Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

skkn một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy ngữ văn 8 phần văn bản trung đại bằng cách tích hợp kiến thức liên môn trong dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1007.89 KB, 25 trang )

I/. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1/. Đặt vấn đề:
Môn Ngữ văn trước hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó
nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm
cho học sinh. Môn Ngữ văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ. Điều đó
nói lên mối quan hệ giữa Ngữ văn và các môn khác. Học môn Ngữ văn sẽ có tác
động tích cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần
giúp học tốt môn Ngữ văn. Cho nên tự nó cũng toát lên yêu cầu tăng cường tính
thực hành giảm lý thuyết gắn với đời sống.
Hơn nữa, Ngữ văn cũng là môn học góp phần hình thành nên những kiến
thức cơ bản và quan trọng nhất là hình thành nhân cách con người, chuẩn bị cho
các em một hành trang để bước vào đời hoặc học lên những bậc học cao hơn. Đó
cũng chính là chiếc chìa khóa mở cửa cho tương lai.
Thấy được tầm quan trọng của việc dạy và học môn Ngữ văn nói chung và
Ngữ văn 8 nói riêng đồng thời phát huy cao hơn nữa hiệu quả trong giảng dạy
theo tinh thần đổi mới sách giáo khoa và quan điểm tích hợp là vấn đề cần được
quan tâm nhất hiện nay. Bởi tích hợp là một xu thế phổ biến trong dạy học hiện
đại. Nó giúp học sinh tiết kiệm thời gian học tập mà vẫn mang lại hiệu quả nhận
thức, có thể tránh được những biểu hiện cô lập, tách rời từng phương diện kiến
thức đồng thời phát triển tư duy biện chứng, khả năng thông hiểu và vận dụng
kiến thức linh hoạt vào các yêu cầu môn học, phân môn cụ thể trong chương
trình học tập theo nhiều cách khác nhau. Vì thế, việc nắm kiến thức sẽ sâu sắc,
hệ thống và lâu bền hơn.
Trong những năm gần đây, nền giáo dục Việt Nam đang có sự chuyển đổi
mới để theo kịp các nước phát triển, hội nhập với nền văn hóa thế giới. Công
cuộc đổi mới không chỉ dừng lại ở việc thay đổi sách giáo khoa mà còn thay đổi
cả ở phương pháp dạy học, dự giờ. Những cuộc hội thảo khoa học, những
chuyên đề tích hợp các phương pháp dạy học liên tiếp được thực hiện nhằm đưa
ra giải pháp tối ưu cho người dạy và người học. Vận dụng tích hợp kiến thức
liên môn trong một giờ học là một trong những xu thế dạy học hiện đại đang
được quan tâm, nghiên cứu và áp dụng ở nhiều nước trên thế giới trong đó có


Việt Nam. Qua việc tích hợp kiến thức liên môn trong tiết học trên lớp, học sinh
được rèn luyện thói quen tư duy, nhận thức vấn đề một cách sâu rộng, có hệ
thống, biết tư duy lô-gic và quan trọng hơn là tạo được sự hứng thú, say mê với
môn học.
Ngữ văn là một trong những môn học có nhiều tiết học trong chương trình
giáo dục trung học cơ sở (THCS). Điều đó cho thấy vị trí và tầm quan trọng của
bộ môn này trong quá trình học tập của học sinh. Bộ môn này cũng có mặt trong
danh sách các môn thi bắt buộc của học sinh. Tuy nhiên trên thực tế, không
nhiều học sinh yêu thích môn học này. Thậm chí, rất nhiều em chán ghét và sợ,
mỗi khi đến giờ học Ngữ văn. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện
tượng trên, phải kể đến khối lượng các tác phẩm mà các em phải tiếp nhận trong
suốt bốn năm học. Chương trình Ngữ văn THCS có phạm vi thời gian kéo dài từ
1


Văn học dân gian cho đến Văn học hiện đại, trải dài theo chiều dài lịch sử của
đất nước. Học sinh của thế kỷ XXI phải học những tác phẩm của hàng ngàn,
hàng trăm năm về trước. Sự chênh lệch thời gian kéo theo sự thiếu hiểu biết về
nhiều lĩnh vực khác nhau nên khi tìm hiểu một tác phẩm văn học các em gặp
phải không ít những khó khăn.
Trong chương trình Ngữ văn 8 học kỳ II, phần học về các văn bản nghị luận
trung đại đặt ra nhiều trăn trở đối với giáo viên khi soạn giảng. Đồng thời, khi
tìm hiểu để soạn bài và việc học bài của học sinh cũng là một trở ngại lớn.
Vậy, làm thế nào để những giờ học văn bản này không trở nên nhàm chán,
giáo điều đơn điệu hoặc bị sa vào kho kiến thức khổng lồ nhưng xa lạ với học
sinh hiện nay và làm thế nào để nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn 8 nói
chung và phần văn học trung đại nói riêng là điều mà tôi quan tâm, trăn trở?
Xuất phát từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nêu trên, tôi đã mạnh dạn đưa ra
tìm hiểu vấn đề : “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn
8 phần văn bản Trung đại bằng cách tích hợp kiến thức liên môn trong

dạy-học”.
2/. Mục đích đề tài:
Trong toàn bộ chương trình Ngữ văn THCS, văn học trung đại có một vị trí
rất quan trọng trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Gần một ngàn
năm Bắc thuộc, dù chịu nhiều ảnh hưởng về chữ viết, văn học, triết lý, phong tục
tập quán của phương Bắc nhưng dân tộc Việt Nam với ý thức quốc gia và tinh
thần tự chủ cao độ đã không mệt mỏi đấu tranh để giữ gìn bản sắc dân tộc và
truyền thống cha ông. Các tác phẩm nghị luận trung đại được đưa vào giảng dạy
trong Ngữ văn 8 phần nào đã phản ánh được điều đó. Tuy nhiên, việc giảng dạy
các văn bản này sao cho học sinh dễ hiểu và có thể cảm nhận được lại rất khó
khăn đối với giáo viên đồng thời làm sao để việc học tập của các em được vận
dụng thiết thực vào đời sống của chính các em cũng không mấy dễ dàng.
Mục đích của việc dạy tích hợp trong môn Ngữ văn không chỉ dừng lại ở
việc tích hợp khép kín “trong nội bộ phân môn Ngữ văn” mà người dạy phải
giúp cho người học tự học, sáng tạo, bồi dưỡng tư duy, tâm hồn, hiểu và biết
tổng hợp, vận dụng các kiến thức của các môn học vào trong bài học để tiết học
sinh động, gây hứng thú cho học sinh trong giờ học. Qua đó học sinh sẽ tiếp thu
và nắm vững nội dung bài học một cách hợp lý có hiệu quả hơn. Bên cạnh việc
tích hợp kiến thức của các môn học giáo viên cần lưu ý hướng dẫn cho học sinh
thói quen tìm hiểu và biết vận dụng tổng hợp kiến thức để giải quyết một vấn đề.
Bởi vì việc học sinh tự tìm hiểu kiến thức cho nội dung bài học sẽ mang lại một
cách tiếp cận mới đa chiều để các em bước vào bài học một cách hiệu quả nhất.
Qua đó tạo cho học sinh hứng thú, tích cực hơn trong học tập.
3/. Lịch sử đề tài:
Từ trước đến nay có rất nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu về việc tích hợp
kiến thức liên môn vào việc giảng dạy ở trường phổ thông. Thế nhưng lại có rất
ít tài liệu đề cập đến việc tích hợp kiến thức liên môn vào giảng dạy bộ môn
Ngữ văn ở trường Trung học cơ sở (THCS) đặc biệt là phần văn bản trung đại
2



