dùng đã bị nhiễm mối như: bàn, ghế, giờng, tủ, khung
cửa.. từ nơi này đến nơi khác của con người [17].
2.1.6. Các yếu tố sinh thái ảnh hưởng tới mối
* Ảnh hƣởng của nhiệt độ
Nhiệt độ thích hợp cho đa số các loài mối ở Việt Nam là khoảng từ 25-30°C
và khi nhiệt độ tăng lên đến 50°C thì tất cả các loài mối đều chết. Mùa hè mối hoạt
động mạnh hơn mùa đông.
Khi nhiệt độ không khí thay đổi ngoài khả năng tự điều tiết tổ mối còn dựa
vào cấu trúc của tổ và các phương pháp khác để điều tiết nhiệt độ của tổ.
12
Vd: khi nhiệt độ không khí trở nên lạnh mối không đi kiếm ăn xa và thường
từ tổ phụ tập trung về tổ chính.Vào những ngày nắng ấm chúng còn thay nhau lên
mặt đất sưởi ấm rồi trở về tổ làm cho tổ nóng lên.
Ngược lại khi nhiệt độ của không khí tăng cao mối thường phân tán sang tổ
phụ, đi kiếm ăn xa, mở nhiều hang thông khí. Nhờ đó nhiệt độ trong tổ mới ổn
định (Trần Công Loanh và cs, 1997)[5].
* Ảnh hƣởng của độ ẩm
Các loài mối khác nhau thì yêu cầu độ ẩm và nước khác nhau. Độ ẩm của
không khí trong tổ mối của đa số các loài mối thường từ 85-88%, vì vậy mối rất
cần nước. Thiếu nước mối thường chui xuống hàng chục mét để tìm mạch nước
ngầm hoặc mở đường lấy nước ở các cây sống.
Trong công trình xây dựng việc nghiên cứu loại trừ các nguồn nước ứ đọng
có ý nghĩa tích cực trong việc phòng trừ mối (Trần Công Loanh và cs, 1997)[5].
Mối thường ưa sống ở những nơi ẩm ướt, độ ẩm thích hợp nhất cho mối hoạt
động là từ 80-90%. Nếu độ ẩm quá cao hay quá thấp thì mối sẽ chết (Đặng Kim
Tuyến, 2008)[11].
* Ảnh hƣởng của ánh sáng
Mối không phải là sinh vật sợ ánh sáng nhưng khi cường độ và phương thức
chiếu sáng đột ngột thì mối có phản ứng dương hoặc âm với ánh sáng.
Ở nước ta về mùa hè có loài mối bò hàng đàn nối đuôi nhau trên mặt đất rừng
ngay cả lúc mặt trời nắng hay có loài mối ở trong bóng tối vẫn đắp đường mui.
Mối cánh của tất cả các loài mối đều có tính xu quang mạnh nhất là ánh sáng
tia tử ngoại (Trần Công Loanh và cs, 1997)[5].
* Ảnh hƣởng của đất
Đất là môi trường sống của nhiều loại mối, cho nên thành phần tính chất và
cấu tượng của đất ảnh hưởng rất lớn đến phân bố và hoạt động của mối.
Có loài thường sống và làm tổ trong đất là các loài thuộc họ Termitidae.Có
loài vừa sống ở trong đất vừa có khả năng sống được ở trên cao không liên quan gì
13
với đất như các loài mối thuộc giống Relicutitermes, Coptotermes thuộc họ
Rhinotermitidae.
Nói chung đất ngập mặn, đất sét, đất ngập nước theo mùa không thích hợp
với mối.
Phần lớn các khoáng chất ở trong đất đều được mối sử dụng để xây tổ.
Nhưng thực tế cho thấy khi bón phân đạm hoặc lân cho cây trồng thường làm cho
mối chết hàng loạt. Ngược lại khi bón phân chuồng lại có tác dụng thu hút mối
(Trần Công Loanh và cs, 1997)[5].
Đất ảnh hưởng đến mối thông qua các yếu tố sau: Độ ẩm của đất (ảnh hưởng
khả năng hoạt động của mối, đến kết cấu tổ mối, độ sâu của tổ,…..), nhiệt độ của
đất (ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoạt động của mối, ngoài ra nhiệt độ đất
còn ảnh hưởng gián tiếp đến mối thông qua làm biến đổi thành phần cơ giới đất,
độ ẩm đất, thực vật che phủ…..), lớp thảm mục rừng (nguồn thức ăn chính và là
nơi cư trú của mối và ảnh hưởng gián tiếp đến mối thông qua làm thay đổi nhiệt độ
và độ ẩm của đất), tính chất lý hoá của đất (mối thường sống ở nơi có đất thịt trung
bình và độ PH trung bình (Đặng Kim Tuyến, 2008)[11].
2.2. Tình hình mối hại gỗ trên thế giới và Việt Nam
Theo hệ thống phân loại côn trùng thì mối là côn trùng nguyên thuỷ thuộc bộ
cánh bằng Isoptera, tồn tại đến 200 triệu năm (Zalessky, 1937) nên người ta nói
rằng mối là tổ tiên của lớp côn trùng. Phương thức sinh sống của mối Isoptera là
côn trùng xã hội sống thành quần thể.
