Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số biện pháp giúp học sinh lớp một học tốt phân môn học vần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.8 KB, 20 trang )

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỦ THỪA
TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ AN

ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP MỘT
HỌC TỐT PHÂN MÔN HỌC VẦN

GIÁO VIÊN: TRẦN THỊ NGỌC

NĂM HỌC 20152016


PHÒNG GD&ĐT THỦ THỪA
HĐKH TRƯỜNG TIỂU HỌC MỸ AN
BẢNG CHẤM ĐIỂM ĐỀ TÀI SKKN CHIẾN SĨ THI ĐUA CẤP TỈNH
NĂM HỌC 2015 – 2016
Tên đề tài SKKN: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phân môn Học vần
Họ tên CB.GV thực hiện: Trần Thị Ngọc
Nhiệm vụ được phân công: GV Dạy lớp Một/4
Điểm
Điểm
Điểm
Tiêu chuẩn
của
của
Điểm
tự
HĐKH HĐKH
chuẩn
chấm trường cơ sở
1. Đề tài sáng kiến có yếu tố mới và sáng tạo
3


- Hoàn toàn mới, được áp dụng lần đầu tiên
3
- Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức độ khá
2
- Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức độ trung bình 1,5
- Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức độ ít
1
- Không có yếu tố mới hoặc sao chép từ các giải pháp đã có 0
trước đây
2. Đề tài sáng kiến có khả năng áp dụng
3
- Có khả năng áp dụng trong toàn tỉnh hoặc ngoài tỉnh
3
- Có khả năng áp dụng trong đơn vị và có thể nhân ra ở một số 2
đơn vị trong tỉnh
- Có khả năng áp dụng ở mức độ ít trong đơn vị
1
- Không có khả năng áp dụng trong đơn vị
0
3. Đề tài sáng kiến có tính hiệu quả (phạm vi được triển 4
khai áp dụng)
- Có hiệu quả trong phạm vi toàn tỉnh
4
- Có hiệu quả trong phạm vi cơ quan, đơn vị (sở, ngành, 3
huyện, thành phố)
- Có hiệu quả trong phạm vi cấp xã, phòng, ban (tương đương) 2
- Ở mức độ làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo.
1
- Không có hiệu quả cụ thể
0

Tổng cộng: 10

3

3

2

2

4

4

9/10

9/10

HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG
(ký, đóng dấu)

Người làm SKKN
(ký, ghi rõ họ tên)

…………………………
HỘI ĐỒNG KHOA HỌC HUYỆN
(ký, đóng dấu)

Trần Thị Ngọc


HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TỈNH
(ký, đóng dấu)

…/10


Điểm
HĐ xét
SKKN
cấp tỉnh

…/10


Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phân môn Học vần

Mục 1a/ Đặt vấn đề:
Cơ sở lý luận:
Dạy học ở Tiểu học nói chung và việc dạy Tiếng Việt lớp Một nói riêng mấy
năm gần đây đã đi vào thực hiện chương trình Sách giáo khoa mới nó phù hợp với
xã hội, phù hợp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và khoa học giáo dục,
phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy. Với lượng kiến thức đa dạng
phong phú hình thành kỹ năng nghe, nói, đọc, viết bắt đầu từ phân môn Học vần ở
lớp Một.
Học vần là môn học khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới
để sử dụng trong học tập và giao tiếp. Tầm quan trọng của học vần chịu sự quyết
định bởi tầm quan trọng của chữ viết trong hệ thống ngôn ngữ. Nếu chữ viết được
coi là phương tiện ưu thế nhất trong giao tiếp thì học vần có một vị trí quan trọng
không thể thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.Có thể nói
rằng phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của thầy và trò trong

quá trình dạy học. Phương pháp dạy học phụ thuộc vào nội dung bài học. Nội dung
dạy học thay đổi kéo theo sự thay đổi phương pháp dạy học. Muốn thành công
trong công việc giảng dạy cần kết hợp sử dụng linh hoạt các phương pháp trong giờ
Học vần. Lớp Một là một bước ngoặc trong đời sống của trẻ từ các hoạt động chủ
đạo của trẻ như hoạt động vui chơi ở giai đoạn Mẫu giáo đã chuyển sang một loại
hoạt động mới. Sự chuyển đổi hoạt động này tác động lớn tâm sinh lý của trẻ. Vì
vậy giáo viên cần phải nắm chắc đặc điểm này để giúp học sinh “Chuyển giai
đoạn” được tốt.
Ở giai đoạn đầu lớp Một những hoạt động có ý thức này còn mới mẻ. Chẳng
hạn đến lớp các em phải ngồi ngay ngắn, phải kiểm tra bài, phải thực hiện đúng các
yêu cầu của giáo viên… Hơn nữa trong nhận thức của các em vai trò cô lớp Một
cũng khác với cô mẫu giáo. Giáo viên có chỗ ngồi riêng, có sự đánh giá nhận xét.
Những điều này làm cho một số em trong giờ học vẫn thường rụt rè, không dám
đọc to, đọc lạc cả giọng… Làm ảnh hưởng đến hiệu quả giờ Học vần.
Những hiểu biết về tâm sinh lý trên đây định ra cho hướng hoạt động học tập
ở lớp Một (chủ yếu là học vần) những mục đích và động cơ học tập. Vì vậy người
giáo viên cần tạo mục đích và động cơ học tập nhẹ nhàng sinh động giúp trẻ hứng
thú học tập.

Giáo viên thực hiện: Trần Thị Ngọc

Trang 1


Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phân môn Học vần

Học vần là một trong những phần quan trọng của môn Tiếng Việt trong nhà
trường Tiểu học, do đó cần phải có phương pháp dạy học thích hợp. Muốn cho học
sinh học được phần Học vần, người giáo viên phải dạy cho các em nắm chắc âm,
vần, từ ngữ. Muốn vậy giáo viên phải dạy ngay từ đầu năm học, ngay khi các em