trong chương trình Ngữ văn 8 ở học kì II. Do đó, bản thân tôi muốn tìm hiểu để
tìm ra một số giải pháp có thể giúp nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn 8
phần văn bản trung đại nhằm giúp cho học sinh nâng cao năng lực sử dụng
những kiến thức và kĩ năng mà các em đã lĩnh hội từ giáo viên, từ đó các em tự
huy động có hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những
tình huống có ý nghĩa, cũng có khi là một tình huống khó khăn, bất ngờ hoặc
một tình huống chưa từng gặp trong cuộc sống. Tuy nhiên, vấn đề mà tôi nêu ra
trong đề tài là đi sâu vào nghiên cứu vấn đề nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ
văn 8 phần văn bản Trung đại bằng cách tích hợp kiến thức liên môn trong
dạy- học ở một địa phương cụ thể đó là xã Long Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh
Long An.
4/. Phạm vi đề tài:
- Trong sáng kiến kinh nghiệm này, tôi chỉ đề cập đến nội dung phần văn bản
Trung đại trong sách giáo khoa (SGK) Ngữ văn 8 học kì II.
- Áp dụng cho đối tượng học sinh lớp 8 ở trường THCS Long Thạnh, xã
Long Thạnh, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An.

3


II/. NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM:
1/. Thực trạng đề tài:
Qua quá trình giảng dạy chương trình Ngữ văn lớp 8, tôi nhận thấy một số
điều như sau:
- Trong xu thế đổi mới toàn diện nội dung, chương trình sách giáo khoa,
phương pháp dạy học hiện nay bên cạnh những thành công, những kết quả đáng
phát huy vẫn còn tồn tại những bất cập nhất định. Chẳng hạn, học sinh giờ đây
không còn yêu thích môn Ngữ văn; cách tiếp cận, học tập môn Ngữ văn vẫn còn
thụ động. Nhiều em không thuộc nổi một bài thơ ngắn, không tóm tắt được một

văn bản tự sự,... Bởi vậy dẫn đến rất nhiều hiện tượng dở khóc dở cười. Đặc biệt
với các tác phẩm văn học, khoảng thời gian lịch sử cách xa như Văn học Trung
đại học sinh tiếp cận học tập hầu như thụ động, lúng túng. Lúng túng không chỉ
vì vấn đề đặt ra khác thời đại sống; tư tưởng, giá trị thẩm mỹ hoàn toàn khác
thời đương đại mà một phần do các em rất khó tiếp cận, không hiểu hoặc hiểu
chưa sâu mục đích của văn chương thời bấy giờ: Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn chí.
Thụ động học tập còn thể hiện ở chỗ, tác phẩm bao giờ cũng là trung hòa của
các yếu tố nghệ thuật, tư tưởng, văn hóa, phong tục tập quán, địa lý, lịch sử,...
Do đó giúp học sinh tiếp cận đúng các tác phẩm trung đại, tìm ra được phương
pháp đúng nhất người giáo viên phải cung cấp, rèn luyện, tạo cho các em thói
quen học đa chiều, tích hợp kiến thức liên môn để giải quyết tốt một vấn đề.
Văn học trung đại Việt Nam được viết bằng hai loại chữ: chữ Hán và chữ
Nôm. Chữ Hán vốn mượn của người Trung Quốc còn chữ Nôm là mẫu tự do
cha ông ta sáng tạo ra. Các tác phẩm nghị luận trong chương trình Ngữ văn 8
đều được viết bằng chữ Hán. Gồm bốn văn bản sau đây: Chiếu dời đô (Lý Công
Uẩn); Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn); Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại
cáo- Nguyễn Trãi); Bàn luận về phép học (La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp).
Trên thực tế, việc dạy các tiết phần văn bản trung đại trong môn Ngữ văn 8
hiện nay hiệu quả chưa cao; với học sinh, các em có vẻ xem nhẹ phần văn bản
trung đại và lúng túng trong việc tiếp cận nó.
Do đó, tôi đã làm một cuộc khảo sát học sinh của trường với các câu hỏi như
sau:
1) Phân biệt các thể loại: hịch, chiếu, cáo, tấu đã được học?
2) Giới thiệu tác giả và hoàn cảnh ra đời của một văn bản thuộc các thể loại
trên?
3) Việc nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La có ý nghĩa như thế nào?
4) Em hiểu thế nào về quan điểm “độc lập và chủ quyền” trong văn bản
“Nước Đại Việt ta”, trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước ta?
- Mục đích của việc khảo sát:
+ Phân biệt được đặc điểm cơ bản của các thể loại nghị luận trung đại Việt

Nam.
+ Nắm được và trình bày ngắn gọn về tác giả và hoàn cảnh ra đời của một
văn bản nghị luận được học.

4


+ Nói được ý nghĩa to lớn và lâu dài của việc dời đô từ Hoa Lư về Đại La, có
đối chiếu với lịch sử của đất nước từ thế kỷ X đến nay để thấy được sự sáng suốt
đúng đắn của Lý Thái Tổ từ thế kỷ X.
+ Hiểu được quan điểm độc lập và chủ quyền của dân tộc là không kẻ thù
nào được phép xâm phạm. Liên hệ với thực tế đất nước để thấy được sự hi sinh
to lớn cho toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam hôm nay.
Thông qua hồ sơ học tập và việc khảo sát học sinh của trường, tôi đã thu
được kết quả như sau:
- Phần lớn học sinh không hứng thú vào giờ học Ngữ văn đặc biệt là phần
văn bản trung đại.
- Không khí lớp học nặng nề, thiếu sôi nổi, học sinh ngại học những tiết Ngữ
văn.
- Học sinh nắm được những thông tin cơ bản về tác giả nhưng hoàn cảnh ra
đời và mục đích chính của văn bản thì trình bày còn rất lộn xộn. Nhiều em còn
nhầm lẫn thể loại của văn bản.
- Phần hiểu ý nghĩa văn bản của học sinh còn rất hạn chế. Ở câu 3 và 4 nhiều
em không liên hệ được với hiện tại.
- Tỉ lệ học sinh hứng thú khi học phần văn bản trung đại là: 36,84%.
- Bảng thống kê kết quả khảo sát học sinh:
Tỉ lệ học sinh
đạt 01 câu
92,11%