Mối là côn trùng đa hình thái, có đời sống xã hội chặt chẽ, sống kín đáo trong
đất và trong các giá thể bằng gỗ, gây thiệt hại lớn cho ngành lâm nghiệp, thuỷ lợi,
xây dựng, kiến trúc. Theo thống kê chưa đầy đủ, ở nước ta mỗi năm mối gây thiệt
hại hàng trăm tỷ đồng (Nguyễn Chí Thanh, 1999). Không chỉ gây hại ở Việt Nam
mà các nước trên thế giới mối cũng đã gây ra những thiệt hại rất lớn. Mối phân bố
tập trung ở khu vực châu Phi, châu Mỹ, châu Úc, châu Á, các nước vùng Địa
Trung Hải, Bắc Mỹ giáp giới với Canada, trong đó châu Phi là đại bản doanh phân
bố các loài mối (Thái Bang Hoa, 1964). Trung Quốc nhất là vùng Hoa Nam có
14
đến 80 % số nhà cửa kho tàng bị mối phá hoại. Ở Việt Nam mối không những xâm
nhập vào nhà tranh vách nứa, mà còn xâm nhập vào những nhà xây dựng bê tông
cốt thép như Khách sạn Daewoo 18 tầng, Khách sạn Hà nội 11 tầng, Bệnh viện nhi
Thụy Điển 7 tầng, các biệt thự cổ, các thư viện… để khắc phục hậu quả do mối
gây ra, mỗi công trình cần kinh phí từ 3 – 4 triệu đến mấy chục triệu để sửa chữa,
đặc biệt các vật tư nguyên liệu quý hiếm, các thư tịch cổ, các hiện vạt bảo tàng có
giá trị khi mối đã phá hoại thì không thể tính bằng tiền bạc được (Đinh Thị Hà,
2012 )[4]. Ngoài các công trình xây dựng mà mối phá hoại ra mối còn phá hoại
các cây công nghiệp như : chè, cà phê, ca cao, cao su, mía, bông.. làm cho cây chết
hoặc phát triển kém ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
Sự phá hại của mối thường tập trung chủ yếu là các công trình xây dựng, các
loại vật liệu có nguồn gốc cellulose được sử dụng trong các công trình đê đập, hệ
thống các kho tàng, thư viện, các công trình đê đập, thậm chí cả hồ bơi… Ngoài ra
mối còn phá hại nghiêm trọng tới các loại cây công nghiệp như: cao su, chè, xoài,
nhãn, vải… và nhiều loại cây cảnh có giá trị kinh tế cao làm ảnh hưởng trực tiếp
tới đời sống.
Ở Việt Nam giống Coptotermes phá hoại nặng nhất các công trình kiến trúc
và kho tàng, trong đó loài mối nhà C.Formosanus Shiraki là loại phá hoại điển
hình. trong điệu kiện nhiệt đới gió mùa hiện tượng mối vũ hoá và bay ra từ cuối
tháng 3 đầu tháng 4 hàng năm khi nhiệt độ môi trường từ 20 – 26 °C độ ẩm 8592%. Từ 17 – 19 h vào lúc trời tối và thường sắp có giông gió. Đây là thời điểm
mà lượng mối cánh hướng theo ánh đèn xâm nhập vào công trình nhà cửa để làm
tổ. Các công trình xây dựng kéo dài nhiều năm mối dễ xâm nhập. Nếu không áp
dụng kỹ thuật phòng mối, nhiều công trình chỉ sau một năm hoàn thành đã có mối
xuất hiện trở lại.
Các công trình xây dựng hiện nay đang có nguy cơ tiềm ẩn về sự phá hoại
của loài mối. Mỗi đối tượng nhà cửa, kho tàng và cây... bị các loài mối gây hại ở
mức độ khác nhau. Riêng với nhà cửa, kho tàng ở nước ta thì mức độ gây hại
nghiêm trọng nhất thuộc về các loài mối thuộc giống coptotermes (còn gọi là mối
15
gỗ ẩm), tiếp theo là các loài thuộc nhóm mối đất, tập trung trong 2 giống
Odontotermes và Macrotermes, cuối cùng là nhóm mối gỗ khô, thuộc giống
Cryptotermes. Các loài mối coptotermes làm tổ ngầm trong nền móng công trình,
trong cây, hoặc kết cấu khác của công trình, đường mui chủ yếu là đơn lẻ, chúng
hoạt động ở nhiều tầng cao thấp khác nhau của công trình.