mới vào lớp Một, dạy một cách thường xuyên liên tục, không những dạy cho các
em biết đọc, cách phát âm mà còn phải dạy cho các em cách viết thành thạo…
Như chúng ta đã biết trẻ đến trường để được học đọc, học viết, nếu như học
vần, tập đọc giúp trẻ đọc thông viết thạo đều đó giúp trẻ ghi nhanh ghi rõ ràng
những điều thầy cô giảng và những điều trẻ nghĩ ra. Vì có đọc được các em mới có
thể học được các môn khác và cũng là nền tảng để giúp các em học tốt các lớp
khác. Ngoài những mục đích là bồi dưỡng cho các em những phẩm chất tốt đẹp
như: tính cẩn thận, tính thẩm mỹ, tính kiên trì ham đọc sách, thích tìm tòi…. Tôi
nghĩ Học vần rất quan trọng đối với các em, nếu không chú trọng, không có
phương pháp để dạy tốt thì sẽ ảnh hưởng đến việc học sau này của các em.
a/ Cơ sở thực tiển:
Một trong những lý do đó dễ thấy vì các em chưa đuợc sự quan tâm của gia
đình. Các em chưa chăm chỉ học. Vì vậy tôi tự tìm hiểu đặc điểm tình hình của
từng đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho
các em luôn luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú. Tôi luôn gần gũi yêu thương
động viên kịp thời để các em thích thú học và do các em từ Mẫu giáo chuyển lên
nên việc tiếp thu kiến thức thông qua hình thức: Học mà chơi, chơi mà học.
Cùng với sự giáo dục học sinh đọc chậm, viết sai, tôi luôn luôn có suy nghĩ
trong đó cũng có nhiều nguyên nhân: Là do các em có thái độ học tập tốt. Đối với
các em này sẽ dễ dàng tiếp thu bài từ những cái thực tiễn, cái cụ thể hơn. Vì vậy
trong lúc dạy tôi phải sử dụng phương tiện trực quan là những vât thật, mô hình,
giúp các em gần gũi với đời sống thực tiễn, dễ gây hứng thú trong học tập. Ngoài ra
giúp các em củng cố tri thức, rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Trong quá trình dạy tôi
thường ôn lại kiến thức cũ, thường xuyên gọi các em đứng lên đọc các từ tiếng, âm
đơn giản nhằm tạo sự hứng thú trong học tập. Lúc đó tôi không quên động viên các
em dù là một sự tiến bộ nhỏ. Bên cạnh còn có học sinh có tư duy bình thường
nhưng thái độ học tập không tốt, không muốn học. Các em đọc được, viết được
nhưng không chịu đọc bài, viết bài ở nhà. Vì vậy tôi phải suy nghĩ bài học phải tạo
sự hứng thú trong học tập, lúc nào cũng đưa ra các tình huống buộc các em phải
suy nghĩ để các em tự thể hiện mình và tôi luôn tôn trọng sở thích của các em. Ở

lứa tuổi này các em rất thích được chăm sóc, chia sẻ. Là một giáo viên chủ nhiệm
của lớp tôi luôn tạo điều kiện để hiểu thêm tâm tư nguyện vọng của các em để từ đó
có những biện pháp giảng dạy thích hợp và tốt hơn.

Giáo viên thực hiện: Trần Thị Ngọc

Trang 2


Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phân môn Học vần

Với những cơ sở trên cùng với tầm quan trọng như thế cho nên tôi luôn nghĩ
rằng mình chính là người giúp các em nắm được các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Do đó tôi luôn tìm mọi cách để đổi mới và nâng cao phương pháp giảng dạy
nhằm lựa chọn phương pháp nào phù hợp với điều kiện thực tế của lớp mình để từ
đó góp phần nâng cao chất lượng và kết quả học tập của các em ở cuối năm học
này. Đó là lý do tôi chọn đề tài “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt
phân môn Học vần”.
Mục 1b/ Mục đích đề tài:
Phương pháp dạy Học vần nói chung giúp các em đọc được chữ, tiến xa hơn
nữa là đọc nhanh, đọc trôi chảy. Đối với học sinh lớp Một sau khi học xong phân
môn Học vần là các em phải nắm được tất cả các vần, đọc được rõ ràng và đúng
các tiếng, từ, câu đơn giản ngắn gọn. Giúp các em phát âm chuẩn hơn trong hoạt
động giao tiếp và hình thành cho học sinh các kỹ năng như luyện đọc, luyện viết,
luyện nghe nói. Đặc biệt là phần luyện nói theo chủ đề các em nói một cách tự
nhiên, tạo ra được các tình huống trong giao tiếp. Tình huống giao tiếp càng chân
thật, gần gũi với cuộc sống của các em thì sự lôi cuốn càng mạnh mẽ nhu cầu nói ở
học sinh càng được tăng cường qua đó giáo dục cho học sinh lòng ham đọc sách,
giáo dục tính cách, thị hiếu, thẩm mĩ cho học sinh. Ngoài ra phân môn Học vần còn
giúp các em làm giàu thêm kiến thức và các em hiểu biết hơn, bồi dưỡng các em

biết suy nghĩ một cách logich. Với những suy nghĩ như thế nên tôi liền áp dụng các
biện pháp thực tế vào lớp mình qua đó nhằm giới thiệu một số kinh nghiệm giúp
giáo viên dạy tốt phân môn Học vần ở lớp Một. Tôi cố gắng giúp các em hòa nhịp
với hoạt động ở lớp cùng các bạn và đem lại cho mình một kết quả tốt hơn ở cuối
năm học.
Mục 1c/ Lịch sử đề tài:
Qua tham khảo một số sách nói về đề tài này, kế thừa những kinh nghiệm
của người đi trước và sự hiểu biết của bản thân. Qua thực tiễn dạy nhiều năm học,
giáo dục học sinh học tốt phân môn Học vần là đề tài tôi tâm đắc và quan tâm nhất,
thực hiện và thấy có kết quả. Các đối tượng chậm phân môn Học vần có sự thay đổi
và chuyển biến rõ nét. Chính vì vậy tôi hình thành đề tài này để nhiều giáo viên có
thể tham khảo áp dụng cho việc dạy học phân môn Học vần ở lớp của mình.
Mục1d/ Phạm vi đề tài:
Đề tài được nghiên cứu qua quá trình giảng dạy ở lớp chủ nhiệm. Bản thân
tôi đã nhiều năm dạy lớp Một, cho nên trong quá trình giảng dạy bao giờ cũng chú
ý đến đối tượng học sinh xem các em có nắm bắt được kiến thức không? Có nắm
vững được cấu tạo âm, vần, tiếng, từ, nhất là cách phát âm chuẩn các tiếng, từ. Để
từ đó có hướng giải quyết cụ thể đến từng em thuộc từng đối tượng khác nhau mà
có biện pháp thích hợp. Đầu năm học này tôi được Ban Giám Hiệu phân công tôi
Giáo viên thực hiện: Trần Thị Ngọc

Trang 3


Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phân môn Học vần

tiếp tục dạy lớp Một nên tôi áp dụng thực tế vào lớp mình để đưa chất lượng lớp tôi
cuối năm học 2015 - 2016 này không còn học sinh chưa hoàn thành phân môn Học
vần nữa.