Tỉ lệ học sinh
đạt 02 câu
65,79%

Tỉ lệ học sinh
đạt 03 câu
26,32%

Tỉ lệ học sinh
đạt 04 câu
13,16%

2/. Nội dung cần giải quyết:
Với thực tế về tình trạng học tập môn Ngữ văn của các em còn thấp, tôi đã
tiến hành điều tra nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Nguyên nhân thì có
nhiều song theo tôi, do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
2.1/. Đối với giáo viên:
Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo, quan tâm đến
học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau:
- Có giáo viên chỉ tập trung chuyển tải một cách rập khuôn những thông tin
có trong bài học mà chưa chú trọng khai thác những vấn đề liên quan.
- Giáo viên còn lúng túng khi đưa ra hệ thống câu hỏi khai thác cũng như
phương pháp triển khai những văn bản văn học.
- Vẫn còn hiện tượng giáo viên thiếu nhiệt tình trong quá trình tìm tòi, sưu
tầm những kiến thức liên quan bổ sung cho nội dung bài dạy dẫn đến khả năng
tích hợp còn hạn chế.
- Mặt khác, kiến thức lý luận văn học của một bộ phận giáo viên chưa thật sự
vững vàng.
- Việc dạy văn bản trong chương trình đổi mới luôn lấy tiêu chí bám sát thể
loại và kiểu bài Tập làm văn. Đây cũng là một hạn chế trong việc học văn bản

văn học. Sự gò ép buộc các em phải nắm được nghệ thuật nghị luận của văn bản
5


khiến cho giờ học mất đi chất văn chương, không có sự gần gũi thực tế vì thời
gian không cho phép giáo viên đi sâu hoặc mở rộng vấn đề trong bài dạy của
mình.
- Đồ dùng để sử dụng trong dạy- học Ngữ văn còn rất hạn chế, do vậy giáo
viên gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy, học sinh chưa phát huy được tính tích
cực, sự hứng thú và chủ động trong học tập.
2.2/. Đối với học sinh:
- Phần lớn học sinh đều xuất thân và sinh sống ở vùng nông thôn, vùng sâu
vùng xa, vùng kinh tế còn khó khăn, hầu hết phụ huynh đều đi làm ăn xa, ít có
thời gian quan tâm con em mình. Bản thân các em còn phải phụ giúp gia đình
ngoài giờ lên lớp, không có thời gian học.
- Một số học sinh vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho
giờ học Ngữ văn.
- Đời sống văn hóa tinh thần ngày một nâng cao, một số nhu cầu giải trí như
xem ti vi, chơi game,. . . ngày càng nhiều làm cho một số em chưa có ý thức học
bị lôi cuốn, xao nhãng việc học.
- Đa số học sinh còn nhiều hạn chế trong việc tiếp thu và cảm thụ văn bản
văn học. Một mặt do trình độ nhận thức của một số học sinh còn yếu, chưa có tư
duy sáng tạo.
- Học sinh chưa năm bắt được mối liên hệ giữa thời đại thông qua bộ môn
lịch sử với giá trị phản ánh của tác phẩm văn học.
- Hiện nay, một số học sinh sử dụng sách tham khảo, nhiều tài liệu bán trên
thị trường chất lượng kém dẫn đến một thực trạng có nhiều ý kiến đánh giá khác
nhau về một tác phẩm làm cho các em lúng túng, thiếu tự tin, bị động, thiếu sự
tìm tòi, đánh giá, phân tích chi tiết. Không phát huy được tính tích cực, chủ động
sáng tạo của từng cá nhân. Vì vậy phần lớn các em sao chép tài liệu một cách

máy móc không xác định được kiến thức trọng tâm trong từng đơn vị bài học.
- Một thực tế đang tồn tại ở trường THCS Long Thạnh nữa là học sinh bị
hỏng kiến thức từ các cấp, lớp học dưới, các em học trước quên sau. Cho nên
học sinh rất khó tiếp thu được kiến thức của văn bản khi chưa hiểu hết ý nghĩa
của các yếu tố lịch sử, điển cố, điển tích, các nội dung mang tính cổ xưa sử dụng
trong đó.
- Phần lớn học sinh ít có tư liệu để đọc, tham khảo và cũng chưa có thói quen
đọc sách tham khảo để bổ sung kiến thức môn học.
- Đây là thể loại mới rất lạ với học sinh lớp 8 và trong chương trình không có
kiểu bài giới thiệu tiến trình văn học (văn học sử) nên các em khó hình dung
được không khí lịch sử của thời đại. Mặt khác, việc giảng dạy các văn bản này
đều qua bản dịch. Đây là một khó khăn không nhỏ khi tích hợp với Tiếng Việt
trong việc hiểu và giải nghĩa các từ Hán Việt, các điển tích, điển cố. Điểm nổi
bật trong tác phẩm này là sự thuyết phục người đọc bằng lí trí và tình cảm. Tuy
là một văn bản nghị luận chính trị song lại có nhiều hình ảnh rất gợi cảm với thể
văn biền ngẫu, uyển chuyển mạnh mẽ, giàu nhạc điệu nên phong cách dạy cũng
khác với thể loại thơ trữ tình hoặc tự sự.
6


- Tác giả của các tác phẩm được học đều là những nhân vật lịch sử nổi tiếng
trong quá khứ. Nhưng học sinh thiếu sự am hiểu về các nhân vật lịch sử cho nên
kiến thức lịch sử dù đã được học ở bộ môn Lịch sử nhưng đều rơi rụng nhiều khi
học Ngữ văn.
- Học sinh chưa xây dựng được hoặc chưa thực hiện nghiêm túc việc học ở
nhà, khâu soạn bài thường làm chiếu lệ để đối phó là chính. Áp lực của các môn
học khác khiến cho các em có ít cơ hội để mở rộng việc tìm hiểu bài học thông
qua các kênh thông tin khác.
- Nguyên nhân khách quan là hiện nay do một số văn bản dung lượng quá dài
so với thời lượng 45- 90 phút nghiên cứu trên lớp, học sinh rất khó có thể nắm

