Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Xã hội học pháp luật đề 6: Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức liên hệ thực tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.58 KB, 12 trang )

Mục Lục
Mục Lục.................................................................................................................1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ........................................................................................3
I.CÁC KHÁI NIỆM CHUNG...........................................................................3
1.Thế nào là chuẩn mực pháp luật?...............................................................3
2.Đạo đức là gì? Thế nào là chuẩn mực đạo đức?.........................................3
II.ĐẶC ĐIỂM CỦA CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO
ĐỨC..................................................................................................................4
1.Chuẩn mực pháp luật..................................................................................4
2.Chuẩn mực đạo đức....................................................................................5
III.MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT VÀ CHUẨN MỰC
ĐẠO ĐỨC.........................................................................................................7
IV.LIÊN HỆ THỰC TẾ Ở VIỆT NAM............................................................9
KẾT THÚC VẤN ĐỀ.........................................................................................11
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................12
2. Other - Mối liên hệ giữa pháp luật với đạo đức, liên hệ với thực tế ở Việt
Nam, www.wattpad.com/1425393..............................................................12
3.Bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức , tailieuhay.com.............12
4.Yahoo! Hỏi & Đáp - Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật?................12
5. Tài liệu Bàn về mối quan hệ giưã pháp luật và đạo đức,docx.vn............12
6. NVP: Chuẩn mực và luật pháp, nguyenvanphu.blogspot.com................12

1|Page


ĐẶT VẤN ĐỀ
Các chuẩn mực xã hội có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã hội, được
hình thành từ nhu cầu, đòi hỏi cần có một công cụ, phương tiện điều chỉnh các
quan hệ xã hội, chịu sự chi phối mạnh mẽ của pháp luật nhưng các chuẩn mực
xã hội này cũng có tác động không nhỏ trở lại pháp luật. Như chúng ta đã biết,
pháp luật và đạo đức đều là những bộ phận của hình thái của ý thức xã hội.


Giữa chúng thường có những mối quan hệ, tác động qua lại, đan xen lẫn nhau,
ảnh hưởng lẫn nhau dù bản thân chúng có những điểm riêng biệt. Chính mối
quan hệ này đã góp phần thể hiện bản chất của pháp luật. Một trong những mối
quan hệ mà chúng ta phải nói tới là mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp luật và
chuẩn mực đạo đức.
Bài viết này xin đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ giữa chuẩn mực pháp
luật và chuẩn mực đạo đức và liên hệ thực trong thực tế hiện nay. Do hiểu biết
và phạm vi tìm hiểu còn hạn hẹp nên bài viết không tránh khỏi những lỗi sai. Vì
vậy, em mong được sự thong cảm và góp ý từ phía thầy cô bộ môn.

2|Page


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.

CÁC KHÁI NIỆM CHUNG
1.

Thế nào là chuẩn mực pháp luật?

Pháp luật (Luật pháp) dưới góc độ luật học được hiểu như là tổng thể
các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận,
thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng
các biện pháp giáo dục, thuyết phục, và cưỡng chế.
Chuẩn mực pháp luật là tổng thể các quy tắc xử sự có tính bắt buộc
chung, do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp cầm
quyền, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp giáo dục, thuyết
phục, và cưỡng chế.
2.


Đạo đức là gì? Thế nào là chuẩn mực đạo đức?
Đạo đức là toàn bộ quan niệm về thiện ác, lương tâm, danh dự, trách

nhiệm, về long tự trọng, về công bằng hạnh phúc,…và những quy tắc xử sự
hình thành trên cở sở ý niệm, quan điểm đó đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử
cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội trong xã hội.
Chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với
hành vi của con người, trong đó xác lập những quan điểm, quan niệm chung về
công bằng và bất công, về cái thiện và cái ác, về lương tâm, danh dự, trách
nhiệm và những phạm trù khác thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.

3|Page


II.

ĐẶC ĐIỂM CỦA CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT VÀ

CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC
1.