Giáo viên thực hiện: Trần Thị Ngọc

Trang 4


Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phân môn Học vần

Mục 2a. Thực trạng đề tài:
Mấy năm gần đây cùng với sự quan tâm của nhà nước các cấp, các ngành,
đặc biệt là ngành giáo dục có nhiều đổi mới phương pháp lẫn nội dung dạy học đã
đem đến những thành công đáng kể, các bậc phụ huynh đã quan tâm đến con em
mình nhiều hơn. Tuy vậy cũng còn một số phụ huynh chưa quan tâm, học sinh
chưa học tốt. Vì cha mẹ phải mưu sinh để kiếm từng miếng ăn hàng ngày, nên việc
quan tâm đến con em mình còn hạn chế. Như học sinh lớp tôi là đối tượng nghiên
cứu của đề tài này, phần lớn là học sinh con nhà nông. Vì vậy việc nghỉ học cũng
thường xuyên xảy ra mà cũng thường tập trung vào học sinh chậm. Tuy một số ít
nhưng cũng ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình học tập và quá trình thực tế giảng
dạy.
Chúng ta thấy rằng phần lớn học sinh chưa hoàn thành thì không được chăm
chỉ, siêng năng, tiếp thu bài chậm, không chịu viết bài, đọc bài ở nhà. Nếu giáo
viên không biết cách quan tâm chú ý đến đối tượng này sẽ dẫn đến việc học của các
em bị xao lãng và bị hỏng làm ảnh hưởng đến nền nếp không khí học tập của lớp.
Bởi thế ngay từ đầu năm học vào đầu tháng chín, tôi đã phân loại học sinh lớp mình
theo chuẩn bằng cách khảo sát điều tra.
* Tổng số học sinh của lớp là: 27
+ Học sinh đọc, viết tốt: 7
+ Học sinh đọc viết theo chuẩn: 8
+ Học sinh đọc chậm, viết chậm so với chuẩn: 7
+ Học sinh chưa đọc, viết được, một số em chưa biết cầm bút, phấn : 5
Trước tình hình đó tôi đưa ra biện pháp để giúp học sinh học tốt phân môn

Học vần của môn Tiếng Việt ở lớp Một/ 4 Trường tiểu học Mỹ An năm học 2015
-2016.
Mục 2b. Nội dung cần giải quyết:
Với thực tế đã khảo sát như vậy tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh nhận dạng một
cách chắc chắn chính xác bảng chữ cái quá thấp dẫn đến kết quả học tập còn chưa
cao.
Học vần là một trong những phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt, do
đó cần phải có phương pháp dạy học thích hợp cho học sinh.
Ngoài những mục đích là bồi dưỡng cho các em những phẩm chất tốt đẹp
như tính cẩn thận, tính kiên trì,…Tôi thiết nghĩ học vần rất quan trọng đối với các
Giáo viên thực hiện: Trần Thị Ngọc

Trang 5


Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phân môn Học vần

em nếu không chú trọng, không có phương pháp để dạy tốt phân môn Học vần thì
sẽ ảnh hưởng đến việc học của các em. Nhằm giúp học sinh từng bước làm quen và
có kĩ năng đọc đúng tạo cho các em sự thích thú và chủ động, tích cực học tập ở
phân môn học vần nên tôi đã không ngần ngại chọn và thực hịên đề tài. Với những
nguyên nhân trên, bản thân tôi luôn suy nghĩ để tìm ra những biện pháp thích hợp
nhất nhằm giúp học sinh kỹ năng học tốt phân môn Học vần. Do đó giáo viên phải
giải quyết tốt các nội dung sau:
- Nắm được trình độ nhận thức, kiến thức của từng đối tượng học sinh để đưa
ra các biện pháp dạy học thích hợp.
- Phối hợp tốt các phương pháp dạy Học vần.
- Lấy học sinh làm trung tâm, tăng cường luyện đọc cho học sinh và kiểm tra
tốc độ đọc hàng ngày đối với học sinh.
- Kết hợp với gia đình thông qua việc làm tốt công tác chủ nhiệm lớp .

Mục 2c. Biện pháp giải quyết:
Từ thực trạng trên tôi quyết tâm vận dụng những kinh nghiệm giảng dạy của
các năm trước và của các bạn đồng nghiệp trong khối làm sao ở năm học này giúp
học sinh học tốt phân môn Học vần.
Bên cạnh đó giáo viên phải nhẹ nhàng ân cần dạy bảo các em tạo không khí
thoải mái, vui vẻ trong giờ học, một lời động viên, giúp các em tự tin và phấn khởi
hơn. Sự chỉ bảo ân cần là điều rất cần thiết, tránh la rầy các em, khi các em đọc sai,
viết sai hay chưa đọc được, viết được.
Giáo viên phải bao quát lớp quan tâm giúp đỡ các em chậm. Đối với những
em này phải nhắc lại để các em nắm và cầm tay hướng dẫn để các em viết lại cho
đúng. Làm sao để mỗi ngày các em đến trường là một ngày vui. Tôi lúc nào cũng
gần gũi học sinh của mình vào những buổi nghỉ trưa ở lại lớp để tạo tình cảm thân
mật giữa thầy trò. Vì đối với những học sinh đọc chậm, viết chậm này chúng ta
không thể dạy chung theo chuẩn của chương trình như vậy các em có thể theo
không kịp bạn. Do vậy đầu tiên tôi rất coi trọng việc sắp xếp chỗ ngồi cho các em
này sao cho phù hợp và có tác dụng thúc đẩy. Tôi luôn suy nghĩ để dạy cho các em
những kiến thức phù hợp. Do đó tôi cần nắm vững đặc điểm tâm lý lứa tuổi học
sinh lớp Một khả năng tập trung chú ý chưa cao, tư duy chưa phát triển. Vì thế
trong giờ Học vần phải thay đổi linh hoạt kiểu loại hoạt động trí tuệ xen kẻ những
khoảng giải lao vài ba phút cho các em chơi trò chơi như: đọc thơ, quan sát tranh,
sử dụng hộp chữ rời… nhằm thỏa mãn nhu cầu “Học mà chơi, chơi mà học” duy trì
sự hứng thú ở trẻ trong 60 phút học vần.

Giáo viên thực hiện: Trần Thị Ngọc

Trang 6


Một số biện pháp giúp học sinh lớp Một học tốt phân môn Học vần


Cần coi trọng nguyên tắc học sinh là chủ thể của hoạt động nên cho học
sinh luyện tập nhiều trong khi học: Đọc, viết, ghép vần (sử dụng xen kẽ vở bài tập
Tiếng Việt 1). Giáo viên cũng cần lưu ý đến tính vừa sức trong dạy học vần, tránh
nhồi nhét, quá tải. Thực tế cho thấy khi bước vào lớp Một trẻ em không đồng đều
về trình độ có em biết đọc ít, em biết đọc nhiều, em có cảm nhận được một số chữ,
có em còn chưa biết gì; về tính cách có em bạo dạn, có em nhút nhát… Do đó, giáo
viên phải tìm hiểu thực trạng của lớp mình ngay từ đầu năm học để có thể chia lớp
thành từng nhóm và có cách dạy phù hợp với từng nhóm.
Do đó tôi tự đặt ra câu hỏi: Mình phải có biện pháp cụ thể như thế nào? Và
giải quyết những vấn đề để giúp các em học tập tiến bộ làm cơ sở vững chắc cho
việc học tốt các môn học khác để tiếp tục học các lớp trên. Muốn thế người giáo
viên phải thưc hiện tốt các biện pháp đã nêu sau:
1. BIỆN PHÁP 1:
Nắm được trình độ nhận thức kiến thức của từng đối tượng học sinh để đưa
ra các phương pháp dạy học thích hợp cho từng đối tượng học sinh.
1.1. Giai đoạn học các nét cơ bản:
Ngay những buổi học đầu tiên tôi cho học sinh học các nét cơ bản. Tôi dạy
thật kỹ, thật chi tiết tên gọi và cách ghi các nét chữ đó. Để giúp học sinh nhớ lâu và
dễ hiểu những nét cơ bản đó tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần
giống nhau vào thành một nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các
nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ có hình dáng
cấu tạo giống nhau.
Ví dụ: Các nét cơ bản và tên gọi:
Nhóm 1:

Nhóm 2:
Nhóm 3 :
Nhóm 4:

Nét sổ thẳng

Nét gạch ngang
Nét xiên phải
Nét xiên trái
Nét móc xuôi
Nét móc ngược
Nét móc hai đầu
Nét cong hở phải
Nét cong hở trái
Nét cong kín
Nét khuyết trên
Nét khuyết dưới
Nét thắt

Giáo viên thực hiện: Trần Thị Ngọc

Trang 7


1.2. Phần học âm:
Sau khi học sinh học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét cơ bản một
cách vững vàng và chắc chắn, thì tiếp theo là phần học âm (chữ cái).
Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng, học sinh có nắm
chắc từng chữ cái thì mới có thể ghép được các chữ lại với nhau để thành tiếng.
Các tiếng đơn ghép lại với nhau thành từ và câu. Giai đoạn này, tôi dạy cho học
sinh phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng âm.
Ví dụ :
Dạy âm “a”
Âm a gồm 2 nét: nét cong hở phải và nét móc ngược.
Từ việc học kỹ cấu tạo các âm tạo bởi các nét cơ bản thật kỹ và thật tỉ mỉ,
sẽ giúp các em phân biệt được cấu tạo và tên gọi của các con chữ sau: b, d, q, p.

Đối với những âm này học sinh chậm dễ lẫn lộn cho nên tôi luôn quan
tâm chú ý và gọi học sinh nhắc đi nhắc lại nhiều lần để các em ghi nhớ và khắc
sâu.Và cứ như thế bài nào, âm nào cũng vậy tôi cũng phân tích để học sinh nắm
rõ cấu tạo âm gồm những nét nào.
Mỗi ngày học một bài, mỗi bài tôi đều cho từng cá nhân trong lớp đọc qua
luyện đọc giúp tôi phát hiện những em còn đọc sai sót không phát âm được để
uốn nắn ngay kịp thời. Riêng học sinh chậm trong lớp luôn là mục tiêu tôi rất
quan tâm. Các thao tác trong tiết Học vần các em đó đều được tôi gọi lên để
thực hiện. Và cứ như thế bài nào, âm nào cũng vậy tôi cũng phân tích để học
sinh nắm rõ cấu tạo âm gồm những nét nào. Bên cạnh đó, tôi nhận thấy rằng dạy
âm cho học sinh điều cần thiết và rất cần đó là bộ chữ cái của các em.
Ví dụ :
+ Khi dạy bài âm o, c.
Học sinh gắn b + o + dấu huyền tạo tiếng bò.
c + o + dấu hỏi tạo tiếng cỏ.
Giáo viên kết hợp đưa tranh bò đang ăn cỏ.
+ Khi dạy bài âm ô, ơ
Học sinh gắn c + ô tạo tiếng cô.
c + ơ + dấu huyền tạo tiếng cờ
Giáo viên kết hợp đưa tranh lá cờ.
Vì ở lứa tuổi này khả năng tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải
dựa và mô hình vật thật. Do vậy, trong các giờ dạy yêu cầu giáo viên sử dụng
triệt để đồ dùng dạy học là không thể thiếu, giúp học sinh rèn luyện kỹ năng
thực hành. Nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh
động tới tư duy trừu tượng kích thích hoạt động học tập của học sinh. Nhất là
đối với các em học chậm của lớp, giúp các em theo kịp bạn tôi sử dụng cách dạy
sau:


* Bài mới:

Cho học sinh xem tranh, gợi mở để giới thiệu, rút ra âm mới gọi học sinh
chậm nêu cấu tạo theo cách mô tả bằng thước kẻ chỉ bảng của giáo viên. Nếu
học sinh chậm không nói được hoặc chỉ nói được một phần thì gọi tiếp học sinh
chậm khác đến khi nói được các nét của con chữ, rồi sau đó gọi vài học sinh
khác nhắc lại cấu tạo con chữ đó, tiếp đến nhiều học sinh nhắc lại. Khi phát âm
cũng cho học sinh chậm phát âm như phần nói cấu tạo, học sinh đọc tốt nhận xét
và phát âm hoàn chỉnh hơn. Nếu như dạy tới phần nào học sinh thường phát âm
sai hay dễ lẫn lộn tôi có thể cho các em xem lại vật mẫu từ đó nhận xét và phát
âm đúng chuẩn hơn.
Ví dụ: Âm r cho học sinh xem cái rễ; Âm d cho học sinh xem tranh con
dê. Cho các em phân biệt giữa r và d, phân biệt mỗi giọng đọc của các âm, khi
đọc âm r nhớ đến cái rễ, khi đọc d nhớ đến con dê, rễ phải cong lưỡi, dê đọc
bình thường có như thế các em mới không lẫn lộn giữa r với d.
Ví dụ: Tiếng rễ tôi chỉ âm đầu cho học sinh đọc (r). Chỉ âm cuối cho học
sinh đọc (ê) và dấu ngã đọc (ngã) sau đó tổng hợp lại rờ – ê – rê – ngã – rễ.
Trong lúc đọc nếu em đọc sai hoặc không nhớ âm nào tôi khơi lại những
mẫu vật hoặc gợi mở để các em cho các em phát âm đúng hơn, chuẩn hơn. Khi
học sinh đọc xong lúc đó mới hướng dẫn lại các âm, từ các em đọc sai và sau đó
giảng từ cho cả lớp đồng thanh.
Đối với các em chậm đọc trơn là đều rất khó khăn, có thể dẫn đến đọc
không được từ ngữ, đồng thời các em chán học. Trước tình hình trên tôi khuyến
khích các em đánh vần và muốn đánh vần được thì phải nhận diện phụ âm đầu
kế đến là nguyên âm, sau cùng là dấu thanh. Nếu còn gặp khó khăn nữa thì tôi
có thể nhắc học sinh liên hệ các âm đặt trong các từ quen thuộc đã học.
Đối với học sinh học tốt thì dạy học vần là dạy đọc trơn tiếng nhiều hơn
đánh vần. Đọc trơn tiếng là yêu cầu cần phải đạt và khuyến khích ngay từ bài
thứ hai. Để đọc trơn được thì các em phải biết ghép phụ âm và nguyên âm cùng
dấu thanh trong đầu mình, biết đánh vần nhẩm sau đó phát ra tiếng ngay. Muốn
đọc trơn là phải biết nhìn tổng thể cả một âm tiết để định hướng cho tiếng đọc
dần dần sẽ trở thành kỹ xảo khi đọc trơn.