bắt hết được toàn bộ các giá trị của văn bản văn học.
Với một thực trạng nêu trên, nhất thiết phải có hướng khắc phục, trước tiên
chúng ta hãy từng bước vận dụng hình thức giảng dạy theo hướng tích hợp kiến
thức liên môn để hỗ trợ khi cần cho từng tiết dạy và có thể kiểm tra để thấy hiệu
quả nhận thức của học sinh. Chính vì thế, tôi đã tiến hành áp dụng một số giải
pháp nâng cao chất lượng giảng dạy Ngữ văn 8 phần văn bản Trung đại bằng
cách tích hợp kiến thức liên môn trong dạy-học.
3/. Biện pháp giải quyết:
Dạy học Ngữ văn theo định hướng tích hợp kiến thức liên môn vẫn hướng
theo quan điểm “lấy học sinh làm trung tâm”, tích cực hoá hoạt động học tập của
học sinh trong mọi mặt, mọi khâu của quá trình dạy học; tìm mọi cách phát huy
năng lực tự học, năng lực sáng tạo của học sinh. Do vậy, việc lựa chọn và sử
dụng các phương pháp dạy học cần chú ý giúp học sinh tích hợp các kiến thức
và kĩ năng đã lĩnh hội, xác lập mối liên hệ giữa các tri thức và kĩ năng thuộc các
phân môn đã học bằng cách tổ chức, thiết kế các nội dung, tình huống tích hợp
để học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng riêng rẽ của các phân môn
vào giải quyết vấn đề đặt ra, qua đó lĩnh hội các kiến thức và phát triển năng lực,
kĩ năng tích hợp. Tổ chức, thiết kế các hoạt động phức hợp để học sinh học cách
sử dụng phối hợp những kiến thức và kĩ năng đã tiếp thu trong “nội bộ các phân
môn”. Đặt học sinh vào trung tâm của quá trình dạy học để học sinh trực tiếp
tham gia vào giải quyết các vấn đề, tình huống tích hợp; biến quá trình truyền
thụ tri thức thành quá trình học sinh tự ý thức về cách thức chiếm lĩnh tri thức và
hình thành kĩ năng. Ngoài ra, việc dạy học tích hợp kiến thức các môn học còn
giúp cho học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo của mình.
Giáo viên cần chú trọng mối quan hệ giữa học sinh với sách giáo khoa, từ đó
phải buộc học sinh chủ động tự đọc, tự làm việc độc lập theo yêu cầu trong sách
giáo khoa và theo hướng dẫn của giáo viên thì hiệu quả giờ dạy- học đạt chất
lượng cao hơn.
Muốn học sinh hứng thú với môn học, muốn có hiệu quả trong giảng dạy học
Ngữ văn không thể không đổi mới phương pháp. Kiến thức ngày càng đa dạng,

có xu hướng xích gần nhau hơn đặc biệt là các môn khoa học xã hội có sự gắn
kết chặt chẽ. Việc vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề không
phải là câu chuyện hoàn toàn mới. Nó đã được nhắc đến, được thực hiện từ rất
7


lâu. Những giáo viên có kinh nghiệm vẫn đang làm, học sinh khá- giỏi các em
cũng đang làm. Vấn đề đặt ra ở đây là làm sao để đại bộ phận giáo viên và tất cả
học sinh cùng hưởng ứng, cùng làm. Trong Ngữ văn có Lịch sử; trong Ngữ văn
có Địa lí; trong Ngữ văn có văn hóa, có âm nhạc, có hội họa, có tư tưởng, có giá
trị thẩm mỹ. Làm thế nào để một tác phẩm mãi sống, mãi lung linh tỏa sáng,
thắm ngắm vào tâm hồn mỗi học sinh, để các em không chỉ hiểu mà còn biết
sống đẹp, sống cần lao động là vấn đề đặt ra với mỗi giáo viên dạy Ngữ văn. Do
đó, tích hợp kiến thức liên môn trong giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại
không còn là vấn đề đơn thuần nữa mà nó trở thành nhiệm vụ của mỗi ai đã,
đang và sẽ là giáo viên dạy Ngữ văn trong mỗi nhà trường.
Từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nâng cao chất
lượng giảng dạy Ngữ văn 8 phần văn bản Trung đại bằng cách tích hợp kiến
thức liên môn trong dạy-học như sau :
3.1/. Chuẩn bị về kiến thức:
3.1.1/. Nắm vững thể loại và các đặc trưng của thể loại:
* Về thể loại:
- Chiếu: Là thể loại văn cổ, do vua (chúa hay thủ lĩnh) dùng để ban bố mệnh
lệnh.
- Hịch: Là thể văn nghị luận thời xưa, thường được vua chúa, tướng lĩnh hay
thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ vũ động viên, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu
tranh chống thù trong giặc ngoài.
- Cáo: Là một thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa, hoặc thủ lĩnh
dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp để mọi
người cùng biết.

- Tấu: là một loại văn thư của bề tôi, thần dân gửi lên vua chúa để trình bày
sự việc, ý kiến, đề nghị.
* Về đặc trưng:
- Thuyết phục bằng lí trí và tình cảm: Nghệ thuật nghị luận chặt chẽ, sắc bén,
từ ngữ và hình ảnh cô đọng, gợi ấn tượng sâu sắc.
- Dùng lối văn biền ngẫu biến hoá linh hoạt, nhịp nhàng. Khi thì là văn xuôi,
khi là văn vần.
- Văn- sử- triết bất phân.
- In đậm thế giới quan con người trung đại: Tư tưởng mệnh trời, thần, tâm lí
sùng cổ, sùng bái tổ tiên,…
3.1.2/. Phân biệt sự khác nhau của bốn thể loại nghị luận:
- Khác nhau về mục đích:
+ Chiếu: Trình bày một chủ trương, đường lối để mọi người chấp thuận bằng
cách dùng lí lẽ để lập luận hướng tới mục đích.
+ Hịch: Kêu gọi, cổ vũ động viên bằng cách dùng tình cảm và lập luận để tác
động vào tinh thần.
+ Cáo: Công bố kết quả của một sự nghiệp bằng cách nêu quan điểm lập
trường của sự nghiệp đó.