Chuẩn mực pháp luật
Dưới góc nhìn của nhiều nhà xã hội học thì pháp luật thường được tiếp

cận nghiên cứu với tư cách là một loại chuẩn mực xã hội. Vì vậy, tính chuẩn
mực của pháp luật là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tính chuẩn
mực của pháp luật nói lên những giới hạn cần thiết mà nhà nước quy định để
mọi chủ thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ cho phép. Không thể có
chuẩn mực chung chung, trừu tượng, mà nó phải thể hiện ra thành những quy

tắc, yêu cầu cụ thể dưới dạng các quy phạm pháp luật. Chuẩn mực pháp luật là
quy tắc điều chỉnh các hành vi; vì vậy, nếu không dặt ra các quy phạm pháp luật
thì sẽ không có căn cứ pháp lý để đánh giá hành vi nào là hợp pháp, hành vi nào
là bất hợp pháp.
Chuẩn mực pháp luật khác với các loại chuẩn mực khác ở một điểm cơ
bản là nó mang tính cưỡng bức nhà nước. Các chuẩn mực xã hội khi được nhà
nước thừa nhận, sử dụng và đảm bảo bằng khả năng cưỡng bức, sẽ trở thành
chuẩn mực pháp luật. Nếu nhà nước không còn thừa nhận và thực hiện, áp dụng
các chuẩn mực đó nữa thì nó sẽ trở nên vô vị và mất đi lợi ích của một chuẩn
mực pháp luật.
Chuẩn mực pháp luật được thực hiện chừng nào nó còn phù hợp với
các quan hệ xã hội và lợi ích của giai cấp thống trị nảy sinh trong các quan hệ
này. Chuẩn mực pháp luật nào không còn phản ánh đúng quan hệ xã hội nữa thì
nhà nước tước mất của nó sức mạnh hoặc thay đổi nó về mặt hình thức. Nếu
chuẩn mực pháp luật thể hiên nhu cầu xã hội thì đứng đằng sau nó là chính
quyền nhà nước với nhiệm vụ bảo vệ hệ thống chính trị, phù hợp với các quan
hệ xã hội ấy, chuẩn mực tạo thành hành vi phù hợp với pháp luật. Sự thực hiện
phổ biến tương ứng với các quan hệ xã hội thống trị đồng thời cũng là tính
4|Page


chuẩn mực. Như vậy tính hiệu lực của chuẩn mực pháp luật dựa trên không chỉ
ý chí, mà cả thực tế xã hội, không chỉ trong sự xuất hiện mà cả trong việc tiếp
tục thực hiện chuẩn mực đó nữa.
2.

Chuẩn mực đạo đức

Trong cuộc sống, con người luôn thực hiện các hoạt động nhằm thỏa
mãn nhu cầu, lợi ích nhất định. Dù được tự do thực hiện các hoạt động đó theo

ý muốn cá nhân nhưng con người vẫn phải đặt mình trong các nhóm xã hội
hoặc xã hội nói chung, tuân theo những quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của những
người xung quanh để định hướng hành động của mình.
Vô hình chung, chính con người với ý chí chung của nhóm xã hội, giai
cấp, tầng lớp xã hội,…đã xác lập một hệ thống các quy tắc, đòi hỏi đối với hành
vi của một cá nhân hay một nhóm xã hội. Từ đó, hình thành nên hệ thống các
chuẩn mực xã hội.
Chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội
đối với mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác
về tính chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không
được phép hay cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người,
nhằm củng cố, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã
hội.
Chuẩn mực đạo đức là loại chuẩn mực xã hội bất thành văn. Chuẩn mực
đạo đức không được ghi chép lại trong văn bản mà thường được củng cố, giữ
gìn và phát huy vai trò, hiệu lực của nó thông qua con đường truyền miệng,
thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân; được củng cố, tiếp thu và lưu truyền từ
đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Chuẩn mực đạo dức thường mang tính giai cấp, mặc dù tính giai cấp
của nó không thể hiện mạnh mẽ, rõ nét như tính giai cấp của chuẩn mực pháp
luật. Tính giai cấp của chuẩn mực đạo đức thể hiện ở chỗ, nó được sinh ra cũng
5|Page