* Bài cũ: Những em nào hôm trước đọc sai, chậm hôm sau tôi kiểm tra lại
khi kiểm tra bài cũ tôi cho học sinh phân tích cấu tạo và tìm tiếng có chứa âm
vừa học tôi kiểm tra thật kỹ không bỏ qua chi tiết nào. Kiểm tra viết những âm
nào thường viết sai, đặc biệt không cho học sinh xem bài viết của bạn. Với biện
pháp này áp dụng tôi thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt.
Ở giai đoạn học âm tôi hướng dẫn học sinh thật kỹ những âm thường
phát âm sai như : r – d, s – x, ch – tr, v – qu, ng – ngh… Những âm này khi đọc
các em thường phát âm sai, từ phát âm sai dẫn đến viết sai. Điều tôi cho là quan
trọng và lưu tâm nhất là đọc đến âm nào là hướng dẫn thật kỹ, luật chính tả và


những học sinh nào thường sai hoặc không nhớ tôi phải tập trung ôn luyện cho
học sinh nhớ, không để cho các em bỏ trống khoảng nào. Hằng ngày, trong
khoảng thời gian 15 phút truy bài đầu giờ tôi cho các em ôn lại các âm đã học
trong bảng các mẫu chữ viết trong trường Tiểu học đã được treo sẵn ở lớp. Ngày
nào tôi cũng làm thế bởi vì ở lớp Một mỗi ngày học một hoặc hai âm nếu như
không nhớ bài trước thì không thể đọc được bài sau. Do đó giai đoạn học âm là
quan trọng nhất để chuyển sang giai đoạn học vần.
Hai phương pháp trên tuy đơn giản, dễ hiểu nhưng khi áp dụng thực tế ở
lớp học thì rất phức tạp, vì đồng thời phải dạy cả hai đối tượng học sinh cùng
một lúc hai phương pháp khác nhau. Tuy nhiên hai phương pháp trên có tác
dụng hỗ trợ nhau do đó phải biết linh hoạt sử dụng cho phù hợp trong cùng một
tiết dạy.
1.3. Phần vần:
Phần âm các em đã thuộc và nắm kỹ nên khi sang phần vần tôi chỉ rút ra
vần mới để hướng dẫn học sinh đánh vần, còn lại phân tích nêu cấu tạo đều cho
học sinh tự thực hiện giống như phần học âm. Học sinh chậm thực hiện trước,
các em hoc tốt theo dõi phát âm cho bạn nghe, giáo viên nhận xét sửa sai, các
học sinh còn lại ngồi nhẩm bài để tới lượt mình đọc. Học sinh chậm nhẩm vần
trước rồi mới ghép phụ âm đầu vào, đánh vần đọc.

Ví dụ: Tiếng “bơi” học sinh đánh vần: bờ – ơi – bơi. Riêng học sinh
chậm có âm chưa thuộc nên tôi dùng bìa che phụ âm đầu còn lại phần vần cho
học sinh đọc từng âm trong vần, sau đó tổng hợp lại vần, mở âm đầu gợi mở từ
từ để học sinh đánh vần. Cứ như thế rút ngắn dần các tiếng lại mỗi ngày một
nhanh hơn, có thể bỏ bớt các thao tác. Học sinh học tốt nhẩm thầm các tiếng sau
đó đọc trơn tiếng, học sinh chậm nhẩm phần vần rồi mới ghép phụ âm đầu vào
đánh vần tiếng, học sinh chưa nắm vững hơn đánh vần thành tiếng phần vần rồi
mới ghép phụ âm đầu vào đánh vần tiếp tiếng.
Ví dụ: tiếng “mèo”
- Học sinh đọc tốt đọc trơn mèo.
- Học sinh nắm bài nhung còn chậm đánh vần: m – eo – meo – huyền –
mèo
- Học sinh chưa nắm vững đánh vần: e – o – eo – m – eo – meo – huyền –
mèo.
Ví dụ :
Trong những giờ ôn tập buổi chiều:
Như dạy bài 48 vần in, un.
+ Những em viết tốt mỗi loại viết 2 - 3 dòng.
+ Còn đối với những học sinh chậm tôi chỉ yêu cầu các em viết được mỗi
loại một dòng là được rồi: như 1 dòng in, 1 dòng un, đèn pin 1 dòng, con giun 1
dòng.


Qua phần vần tôi cũng không quên dành thời gian ổn định đầu buổi học
để ôn lại kiến thức cũ. Để học sinh tập trung vào việc học, phát âm chuẩn tôi
luôn dành thời gian để ổn định tổ chức lớp và nề nếp học tập như cách chỉ thước
của tôi, chú ý nghe tôi phát âm… Đồng thời phải biết tạo niềm tin cho các em,
lúc đó các em sẽ ham học, khi các em ham học có thể hướng dẫn cho các em
mọi lúc mọi nơi, như hướng dẫn việc học ở nhà: hằng ngày các em mở sách ra
đọc lại bài, bài mới học, đọc đi đọc lại nhiều lần.

* Phần luyện nói: Trong hoạt động giao tiếp tôi luôn tìm và đưa ra
những câu hỏi gần gũi với cuộc sống của các em đồng thời khi đặt câu hỏi tôi
cũng không quên cách phát âm của mình và của học sinh, nếu học sinh nói
không đúng thì giáo viên cần phải chỉnh sửa ngay để dần dần các em có thói
quen và sau này các em có thể đọc, viết đúng đồng thời khi giao tiếp với các em
tôi cũng luôn luôn khen ngợi, động viên để tạo sự hứng thú cho các em học tập
nhất là những em học chậm. Vì các em còn nhỏ mới vào trường học vẫn còn
ngại ngùng, thiếu tự tin nếu giáo viên chê bai, đối xử không tốt với các em thì
dẫn đến các em sẽ chán học từ đó tình hình sẽ kém đi, ngược lại nếu chúng ta
biết động viên khen ngợi kịp thời đúng lúc làm cho các em phấn khởi và học tập
ngày càng tiến bộ hơn.
* Phần củng cố: Tổ chức chơi trò chơi và đọc những tiếng có âm vừa
học, cho học sinh thi đua theo nhóm tìm tiếng mới, nếu nhóm nào tìm được
nhiều và đọc phát âm đúng hơn sẽ được cả lớp khen và tuyên dương.
Sau khi áp dụng thực tế những biện pháp trên vào lớp mình tôi thấy có kết
quả và học sinh có sự tiến bộ rõ rệt.
2. BIỆN PHÁP 2:
Phối hợp tốt các phương pháp dạy học vần.
2.1/ Phương pháp trình bày trực quan:
Phương pháp này sử dụng rất nhiều trong tiết dạy như giới thiệu bài mới,
vì đòi hỏi học sinh phải được quan sát vật thật, tranh ảnh tự nhiên hay việc làm
mẫu của giáo viên. Khi dạy tôi hướng dẫn học sinh xem tranh ảnh, vật thật hay
mô hình gắn với nội dung từ khóa, từ ứng dụng. Cho các em nghe giọng đọc,
nhìn khuôn miệng của giáo viên khi phát âm, đánh vần mẫu, giúp các em tiếp
thu kiến thức mới nhanh hơn, củng cố âm, vần, giúp các em khắc sâu hơn và tiết
kiệm được lời giảng mà giờ dạy vẫn sinh động.
Ví dụ: Giảng từ “đèn pin” tôi chỉ cần cầm cây đèn pin cho các em quan
sát cây đèn pin dùng để thắp sáng để đi vào ban đêm là cả lớp nhận biết ngay.
2.2/ Phương pháp phân tích tổng hợp:
Phân tích trong dạy học vần thực chất là tách các hiện tượng ngôn ngữ