8


+ Tấu: Nêu ý kiến, đưa ra đề nghị, yêu cầu bằng cách lập luận xác đáng và
thuyết phục.
- Khác nhau về đối tượng viết và nhận:
+ Chiếu, hịch, cáo: do vua, chúa hoặc thủ lĩnh viết và thần dân, binh lính,…
tiếp nhận.
+ Tấu ( biểu, sớ): do thần tử, bề tôi, quan tướng viết dâng lên vua chúa.
3.1.3/. Nắm vững kiến thức về văn học sử
Một trong những hạn chế của chương trình sách giáo khoa mới là phá vỡ tính

hệ thống của văn học sử, do việc chọn Tập làm văn làm tiêu chí lựa chọn văn
bản giảng dạy. Do hạn chế này nên học sinh không được tiếp xúc với những bài
dạy về văn học sử. Mà cả bốn văn bản trung đại được học đều có mối liên quan
mật thiết đến lịch sử. Giáo viên cần nắm chắc kiến thức lịch sử để có cái nhìn
bao quát, từ đó có thể lựa chọn phương pháp phù hợp khi hướng dẫn các em
hiểu văn bản từ góc độ lịch sử. Có như vậy thì giá trị của tác phẩm văn học mới
được hiểu một cách cặn kẽ.
3.1.4/. Chuẩn bị vốn từ Hán Việt, nắm chắc các điển tích, điển cố văn
học
Do đặc điểm viết bằng chữ Hán nên khi dịch sang tiếng Việt, các văn bản
không tránh khỏi việc phải sử dụng nguyên vẹn các từ Hán. Bên cạnh đó, còn có
một khối lượng điển tích, điển cố rất hay. Việc dùng các điển tích, điển cố có tác
dụng giúp cho sự diễn đạt trở nên ngắn gọn mà vẫn giàu ý nghĩa và thuyết phục
người đọc, người nghe một cách ấn tượng. Ngoài những chú thích được giải
nghĩa trong sách giáo khoa, giáo viên cần tìm hiểu để nắm kĩ hơn nội dung của
chúng. Khi cần thiết, để tăng sự hứng thú cho các em dễ hình dung và nắm bắt
kiến thức, giáo viên có thể kể ngắn gọn.
3.2/. Chuẩn bị về phương pháp:
Trong mỗi bài dạy giáo viên cần chuẩn bị tốt về việc lựa chọn phương pháp
thích hợp. Nguyên tắc dạy học theo hướng tích hợp cần được tận dụng triệt để.
Những hướng tích hợp nên tận dụng thuộc một số lĩnh vực sau đây:
3.2.1/. Tích hợp ngang: Là tích hợp với các đơn vị kiến thức cùng môn học
như Tiếng Việt và Tập làm văn.
3.2.2/. Tích hợp dọc: Là tích hợp với các kiến thức thuộc các môn học khác
hoặc kiến thức đời sống xã hội,…
3.3/. Sử dụng hệ thống câu hỏi:
3.3.1/. Loại câu hỏi tái hiện:
Với loại câu hỏi này, học sinh sẽ được yêu cầu phát biểu, trình bày lại vấn đề.
Câu hỏi này chỉ là để chuyển tiếp tới nội dung phức tạp hơn. Các câu hỏi này
không cần thời gian suy nghĩ mà chỉ cần sự phát hiện của học sinh (ví dụ được

thể hiện ở phần phụ lục trang 17).
3.3.2/. Loại câu hỏi rèn năng lực tư duy và sử dụng ngôn ngữ:
Trên cơ sở học sinh đã hiểu nội dung, giáo viên sử dụng loại câu hỏi này để
yêu cầu học sinh phát hiện và trình bày lại về nội dung tư tưởng, quan điểm
nghệ thuật của tác phẩm. Loại câu hỏi này không thể dựa vào kết quả có sẵn đã
9


biết. Học sinh cần vận dụng năng lực tư duy của mình để sắp xếp lại các sự kiện,
chi tiết, lựa chọn ngôn từ, cách lập luận,...để diễn đạt một cách chính xác, rõ
ràng vấn đề. Dạng câu hỏi này dùng để kiểm tra kiến thức, ôn tập, củng cố (ví dụ
được thể hiện ở phần phụ lục trang 17).
3.3.3/. Câu hỏi giải thích:
Loại câu hỏi này đòi hỏi học sinh sau khi đã hiểu thấu đáo nội dung thì cần
phải biết chọn lọc chi tiết để giải quyết vấn đề được giáo viên đưa ra. Học sinh
phải có những hoạt động tư duy sau để giải quyết như: định hướng sự việc, lựa
chọn chi tiết, nắm được bản chất của vấn đề trong sự so sánh đối chiếu với toàn
bộ nội dung đã học (ví dụ được thể hiện ở phần phụ lục trang 18).
3.3.4/. Loại câu hỏi nêu vấn đề:
Câu hỏi nêu vấn đề thường được sử dụng trong những hoạt động đòi hỏi học
sinh tư duy, đối chiếu, so sánh,…để tìm hiểu những vấn đề khó của bài học. Nó
có tác dụng vừa củng cố vừa khắc sâu kiến thức vừa có hướng mở ra những khả
năng tìm tòi những cách giải quyết những hướng sáng tạo mới để giải quyết vấn
đề một cách toàn diện và sâu sắc. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài dạy để chọn
những vấn đề trọng tâm để đặt câu hỏi yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm (ví
dụ được thể hiện ở phần phụ lục trang 18).
3.4/. Xác định mục tiêu chính của bài dạy.
3.4.1/. Đảm bảo những mục tiêu cơ bản trong sách giáo khoa, sách giáo viên
và chuẩn kiến thức- kỹ năng. Việc này giúp học sinh phát huy khả năng cảm thụ
được tinh thần chung của mỗi tác phẩm trung đại.

3.4.2/. Chọn đưa thêm một vài nội dung cần hướng học sinh tìm hiểu và tiếp
nhận để các em phát huy được khả năng liên hệ thực tế, gắn tác phẩm với đời
sống hiện đại, từ đó các em sẽ có cơ hội hiểu sâu sắc hơn về giá trị của mỗi tác
phẩm (ví dụ được thể hiện ở phần phụ lục trang 18, 19).
3.5/. Điều chỉnh phương pháp tích hợp đã thực hiện theo hướng sử dụng
kiến thức liên môn.
Trong mỗi bài dạy giáo viên cần chuẩn bị tốt về việc lựa chọn phương pháp
thích hợp. Nguyên tắc dạy học theo hướng tích hợp cần được tận dụng triệt để.
Những hướng tích hợp nên tận dụng thuộc một số lĩnh vực sau đây:
* Tích hợp ngang: Là tích hợp với các đơn vị kiến thức cùng môn học như
Tiếng Việt và Tập làm văn.
- Tích hợp với Tiếng Việt: Giáo viên luôn xác định dùng kiến thức của Tiếng
Việt là để giúp học sinh cảm nhận nội dung văn bản một cách sâu sắc. Nhất thiết
không được biến một phần bài học thành giờ học Tiếng Việt. Cũng không nên
quá cứng nhắc trong tích hợp với Tiếng Việt, khi những đơn vị kiến thức tích
hợp không mấy liên quan đến bài học. Giáo viên chỉ nên tập trung vào những
đơn vị kiến thức Tiếng Việt có tác dụng trực tiếp đến sự cảm thụ của học sinh.
Ví dụ:
+ Trong văn bản Hịch tướng sĩ cần chú trọng trong việc làm sáng tỏ giá trị
của các câu hỏi tu từ: đây là những câu hỏi tu từ có khả năng khơi gợi suy nghĩ,