là nhằm để củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu, lợi ích vật chất, tinh
thần của giai cấp này hay giai cấp khác trong một xã hội nhất định.
Chuẩn mực đạo đức được đảm bảo tôn trọng và thực hiện thực tế trong
xã hội là nhờ vào hai nhóm yếu tố: khách quan và chủ quan



Các yếu tố chủ quan là các yếu tố tồn tại, thường trực trong ý thức,

quan điểm của mỗi cá nhân, chí phối và điều khiển hành vi của họ, bao gồm:
Thứ nhất, về những thói quen, nếp sống trong sinh hoạt hằng ngày của
mỗi người, chúng được lập đi lặp lại nhiều lần trong quá trình xã hội hóa cá
nhân, trở thành cái thường trực trong mỗi người và điều khiển hành vi đạo đức
của họ một cách tức thời.
Thứ hai, sự tự nguyện, tự giác của mỗi nghười trong việc thực hiện hành
vi đạo đức phù hợp với các quy tắc của chuẩn mực đạo đức.
Ba là, sức mạnh nội tâm, chịu sự chi phối của lương tâm con người.
Lương tâm của điều chỉnh hành vi của con người. Một hành vi vi phạm chuẩn
mực đạo đức có thể không bị pháp luật trừng phạt nhưng nó lại bị lương tâm chi
phối, bị lương tâm “ cắn rứt”.


Các yếu tố khách quan là những yếu tố tồn tại bên ngoài ý thức con

người, nhưng lại luôn giữ vai trò chi phối, điều chỉnh hành vi đạo đực của họ,
bao gồm:
Thứ nhất, đó là sự tác động, ảnh hưởng của các thuần phong, mĩ tục
trong xã hội, hành vi hợp đạo đức của những người xung quanh tới ý thức và
hàh vi của mỗi cá nhân. Đây là biểu hiện của tâm lý bắt chước. Tâm lý bắt
chước thúc đẩy cá nhân thực hiện hành vi đạo đức đã được định hình đúng đắn,
phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Hai là, sức mạnh của dư luận xã hội trong việc định hướng và điều
chỉnh hành vi đạo đức của con người. Nó là một thứ luật bất thành văn, tác động
lên hành vi đạo đức của con người bằng cách biểu dương, khen ngợi những
6|Page



hành vi đọa đức đúng đắn, tạo áp lực, gây sức ép chống các biểu hiện tiêu cực,
phê phán, lên án những hành vi sai trái, vô đạo đức.
Như vậy, chuẩn mực đạo đức thể hiện năng lực của con người đối với
sự tự hoàn thiện và phát triển năng lực, nhân cách của mình.

III.

MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUẨN MỰC PHÁP LUẬT

VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC
Khi bàn về mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp
luật, chúng ta cần xuất phát từ mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa pháp luật và
đạo đức. Đạo đức là tập hợp các quan điểm, quan niệm của con người về cái
thiện và cái ác, sự công bằng và bất công, về nghĩa vụ, danh dự và các phạm trù
khác thuộc đời sống tinh thần của xã hội.Các quan điểm, quan niệm này khác
nhau, được quy định bởi đời sống vật chất xã hội; từ đó, hình thành nên một
quy tắc xử sự của con người. Khi đạo đức trở thành niềm tin nội tâm thì nó sẽ là
cơ sở cho hành vi xã hội của con người.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp đều có quan niệm
đạo đức riêng của mình; vì vậy, các quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội cũng
có nhiều loại và chúng có sự tác động qua lại lẫn nhau. Giai cấp thống trị vì
nắm quyền lực trong tay, nên có điều kiện và ưu thế để nâng các quan niệm đạo
đức của mình thành pháp luật. Do đó, pháp luật luôn phản ánh đạo đức của giai
cấp cầm quyền. Tuy nhiên, do có sự tác động qua lại của nhiều loại đạo đức của
các giai cấp khác nhau trong xã hội, nên pháp luật không thể phản ánh quan
điểm, lợi ích của các giai cấp khác nhau đó. Trong khi xây dựng và thực hiện
pháp luật, dù muốn hay không, giai cấp cầm quyền đều phải tính đến đạo đức
nhằm tạo cho pháp luật một khả năng thích ứng. Có những quy phạm pháp luật
khi đã trở nên phổ biến trong xã hội, thành yếu tố thường trực trong hành vi xã
hội của con người, sẽ trở thành quy phạm đạo đức.