theo cấp độ: từ - tiếng - vần (âm). Tổng hợp là ghép các yếu tố ngôn ngữ đã tách
đó trở lại dạng ban đầu. Các thao tác tách và ghép này phải được phối hợp


nhuần nhuyễn, kết hợp đánh vần tiếng và đọc trơn. Tôi áp dụng phương pháp
này khi giảng bài mới (tiết 1). Giáo viên cho học sinh phân tích từ – tiếng –
vần( âm). Khi các em nắm được âm (vần) mới giáo viên cho tổng hợp trở lại và
đọc trơn (Đọc xuôi và đọc ngược).
Ví dụ: Dạy vần “an”
Từ khóa là “nhà sàn”
Tách tiếng sàn bằng cách hỏi tiếng đã biết (nhà)
Tách vần an bằng cách hỏi âm đầu đã học (s) và dấu huyền.
Phân tích: Vần an gồm a với n.
Sau đó tổng hợp lại: âm đến vần (a – n – an)
Vần đến tiếng (sờ – an – san – huyền – sàn)
Tiếng đến từ: (nhà sàn)
Cuối cùng cho học sinh đọc trơn vần, tiếng, từ.
Khi áp dụng tôi thấy học sinh nắm chắc bài học tiếp thu kiến thức có hệ
thống một cách chủ đạo.
2.3/ Phương pháp hỏi đáp:
Phương pháp này được tiến hành trên cơ sở các câu hỏi của thầy và sự trả
lời của học sinh để cùng tìm ra tri thức mới. Khi soạn bài tôi đã chuẩn bị trước
một hệ thống câu hỏi. Các câu hỏi này tập trung hỏi về nội dung kiến thức của
bài học. Câu hỏi để tự tìm từ khóa, tiếng khóa mới trong bài, hỏi để phân tích
từ, tiếng và tổng hợp từ. Khi áp dụng tôi thấy học sinh tham gia vào việc tìm
hiểu bài một cách tự giác, tích cực, chủ động. Nhờ đó các em chóng thuộc bài,
hào hứng học tập, lớp học sinh động. Qua đó tôi cũng nắm được trình độ học tập
của học sinh từ đó phân loại học sinh và có phương pháp dạy học phù hợp với
từng đối tượng.
2.4/ Phương pháp luyện tập thực hành:

Giờ Học vần không có tiết học lý thuyết vì vậy phương pháp này cần
được quán triệt một cách triệt để. Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh tập
trung vận dụng tri thức đã học rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo và củng cố kiến thức.
Chú ý cho các em được vận dụng tổng hợp các giác quan khi học, đọc, viết: mắt
nhìn, miệng đọc, tai nghe, tay viết. Cho các em tập đọc, phân tích từ, tiếng, tập
viết ngay sau khi học bài mới. Với những bài dạy một âm, một vần cho học sinh
viết ngay ở tiết một. Khi áp dụng phương pháp này giúp các em khắc sâu hơn
những kiến thức vừa học, góp phần hình thành các kỹ năng đọc và viết một cách
hệ thống. Phát triển đặc trưng tâm lý lứa tuổi, nhất là phát triển óc quan sát, tư
duy phân tích.
2.5/ Phương pháp vui - học sử dụng trò chơi học tập:
Là một dạng học tập được tiến hành thông qua trò chơi. Trò chơi có thể
tiến hành sau khi học bài mới hoặc sau phần luyện tập. Tùy theo bài dạy và mục
đích “chơi”. Giáo viên sử dụng linh hoạt nhiều hình thức trò chơi. Trò chơi có


thể bằng vật thật, học sinh sử dụng thao tác tay chân, bằng biểu tượng, bằng
lời… Chẳng hạn: Chơi đố chữ, thi tìm âm, vần vừa học, thi ghép vần, hái hoa
dân chủ,… Khi sử dụng phương pháp này tôi thấy giờ học sinh động, tư duy
được hứng thú của trẻ. Các em được học tập một cách chủ động tích cực.
3. BIỆN PHÁP 3:
Lấy học sinh làm trung tâm, tăng cường luyện đọc cho học sinh và kiểm
tra tốc độ đọc hàng ngày đối với học sinh.
Rút kinh nghiệm nhiều năm trước đây khi dạy phần đọc tôi thấy đa số
giáo viên cho vài học sinh đọc mẫu phần bài mới cũng như kiểm tra bài cũ. Vì
thế không kiểm tra bao quát hết học sinh trong lớp học, không biết ngày nào em
nào sai âm, tiếng gì để kịp thời mà uốn nắn. Cho nên khi thực hiện sáng kiến
này tôi cho học sinh đọc cá nhân hết lớp. Khi bắt đầu học âm mới muốn học
sinh nói cấu tạo âm dễ dàng hơn nên lúc đầu tôi cho các em học thuộc các nét cơ
bản, viết thành thạo các nét đó để khi học các em phân biệt dễ dàng. Lấy học

sinh làm trung tâm, tăng cường luyên đọc cho học sinh và kiểm tra tốc độ đọc
hàng ngày.
Trong dạy Học vần phải tạo mục đích, động cơ cho trẻ. Bài dạy phải theo
tinh thần “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng” nhằm phát huy tính
tích cực của học sinh. Ngoài ra không được quên giáo dục tư tưởng trong học
vần, giáo viên phải khéo léo hướng học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình
nhận thức. Đối với Học vần muốn học sinh phát âm đúng thì trước hết giáo viên
phải phát âm chuẩn. Lời phát âm mẫu đầu bài của giáo viên quyết định chất
lượng của một tiết học. Vì vậy người giáo viên cần phải trao dồi giọng đọc của
mình.
Ví dụ: Bài “s, r” Sau khi đọc mẫu tôi quan sát giọng đọc của học sinh, để
phát hiện ra giọng đọc của từng em mà uốn nắn kịp thời đến với từng học sinh,
để các em đọc đúng và phát âm chính xác.
Đối với học sinh không còn học vẹt, nhất là đối với những em học chậm,
đọc chậm thì trong tiết học tôi tăng cường cho học sinh luyện đọc cá nhân, vì có
luyện đọc cá nhân thì các em mới nhớ và khắc sâu được âm, vần, tiếng trong
bài. Khi gọi học sinh đọc trên bảng là lúc các em phải kết hợp các giác quan mắt
nhìn, tay chỉ, miệng đọc có được như vậy thì các em mới nhớ được mặt chữ
khắc sâu trong trí nhớ của mình. Do đó khi đọc bài tôi khuyến khích học sinh
đọc to, rõ để các bạn nhận xét, không được đọc nhỏ vì vậy các em sẽ không ghi
nhớ được âm, vần, tiếng học. Nếu em nào đọc sai cho bạn nhận xét sau đó giáo
viên chốt lại em đọc chưa đúng nhưng vẫn khuyến khích tinh thần vì em đọc to
rõ và như thế lớp tôi tất cả các em đều đọc rất tốt.
Để giúp các em nắm chắc và nhận biết được âm cùng các vần đã học thì
các em phải viết được các vần đó. Cho nên ngay từ đầu khi hướng dẫn các em
học âm, chữ tôi đã dạy tập viết cho các em. Vì tập viết cũng như tập đọc nó cũng