10


tình cảm của người nghe và thấy được thái độ nghiêm khắc trong phê phán, bao
dung trong động viên, khích lệ tướng sĩ của người chủ tướng giàu ân tình.
+ Trong Bàn luận về phép học cần chú ý khai thác các chú thích để hiểu rõ tư
tưởng của tác giả trong việc học, đạo học (tam cương, ngũ thường, đạo,…)
- Tích hợp với Tập làm văn: Việc ôn tập lại luận điểm và luận cứ trong văn
nghị luận chính là mục tiêu cơ bản trong tích hợp của các văn bản này. Bởi lẽ, cả

bốn văn bản đều sử dụng nghệ thuật nghị luận rất sắc sảo. Ngay từ phần tìm hiểu
cấu trúc của văn bản, giáo viên đã hướng dẫn học sinh bám sát bố cục và hệ
thống luận điểm trong văn nghị luận. Bài dạy cần được triển khai trên cơ sở của
một văn bản nghị luận: từ luận điểm đến tìm các luận cứ và xác định phương
pháp lập luận.
Ví dụ: Bố cục và hệ thống luận điểm trong Chiếu dời đô
Vấn đề chính: ý tưởng dời đô (vừa là mệnh lệnh thể hiện ý chí của nhà vua,
vừa nêu ý kiến để thảo luận)
- Luận điểm 1: Cần dời đô khỏi Hoa Lư vì không còn phù hợp (phân tích
những lí do dẫn đến việc dời đô)
+ Lí lẽ 1: Nhìn vào gương sáng đời xưa (đã nhiều lần diễn ra việc dời đô)
Dẫn chứng: Nhà Thương và nhà Chu ở Trung Quốc dời đô là đúng nên đất
nước phát triển lâu bền.
+ Lĩ lẽ 2: Thực tế hai triều Đinh và Lê (định đô mãi ở một nơi).
Dẫn chứng: Đất nước khó phát triển, các triều đại đều ngắn ngủi.
- Luận điểm 2: Đại La là mảnh đất lí tưởng trong việc chọn làm kinh đô
(trình bày ý chí định đô ở một vùng đất mới).
+ Lí lẽ 1: Đại La có nhiều lợi thế để phát triển đất nước (chính trị, kinh tế,
vị trí địa lý,…)
Dẫn chứng: (về vị trí thuận lợi, về kinh tế phát triển, về chính trị ổn định,…)
+ Lí lẽ 2: Nhà vua chọn Đại La làm kinh đô (bày tỏ ý chí đồng thời không áp
đặt mà nêu ý kiến để hỏi thần dân)
* Tích hợp dọc: Là tích hợp với các kiến thức liên môn thuộc các môn học
khác hoặc kiến thức đời sống xã hội,…
- Như trên đã trình bày, các văn bản nghị luận này đều có chung đặc trưng là
tính văn học sử rất rõ ràng. Vì thế, cần sử dụng kiến thức lịch sử để tích hợp. Tất
cả các bài dạy đều liên quan đến những sự kiện lịch sử nổi tiếng của đất nước.
Giáo viên cần tìm hiểu, lựa chọn kiến thức sẽ đưa vào tích hợp để tránh được
việc giờ học Ngữ văn biến thành một bài giảng Lịch sử thuần tuý.
Ví dụ: Việc nêu hoàn cảnh ra đời của bài Hịch tướng sĩ chỉ cần nhấn mạnh

vào thời điểm xuất hiện của nó (khoảng năm 1285) và lí do tại sao Trần Quốc
Tuấn lại viết bài hịch này (sau gần 30 năm kể từ khi quân Nguyên thất bại lần
thứ nhất, vì một thời gian dài được sống trong hoà bình, an nhàn nên một bộ
phận tướng sĩ có tư tưởng tư lợi cá nhân. Thực tế, đất nước đang đứng trước
nguy cơ kẻ thù tìm cớ xâm lược lần nữa. Để giúp tướng sĩ nhận rõ nguy cơ này,
Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch động viên tướng sĩ luyện tập theo binh thư để
chống lại kẻ thù).
11


- Mặt khác, để giúp học sinh cảm và hiểu các tác phẩm có từ thời trung đại
mà vẫn mới mẻ trong thời hiện đại, cần sử dụng các kiến thức về Địa lý, Giáo
dục công dân, Âm nhạc, Mĩ thuật phù hợp với mục tiêu bài dạy đề ra.
Ví dụ:
- Dạy văn bản Chiếu dời đô thì liên hệ với việc bảo tồn di tích lịch sử, văn
hóa ngày nay. Tìm thông tin về việc di tích Tràng An được công nhận là Di sản
văn hóa thế giới. Từ đó khơi dậy niềm kiêu hãnh và lòng tự hào dân tộc. Mặt
khác, tìm thông tin hoặc ra đề bài cho học sinh về nhà tìm hiểu về quá trình phát
triển cũng như những thành tựu của nền văn hóa Thăng Long để thấy được tầm
nhìn của vua Lý Thái Tổ.
- Dạy văn bản Hịch tướng sĩ thì liên hệ với tín ngưỡng thờ cúng Trần Hưng
Đạo ở khắp nơi trên đất nước ta để học sinh thấy được đức độ cao cả của ngài.
Từ đó học sinh có ý thức quan sát, tìm hiểu và làm theo.
- Ở mỗi bài dạy giáo viên cho học sinh liên hệ về mặt thể loại để thấy rằng
bốn thể văn này ngày nay chúng ta vẫn sử dụng nhưng dưới những hình thức
khác nhau.
+ Chiếu: ngày nay dùng hình thức phát ngôn hoặc đưa ra thảo luận góp ý
rộng rãi trong cả nước (ví dụ như thảo luận về Hiến pháp, các dự luật,...)
+ Hịch: ngày nay tồn tại dưới hình thức lời kêu gọi, lễ phát động, các phong
trào hưởng ứng,…