7|Page


Mặc dù chịu sự tác động của đạo đức và các quy phạm xã hội khác,
nhưng pháp luật có tác động mạnh mẽ đối với đạo đức. Pháp luật có thể loại bỏ
các chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời, cải tạo các chuẩn mực đạo đức, góp phần
tạo nên những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp với tiến bộ xã hội.
Pháp luật chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định nhưng các
quy phạm đạo đức có thể truyền từ đời này sang đời khác, ăn sâu vào tiềm thức
của con người.
Chuẩn mực đạo đức và pháp luật tuy khác nhau về phạm vi tác động, cơ
chế tác động tới các quan hệ xã hội, nhưng chúng có chung mục đích điều tiết,
điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Mối quan hệ giữa chuẩn mực
đạo đức là pháp luật là mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau và bổ sung
cho nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người. Trong mối quan hệ
này, chuẩn mực đạo đức có phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã hội rộng hơn,
còn pháp luật có phạm vi điều chỉnh sâu hơn. Trong một số trường hợp, định
hướng đạo đức muốn được thực hiện một cách phổ biến trong xã hội thì phải
thông qua các quy phạm pháp luật để thể hiện. Điều đó cho thấy, ở một khía
cạnh nhất định pháp luật có ưu thế nổi trổi hơn so với chuẩn mực đạo đức. Pháp
luật không chỉ là sự ghi nhận chuẩn mực đạo đức mà còn là công cụ, phương
tiện bảo vệ chuẩn mực đạo đức một cách hữu hiệu bằng các biện pháp, chế tài
cụ thể. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc duy trì, bảo vệ và phát triển các quy
tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ trong xã hội.
Ngược lại, chuẩn mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các
quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân trong xã hội thực
hiện một hành vi pháp luật hợp pháp không phải vì họ hiệu các quy định của
pháp luật mà hoàn toàn xuất phát từ quy tắc đạo đức. Nhiều quy tắc, yêu cầu,
đòi hỏi của chuẩn mực đạo đức được nhà nước sử dụng và nâng lên thành pháp
luật. Khi xây dựng và ban hành pháp luật, nhà nước không thể không tính tới


8|Page


các quy tắc của chuẩn mực đạo đức. Vì vậy giữa chuẩn mực pháp luật và chuẩn
mực đạo đức có mối quan hệ khăng khít với nhau.

IV.

LIÊN HỆ THỰC TẾ Ở VIỆT NAM
Ở nước ta hiện nay, vị trí, vai trò, cũng như mối quan hệ giữa chuẩn