quan trọng, đặc biệt ở Tiểu học nói chung và lớp Một của tôi nói riêng. Ngoài
việc trang bị cho học sinh toàn bộ những chữ cái và yêu cầu kỹ thuật trong học

tập và giao tiếp. Tập viết có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn
học khác. Viết đúng mẫu, đúng độ cao, đúng tốc độ, rõ ràng thì học sinh có điều
kiện ghi chép bài tốt kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh
hưởng không nhỏ tới chất lượng học tập. Chính vì vậy ngay từ đầu năm học tôi
rất quan tâm đến vấn đề này, nhất là với các học sinh chậm.
Bước đầu tiên tôi hướng dẫn cho các em nắm được đường kẻ, dòng kẻ, độ
cao cỡ chữ và tên gọi các nét chữ, cấu tạo (phân tích kỹ khi dạy học âm, vần)
khoảng cách giữa các con chữ trong một từ, cách đặt dấu thanh. Rèn học sinh
viết đúng theo qui định và cách nối các nét tạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu
liền mạch, viết thẳng trên các dòng kẻ. Tư thế ngồi rất quan trọng trong giờ viết
lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 - 30 cm. Làm
thế nào để các em có tư thế ngồi viết thoải mái sẽ là điều kiện giúp các em học
tốt. Giáo viên luôn nhắc nhở thường xuyên bên cạnh đó cách cầm bút cũng
không bỏ qua nhất là đối với các em chậm trong lớp. Cách cầm bút bằng 3 ngón
tay (cái, trỏ, giữa) đầu ngón tay trỏ đặt ở phía trên cách đầu bút khoảng 3cm,
đầu ngón tay cái giữ bên trái bút, phía bên phải của bút dựa vào đốt đầu ngón tay
giữa. Khi viết cần có sự phối hợp cử động của cổ tay, cánh tay, khuỷu tay, cách
này đối với học sinh chậm khi cầm bút hay bám chắc, ghì cả người cho nên giáo
viên phải hướng dẫn tỉ mỉ. Ngồi ngay ngắn đồng thời rèn tính cần cù chịu khó,
cẩn thận với các em. Đối với em này việc giúp các em nắm được các yêu cầu cơ
bản trên không phải là dễ bằng những lời nói việc làm cụ thể tôi đi đến từng bàn
để hướng dẫn và chỉ cho các em, có những em không nắm được tôi phải nắm tay
hướng dẫn từng chi tiết nhỏ.
Ví dụ: Khi dạy viết chữ “v” điểm đặt bút dưới dòng kẻ ngang một chút
điểm kết thúc ra ngoài ô chữ, rất khó khăn diễn đạt bằng ngôn ngữ vì vậy các em
không xác định được, nối liên kết giữa các con chữ chưa đúng kỹ thuật nên viết
xấu.
Lúc này các em không thể nào hiểu và nghe kịp các bước cô giáo nói thì
tôi trực tiếp đến từng em hướng dẫn, cầm tay lia theo từng nét chữ và như thế
ngày qua ngày các sẽ nắm được qui trình viết và viết nhanh, viết đúng.

Bên cạnh việc hướng dẫn các em như thế tôi không quên chữ mẫu của
mình, chữ mẫu tôi luôn đúng qui định, rõ ràng, chữ mẫu phóng to và dùng bút
kẻ nhỏ chỉ khi hướng dẫn. Cho học sinh quan sát từng nét, chữ mẫu. Chữ mẫu
của giáo viên là nội dung bài học thể hiện trên bảng lớp và là mẫu mực để các
em noi theo. Khi chấm bài của học sinh tôi cũng phải luôn chú ý vì đây cũng là
một loại chữ mẫu được học sinh quan sát rất kỹ khi phát bài.
Đúng như thế khi đọc cũng như khi viết không phải chỉ học ở trường mà
về nhà các em cũng phải tập viết ôn đi ôn lại nhiều lần mới viết đúng và đẹp
được. Vì rèn chữ không phải một hai ngày mà phải qua quá trính rèn luyện lâu


dài trong tất cả các môn học. Mỗi ngày mỗi lần như thế giáo viên chúng ta
không thể bỏ qua giai đoạn nhận xét chữa bài, vì qua đó giúp ta phát hiện kịp
thời để uốn nắn đúng lúc. Còn một điều nữa, khi học sinh viết vào vở, tôi cho
các em nhận xét chữ mẫu, từng nét, từng chữ, vừa giảng vừa viết chữ thứ nhất,
chữ thứ hai, chú ý khoảng cách giữa các con chữ, chiều rộng các chữ. Sau đó
giáo viên đi quan sát những em chậm trong lớp rồi mới đến cả lớp. Giáo viên
nêu nhận xét những sai sót cho các em. Sau mỗi tiết dạy cần đưa ra những bài
viết đúng, đẹp tuyên dương trước lớp.
Bên cạnh tôi không thể quên khen ngợi những em có tiến bộ dù là một
tiến bộ nhỏ để khích lệ động viên các em.
Cứ như thế tôi tiến hành ngày qua ngày bằng các phương pháp trên cho
đến thời điểm này cuối học kỳ 1 cả lớp tôi các em đều viết đúng, đều nét và đẹp.
4. BIỆN PHÁP 4:
Kết hợp với gia đình thông qua làm tốt công tác chủ nhiệm lớp.
Ngoài việc học ở trường, ở lớp để giúp các em học tốt, học mau tiến bộ
thì gia đình cũng có phần trách nhiệm lớn lao cùng giáo viên để thúc đẩy việc
học tập của các em ngày một tiến lên. Bởi vì gia đình là một tế bào của xã hội,
có gia đình cùng hợp tác với giáo viên thì tôi nghĩ học sinh mình sẽ mau tiến bộ.
Vì vậy, gia đình cần quan tâm đến việc học của con em mình, có sự quan tâm