+ Cáo: ngày nay là các văn bản thông báo của nhà nước, các tuyên bố chung,
….
+Tấu: Những đề án, những dự án đề xuất lên cấp trên để cùng thảo luận, bàn
bạc và quyết sách,...
3.6/. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy – học:
Một trong những biện pháp đổi mới phương pháp dạy- học Ngữ văn là đổi
mới việc sử dụng đồ dùng dạy học để học sinh gần gũi hơn với tác phẩm, để
những kiến thức văn học bớt phần trừu tượng. Có như vậy mới giúp được các
em cảm thụ tác phẩm tốt hơn. Đồ dùng trực quan để văn bản nghị luận cổ hầu
như không có (chỉ có ba bức tranh, ảnh trong sách giáo khoa: chùa một cột,
tượng Trần Hưng Đạo, tranh minh họa Nguyễn Trãi viết cáo). Ngoài những
tranh, ảnh này chúng tôi đã sưu tầm trên mạng Internet một số các tư liệu là
tranh ảnh cả tĩnh và động để minh hoạ. Phần này cần tận dụng tối đa ưu thế của
việc sử dụng máy chiếu. Nếu soạn được giáo án điện tử thì càng tốt. Tuy nhiên
cần lưu ý sử dụng hạn chế số lượng tranh ảnh để học sinh tập trung vào việc ghi
nhớ có ấn tượng sâu sắc (tranh ảnh ví dụ được thể hiện ở phần phụ lục trang
20,21).
3.7/. Dùng sơ đồ trong phân tích và tổng kết bài học:
Do đặc điểm các văn bản đều thuộc loại văn nghị luận nên trong dạy học giáo
viên luôn bám sát hệ thống luận điểm, luận cứ và nghệ thuật lập luận đầy sức
thuyết phục. Không có cách gợi mở và kết luận nào tốt hơn việc lập sơ đồ để
học sinh hình dung, liên hệ và từ đó nắm chắc không chỉ kiến thức văn bản mà
còn có thể biết cách làm văn nghị luận ngay trong học văn bản. Tôi đã phân chia
12


ra một số loại sơ đồ sau đây: Sơ đồ để phân tích từng luận điểm; sơ đồ để tổng
kết bài học (sơ đồ ví dụ được thể hiện ở phần phụ lục trang 22, 23)
4/. Kết quả, chuyển biến của đối tượng:
Qua một thời gian rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu

trên, tôi nhận thấy chất lượng dạy và học môn Ngữ văn 8 nói chung và phần văn
bản trung đại nói riêng được nâng cao rõ rệt với sự chuyển biến hết sức khả
quan. Qua thực tiễn vận dụng giảng dạy, tôi thấy lớp học sôi động hơn rất nhiều
so với khi chưa áp dụng. Thống kê số liệu khảo sát chất lượng môn Ngữ văn cho
thấy:
- Phần lớn học sinh hứng thú vào giờ học Ngữ văn đặc biệt là phần văn bản
trung đại.
- Không khí lớp học sôi nổi hơn và học sinh thích học môn Ngữ văn hơn.
- Tỉ lệ học sinh hứng thú khi học phần văn bản trung đại là: 80,26%.
- Bảng thống kê kết quả học sinh:
Tỉ lệ học sinh
đạt 01 câu
100%

Tỉ lệ học sinh
đạt 02 câu
85,53%

Tỉ lệ học sinh
đạt 03 câu
65,79%

Tỉ lệ học sinh
đạt 04 câu
39,47%

13


III/. KẾT LUẬN:

1/. Tóm lược giải pháp:
1.1/. Chuẩn bị về kiến thức:
1.1.1/. Nắm vững thể loại và các đặc trưng của thể loại (chiếu, hịch, cáo,
tấu)
1.1.2/. Phân biệt sự khác nhau của bốn thể loại nghị luận (chiếu, hịch,
cáo, tấu)
1.1.3/. Nắm vững kiến thức về văn học sử
1.1.4/. Chuẩn bị vốn từ Hán Việt, nắm chắc các điển tích, điển cố văn
học.
1.2/. Chuẩn bị về phương pháp:
1.2.1/. Tích hợp ngang: Là tích hợp với các đơn vị kiến thức cùng môn học
như Tiếng Việt và Tập làm văn.
1.2.2/. Tích hợp dọc: Là tích hợp với các kiến thức thuộc các môn học khác
hoặc kiến thức đời sống xã hội,…
1.3/. Sử dụng hệ thống câu hỏi:
1.3.1/. Loại câu hỏi tái hiện:
Với loại câu hỏi này, học sinh sẽ được yêu cầu phát biểu, trình bày lại vấn đề.
Câu hỏi này chỉ là để chuyển tiếp tới nội dung phức tạp hơn. Các câu hỏi này
không cần thời gian suy nghĩ mà chỉ cần sự phát hiện của học sinh.
1.3.2/. Loại câu hỏi rèn năng lực tư duy và sử dụng ngôn ngữ:
Trên cơ sở học sinh đã hiểu nội dung, giáo viên sử dụng loại câu hỏi này để
yêu cầu học sinh phát hiện và trình bày lại về nội dung tư tưởng, quan điểm
nghệ thuật của tác phẩm. Loại câu hỏi này không thể dựa vào kết quả có sẵn đã
biết. Học sinh cần vận dụng năng lực tư duy của mình để sắp xếp lại các sự kiện,
chi tiết, lựa chọn ngôn từ, cách lập luận,...để diễn đạt một cách chính xác, rõ
ràng vấn đề. Dạng câu hỏi này dùng để kiểm tra kiến thức, ôn tập, củng cố.
1.3.3/. Câu hỏi giải thích:
Loại câu hỏi này đòi hỏi học sinh sau khi đã hiểu thấu đáo nội dung thì cần
phải biết chọn lọc chi tiết để giải quyết vấn đề được giáo viên đưa ra. Học sinh
phải có những hoạt động tư duy sau để giải quyết như: định hướng sự việc, lựa

chọn chi tiết, nắm được bản chất của vấn đề trong sự so sánh đối chiếu với toàn
bộ nội dung đã học.
1.3.4/. Loại câu hỏi nêu vấn đề:
Câu hỏi nêu vấn đề thường được sử dụng trong những hoạt động đòi hỏi học
sinh tư duy, đối chiếu, so sánh,…để tìm hiểu những vấn đề khó của bài học. Nó
có tác dụng vừa củng cố vừa khắc sâu kiến thức, vừa có hướng mở ra những khả
năng tìm tòi những cách giải quyết những hướng sáng tạo mới để giải quyết vấn
đề một cách toàn diện và sâu sắc. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài dạy để chọn
những vấn đề trọng tâm để đặt câu hỏi yêu cầu học sinh thảo luận theo nhóm.
1.4/. Xác định mục tiêu chính của bài dạy.