Ts. Nguyễn Tân Vương - Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu phòng trừ
mối, chủ nhiệm đề tài “Nghiên cứu đánh giá hiện trạng mối hại khu phố cổ Hà Nội
và đề xuất giải pháp xử lí” cho biết: Nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát 126
ngôi nhà ở 5 tuyến phố Hàng Bạc, Hàng Quạt, Hàng Cót, Bát Sứ và Lãn Ông với
tổng diện tích khảo sát là 18.950m2. Các công trình nhà cổ đều có cấu trúc mái
khung gỗ, lợp ngói mũi, sàn các tầng cũng chủ yếu được sử dụng nguyên liệu gỗ
ván. Đây là điều kiện thuận lợi để các loại mối xâm hại. Kết quả khảo sát cho thấy,
có 107 ngôi nhà (chiếm 84,92% tổng số công trình được điều tra) đang bị mối xâm
hại, trong đó có 18 công trình (chiếm 16,82%) bị mối xâm hại rất nặng, 34 công
trình (chiếm 31,78%) bị xâm hại nặng. Điều đáng lo ngại là mức độ hiểu biết của
cán bộ quản lí Khu phố cổ về vấn đề này còn hạn chế: 57% số cán bộ không đánh
giá hết khả năng mối gây hại cho các loại gỗ lim, 100% chưa hiểu đủ về đặc tính
gây hại của các nhóm mối (Báo Khoa học Phát Triển, 2014 )[2].
Đến khi Ban Quản lý di tích Hoàng Thành cho phép mở cửa đón khách tham
quan, ông Vương cũng phát hiện khu Đoan Môn, cánh cửa của một số cụm công
trình chung quanh khu điện Kính Thiên đều có mối. Ngay Khu khai quật khảo cổ
Hoàng thành (18 đường Hoàng Diệu) cũng đứng trước nguy cơ bị mối càn quét vì
khai quật trên nền nhà cửa cũ nên những loài mối ký sinh trên các công trình kiến
trúc cũ sẽ có khả năng phát tán [16].
Mối gỗ khô chủ yếu tấn công các loại gỗ mềm. Đối với gỗ lim, chúng chỉ ăn
được phần gỗ giác. Loài này có đủ khả năng phá hủy bề mặt các cột, họa tiết hoa
văn cổ như ở Chùa Nả (Ba Vì), Đình Trinh Tiết (Mỹ Đức), Đình Cống Xuyên
(Thường Tín). Ngược lại, nhóm mối trồng nấm chỉ ưa thích các loại gỗ đã bị ải, do
đó, chúng thường chỉ tấn công lớp gỗ bên ngoài, ít phá hủy kết cấu chịu lực của
16
công trình. Nhóm mối gỗ ẩm lại ăn ngầm trong tường, trong gỗ. Do sức phá hoại
lớn, nên chúng gây hại cho nhiều công trình di tích, nhiều công trình bị nhóm mối
này phá hủy hầu như toàn bộ cấu kiện [16].
2.3. Tình hình nghiên cứu về mối hại gỗ trên thế giới và ở Việt Nam
2.3.1. Tình hình nghiên cứu về mối hại gỗ trên thế giới
Trên thế giới người ta đã giám định đựợc trên 2700 loài, giữa các loài chỉ có
sự khác nhau về hình thái, về số lượng cá thể, về cấu trúc tổ…song đều giống nhau
là chúng sống quần thể. Mỗi quần thể đều có sự phân công theo chức năng. Ví dụ
loài mối nhà (coptermes, formosanus shir.), tổ mối trưởng thành có trên 10 triệu cá
thể (Lê Văn Nông và cs)[7].
Theo tài liệu của Emerson (1952), trên thế giới đã phát hiện được 1.855 loài
mối, trong đó có 1.762 loài hiện nay đang tồn tại và ước tính có 93 loài hoá thạch.
Theo bản danh lục côn trùng và mối của Snyder, từ năm 1952-1963, trên thế giới
đã phát hiện thêm 150 loài mối, đưa tổng số loài mối lên trên 2.000 loài, trong đó
bao gồm cả hoá thạch (Lê Văn Nông, 1999)[6].
Giữa thế kỷ 20 đã có nghiên cứu về diệt mối gây hại lâm sản trong các công
trình xây dựng bằng phương pháp lây truyền để diệt mối tận tổ. Từ việc phát hiện
ra đặc tính của mối: chúng mớm thức ăn cho nhau, liếm lẫn nhau, một số nhà khoa
học của ấn Độ, Inđônexia đã nghĩ đến biện pháp dùng các chất hoá học xử lý lên
con mối, nhờ đặc tính sinh học nói trên, mối sẽ truyền chất độc về tận tổ, tận
hoàng cung của mối chúa. Feytand (1949) cho biết cụ thể thêm rằng các hợp chất
có gốc là asenic hoặc fluo ở dạng bột mịn có thể dùng làm thuốc để gây cho mối
chết bằng cách lây truyền.
Tuy nhiên, những phát hiện đó mới có thể chỉ dừng lại ở ý tưởng, đến năm
1958, Lý Thuỷ Mỹ ở Quảng Đông Trung Quốc đã tiến thêm một bước có ý nghĩa
thực tiễn hơn. Ông đã dùng hỗn hợp hoá chất dạng bột mà thành phần chủ yếu là
asenic (As2O3) chiếm 80%, phát hiện các tổ mối chính, phun thuốc trên đỉnh tổ
mối sẽ chết cả tổ, ông đã đào 600 tổ để kiểm tra hiệu quả diệt mối. Tuy vậy, giải
pháp này còn nhiều hạn chế, việc tìm tổ chính chỉ có thể thực hiện được ở nhà cấp