của gia đình các em sẽ không dám thờ ơ sao lãng trong việc học, bởi không có
sự gần gũi nào bằng sự gần gũi trong gia đình (với cha, mẹ, anh, chị em).
Hằng tuần, tôi thường đến thăm hoặc liên lạc với một số phụ huynh để
trao đổi tình hình học tập của con em mình. Nếu phụ huynh nào có khả năng về
kiến thức thì dành thời gian để trao đổi bàn bạc về cách dạy các em chậm. Hãy
tranh thủ thời gian nhắc nhở các em học bài ở nhà để các em có thói quen dần
với thời gian biểu ở nhà. Bên cạnh, tôi còn đến những gia đình có hoàn cảnh khó
khăn để động viên các em và giúp đỡ các em kịp thời trước những khó khăn.
Ví dụ: Cho mượn hộp đồ dùng, bộ sách, cho em quyển tập, cây bút…
Phải cho các em biết được ích lợi của việc học. Từ đó các em có hướng cố
gắng, siêng học. Muốn thế tôi phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Từ đầu năm
học tôi tiến hành điều tra cơ bản về tình hình sức khỏe, gia đình, dụng cụ học
tập. Học sinh nào chưa đủ sách vở... Tôi liên hệ với Thư viện trường để giúp đỡ.
Như tôi đã nói học sinh lớp tôi đa số là con nhà nông cha mẹ phải đi làm
từ sáng sớm đến chiều tối mới về. Nên việc dạy con đọc viết hình như là giao
khoán cho giáo viên. Thực tế cho thấy có những bậc cha mẹ đưa con đến trường
là xong giao tất cho giáo viên. Tôi phải liên lạc với phụ huynh mà đa số tập
trung vào học sinh đọc, viết chậm của lớp tôi. Do vậy đối với các trường hợp
này, tôi thường xuyên trao đổi liên lạc để phụ huynh hiểu rằng nếu các em đọc
tốt, viết tốt thì phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa gia đình và nhà trường. Yêu
cầu phụ huynh cần kiểm tra bài của học sinh sau mỗi ngày học, xem con mình


đã học những gì những môn học nào, trong ngày ở lớp để giúp các em soạn sách
vở trong thời gian đầu năm học. Hướng dẫn các em đọc bài nhiều lần ở nhà,
chuẩn bị bài cho ngày mới.
Theo kế hoạch cụ thể của trường, mỗi năm có họp phụ huynh sau những
lần kiểm tra. Nhưng đối với những học sinh đọc chậm, viết chậm này tôi thường
xuyên liên lạc với phụ huynh bằng phiếu liên lạc, có đôi lúc tôi phải trực tiếp
trao đổi với phụ huynh.

Kết quả 100% học sinh có đủ sách vở, dụng cụ học tập, học sinh đi học
đầy đủ và thích đến lớp chỉ vắng các trường hợp bị bệnh không đi học được.
Chữ viết rõ ràng và sạch sẽ hơn. Học sinh đọc đúng rõ và to.
Những biện pháp trên tuy đơn giản nhưng có tác dụng khi giáo viên biết
sử dụng lâu dài trong suốt năm học.
Mục 2d/ Kết quả chuyển biến:
Thực vậy trong quá trình thực hiện các biện pháp để giảng dạy. Tôi nhận
thấy học sinh học tốt phân môn Học vần lớp Một. Các em có hứng thú trong học
tập, luôn chuẩn bị bài đầy đủ khi đến lớp. Từ một học sinh chậm nhất ở đầu năm
học mà nay các em đã đạt mức hoàn thành. Đây là việc làm đem lại niềm vui
cho bản thân các em và gia đình, đồng thời góp phần đưa phong trào học tập của
lớp đi lên.
* Kết quả khi áp dụng các biện pháp trên tôi thấy phân môn Học vần lớp
tôi có những chuyển biến, kết quả qua những lần kiểm tra như sau:
Đầu năm
Sỉ số

27

Phân loại học sinh

Số
HS

Tỉ lệ

Học sinh đọc viết tốt

Cuối HK I
Tỉ lệ


%

Số
HS

7

26%

11

40.7%

Học sinh đọc viết theo
chuẩn

8

29.6%

10

37%

Học sinh đọc chậm, viết
chậm so với chuẩn

7


26%

6

22.2%

Học sinh chưa đọc được,
viết được một số vần
tiếng khó

5

18.5%

0

%

Cuối HK II
Số
HS

Tỉ lệ


Mục 3a/ Tóm lược giải pháp:
Muốn giúp cho học sinh học tốt phân môn Học vần lớp Một đạt kết quả
cao. Người giáo viên phải am hiểu các đối tượng học sinh, phải hiểu được hoàn
cảnh sống của từng em về gia đình. Để từ đó có biện pháp giúp đỡ kịp thời, uốn
nắn các em bằng lòng yêu nghề mến trẻ của bản thân, phải quan tâm giúp đỡ các

em, từ đó lôi cuốn các vào hoạt động học tập. Điều quan trọng nhất là chúng ta
phải nhiệt tình, xem giúp đỡ học sinh là nghĩa vụ, là trách nhiệm, hãy làm hết
mình bằng cái tâm của người thầy. Khi các em viết sai, đọc sai giáo viên phải
biết đặt những câu hỏi gợi ý giúp đỡ để dần dần các em nhớ và khắc sâu hơn.
Cần phối hợp nhiều phương pháp dạy học, hình thức cũng như biện pháp
rèn luyện, kiểm tra đánh giá hằng ngày để kịp thời điều chỉnh và sửa chữa.
Giáo viên phải biết cách khen ngợi đúng lúc đúng chỗ để khích lệ tinh
thần các em. Đồng thời phải biết kết hợp giữa các môi trường giáo dục: nhà
trường, gia đình và xã hội.
Cuối cùng sau khi sử dụng các biện pháp trên tôi nhận thấy rằng có kết
quả tốt dù chỉ là bước thành công nhỏ nhưng các em đã tiến bộ rõ rệt. Tôi hết
sức vui mừng càng nỗ lực trong công tác giảng dạy, đúc kết thêm kinh nghiệm
giúp các em ngày càng tốt hơn.
Mục 3b/ Phạm vi đối tượng áp dụng:
Bằng những biện pháp mà tôi đã thực hiện trong thời gian qua để giảng
dạy trong phân môn Học vần trực tiếp ở lớp của mình. Qua sự theo dõi và thống
kê với những lần kiểm tra tôi nhận thấy rằng chất lượng ngày được nâng cao và
tiến bộ rõ rệt. Tôi nghĩ rằng các biện pháp nêu trên có thể áp dụng cho tất cả các
khối lớp Một trong toàn Tỉnh nhằm giúp học sinh học tốt phân môn Học vần
môn Tiếng Việt lớp Một.
Tuy nhiên ở từng vùng mà giáo viên thay đổi các phương pháp cho phù
hợp với học sinh lớp mình.
Mục 3c/ Kiến nghị:


I. Lý do chọn đề tài

Trang

Mục 1a. Đặt vấn đề..............................................1

Mục 1b. Mục đích đề tài ......................................3
Mục 1c. Lịch sử đề tài .........................................3
Mục 1d. Phạm vi đề tài .........................................3

II.Nội dung công việc đã làm
Mục 2a. Thực trạng đề tài ...................................5
Mục 2b. Nội dung cần giải quyết .........................5
Mục 2c. Biện pháp giải quyết ..............................6
Mục 2d .Kết quả chuyển biến..............................16

III. Kết luận
Mục 3a. Tóm lược giải pháp .............................17
Mục 3b. Phạm vi đối tượng áp dung .................17
Mục 3c. Kiến nghị...............................................17





×