mực pháp luật và chuẩn mực đạo đức ngày càng được nhìn nhận đúng đắn, tích
cực.
Pháp luật được xây dựng trên quan điểm đạo đức của nhân dân; bởi
vậy, nó không những thể hiện được tư tưởng đạo đức cách mạng, đạo đức
truyền thống dân tộc, đạo đức tiến bộ mà còn thể hiện được ý chí, nguyện vọng
và hướng tới lợi ích của nhân dân lao động. Chẳng hạn như ở Điều 2, hiến pháp
1992 “ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân….”
Pháp luật phản ánh tinh thần nhân đạo- tư tưởng đạo đức cơ bản của
nhân dân ta. Tính nhân đạo trọng hệ thống pháp luật Việt Nam được thể hiện rất
rõ trong các quy định về chính sách xã hội của nhà nước. Nhà nước ta đã có
nhiều chính sách ưu đãi, quan tâm đặc biệt tới các thương binh, liệt sĩ, người có
công với cách mạng, người già, trẻ em không nơi nương tựa.
Đạo đức trong xã hội đã thực sự hỗ trợ, bổ sung và hoàn thiện cho
pháp luật, tạo điều kiện cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh trong đời
sống. Nhà nước ta thừa nhận tập quán có thể thay thế cho pháp luật trong những
trường hợp pháp luật chưa quy định và nội dung tập quán không trái với quy
định pháp luật. Ở chiều ngược lại, pháp luật đã góp phần quan trọng trong việc

gìn giữ và phát huy các quan niệm đạo đức tốt đẹp, hình thành những tư tưởng
đạo đức tiến bộ, ngăn chặn sự thoái hóa xuống cấp của đạo đức, loại trừ những
tư tưởng đạo đức cũ lạc hậu, phản tiến bộ. Trong chừng mực nhất định, nhà
nước pháp luật hóa các quy phạm, nguyên tắc đạo đức thành các quy phạm
9|Page


pháp luật – những quy tắc xử sự tương đối cụ thể cho các chủ thể trong xã hội,
xác định rõ hành vi được phép thực hiện, các hành vi buộc phải thưc hiện, các
hành vi bị ngăn cấm.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp thì ranh giới điều chỉnh giữa
chuẩn mực đạo đức và pháp luật chưa phù hợp hay sự pháp luật hóa các quy tắc,
quan niệm đạo đức không cụ thể dấn đến khó ứng dụng trong thực tế. Chẳng
hạn như, Bộ luật dân sự quy định, các giao dịch dân sự không được trái với đạo
đức xã hội. Trên thực tế, đánh giá hành vi nào đó là trái hay không trái với đạo
đức xã hội không phải là vấn đề đơn giản, cùng một hành vi nhưng có thể có
các đánh giá khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Trong xã hội nhiều quan niệm, tư tưởng đạo đức cổ hủ, lạc hậu vẫn
còn tồn tại mà chưa bị ngăn chặn đúng mức cần thiết. Thí dụ như tư tưởng gia
trưởng, thói các nhân chủ nghĩa, tư tưởng địa vị, đẳng cấp, trọng nam khinh
nữ… vẫn có ảnh hưởng không nhỏ trong đại bộ phận dân cư. Và hệ thống pháp
luật hiện hành còn nhiều quy định cần thiết, đáng có.
Cuối cùng, đạo đức trong xã hội xuống cấp là nguyên nhân chính làm
gia tăng các vi phạm pháp luật cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng.

10 | P a g e


KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua phân tích ở trên ta thấy mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức rất

quan trọng. Chúng có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau, cả hai đều có vai
trò trọng sự điều chỉnh hành vi của con người, hướng tới chân- thiện - mỹ.
Đồng thời góp phần vào sự ổn định và đảm bảo cho sự pháp triển của xã hội và
của cộng đồng.

11 | P a g e


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ts. Ngọ Văn Nhân, Giáo trình xã hội học pháp luật, Nxb Tư pháp, tr.
181-202
2. Other - Mối liên hệ giữa pháp luật với đạo đức, liên hệ với thực tế ở
Việt Nam, www.wattpad.com/1425393
3.Bàn về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức , tailieuhay.com
4.Yahoo! Hỏi & Đáp - Mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật?
vn.answers.yahoo.com
5. Tài liệu Bàn về mối quan hệ giưã pháp luật và đạo đức,docx.vn
6. NVP: Chuẩn mực và luật pháp, nguyenvanphu.blogspot.com

12 | P a g e



×