14


1.4.1/. Đảm bảo những mục tiêu cơ bản trong sách giáo khoa, sách giáo viên
và chuẩn kiến thức- kỹ năng. Việc này giúp học sinh phát huy khả năng cảm thụ
được tinh thần chung của mỗi tác phẩm trung đại.
1.4.2/. Chọn đưa thêm một vài nội dung cần hướng học sinh tìm hiểu và tiếp
nhận để các em phát huy được khả năng liên hệ thực tế, gắn tác phẩm với đời
sống hiện đại, từ đó các em sẽ có cơ hội hiểu sâu sắc hơn về giá trị của mỗi tác
phẩm.
1.5/. Điều chỉnh phương pháp tích hợp đã thực hiện theo hướng sử dụng
kiến thức liên môn.
Trong mỗi bài dạy giáo viên cần chuẩn bị tốt về việc lựa chọn phương pháp
thích hợp. Nguyên tắc dạy học theo hướng tích hợp cần được tận dụng triệt để.
Những hướng tích hợp nên tận dụng thuộc một số lĩnh vực sau đây:
* Tích hợp ngang: Là tích hợp với các đơn vị kiến thức cùng môn học như
Tiếng Việt và Tập làm văn.
- Tích hợp với Tiếng Việt: Giáo viên luôn xác định dùng kiến thức của Tiếng
Việt là để giúp học sinh cảm nhận nội dung văn bản một cách sâu sắc. Nhất thiết

không được biến một phần bài học thành giờ học Tiếng Việt. Cũng không nên
quá cứng nhắc trong tích hợp với Tiếng Việt, khi những đơn vị kiến thức tích
hợp không mấy liên quan đến bài học. Giáo viên chỉ nên tập trung vào những
đơn vị kiến thức Tiếng Việt có tác dụng trực tiếp đến sự cảm thụ của học sinh.
- Tích hợp với Tập làm văn: Việc ôn tập lại luận điểm và luận cứ trong văn
nghị luận chính là mục tiêu cơ bản trong tích hợp của các văn bản này. Bởi lẽ, cả
bốn văn bản đều sử dụng nghệ thuật nghị luận rất sắc sảo. Ngay từ phần tìm hiểu
cấu trúc của văn bản, giáo viên đã hướng dẫn học sinh bám sát bố cục và hệ
thống luận điểm trong văn nghị luận. Bài dạy cần được triển khai trên cơ sở của
một văn bản nghị luận: từ luận điểm đến tìm các luận cứ và xác định phương
pháp lập luận.
* Tích hợp dọc: Là tích hợp với các kiến thức liên môn thuộc các môn học
khác hoặc kiến thức đời sống xã hội,…
1.6/. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy – học:
Một trong những biện pháp đổi mới phương pháp dạy- học Ngữ văn là đổi
mới việc sử dụng đồ dùng dạy học để học sinh gần gũi hơn với tác phẩm, để
những kiến thức văn học bớt phần trừu tượng. Có như vậy mới giúp được các
em cảm thụ tác phẩm tốt hơn.
1.7/. Dùng sơ đồ trong phân tích và tổng kết bài học:
Do đặc điểm các văn bản đều thuộc loại văn nghị luận nên trong dạy học giáo
viên luôn bám sát hệ thống luận điểm, luận cứ và nghệ thuật lập luận đầy sức
thuyết phục. Không có cách gợi mở và kết luận nào tốt hơn việc lập sơ đồ để
học sinh hình dung, liên hệ và từ đó nắm chắc không chỉ kiến thức văn bản mà
còn có thể biết cách làm văn nghị luận ngay trong học văn bản. Tôi đã phân chia
ra một số loại sơ đồ sau đây: Sơ đồ để phân tích từng luận điểm; sơ đồ để tổng
kết bài học

15



2/. Phạm vi, đối tượng áp dụng:
Với những nội dung công việc đã thực hiện như trên, các biện pháp đã nêu
trong đề tài có thể thực hiện ở trường THCS đối với bộ môn Ngữ văn ở lớp 8
đặc biệt là sử dụng vào các tiết của phần văn bản trung đại.
3/. Kiến nghị với các cấp về điều kiện thực hiện:
3.1/. Đối với các cấp lãnh đạo:
- Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn cho giáo viên bộ môn Ngữ văn
trong từng năm để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện
pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn nói chung và
Ngữ văn 8 nói riêng đặc biệt là phần văn bản trung đại Việt Nam bằng cách tích
hợp kiến thức liên môn trong dạy- học.
- Đầu tư hơn nữa các tài liệu; trang thiết bị, dụng cụ trực quan, công nghệ
thông tin; tài liệu về lịch sử, văn hóa, tư tưởng của các triều đại phong kiến Việt
Nam để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn 8.
- Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh Internet và các điểm dịch vụ không
lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh.
- Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ
sở vật chất kịp thời phục vụ cho việc dạy và học.
3.2/. Đối với phụ huynh:
- Quan tâm hơn nữa đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về
thời gian cho con cái học tập, không nên để cho các em phụ giúp nhiều công
việc gia đình.
- Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn Ngữ văn và giáo
viên chủ nhiệm để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.
3.3/. Đối với giáo viên:
- Nhiệt tình, say mê với nghề, tận tụy với học sinh. Luôn tạo hứng thú trong
giờ học bằng các hình thức như: Thi giữa các nhóm, tổ; tổ chức các trò chơi; tạo
các tình huống,…để học sinh có hứng thú và yêu thích môn học hơn. Đặc biệt là
tích hợp kiến thức liên môn vào việc giảng dạy bộ môn Ngữ văn.
- Cần tích lũy, trau dồi tri thức từ nhiều môn học và hơn nữa, phải tự học tập

không mệt mỏi, luôn học hỏi đồng nghiệp để hiểu kiến thức khác ngoài bộ môn
liên quan đến bài dạy. Chuẩn bị tiết dạy công phu, cẩn trọng, tỉ mỉ hơn.
- Nhiệm vụ quan trọng hơn là tỉ mỉ, chịu khó, tâm huyết với học trò, hướng
dẫn các em chuẩn bị tốt bài học, các bài viết, chấm chữa bài cho các em cẩn
thận, khích lệ các em vận dụng vấn đề vừa học vào thực tiễn đời sống.

16


IV/. PHẦN PHỤ LỤC:
* Thống kê kết quả học tập của học sinh trước khi áp dụng đề tài sáng
kiến kinh nghiệm:
- Phần lớn học sinh không hứng thú vào giờ học Ngữ văn đặc biệt là phần
văn bản trung đại.
- Không khí lớp học nặng nề, thiếu sôi nổi, học sinh ngại học những tiết Ngữ
văn.
- Học sinh nắm được những thông tin cơ bản về tác giả nhưng hoàn cảnh ra
đời và mục đích chính của văn bản thì trình bày còn rất lộn xộn. Nhiều em còn
nhầm lẫn thể loại của văn bản.
- Phần hiểu ý nghĩa văn bản của học sinh còn rất hạn chế. Ở câu 3 và 4 nhiều
em không liên hệ được với hiện tại.
- Tỉ lệ học sinh hứng thú khi học phần văn bản trung đại là: 36,84%.
- Bảng thống kê kết quả khảo sát học sinh:
Tỉ lệ học sinh
đạt 01 câu
92,11%

Tỉ lệ học sinh
đạt 02 câu
65,79%


Tỉ lệ học sinh
đạt 03 câu
26,32%

Tỉ lệ học sinh
đạt 04 câu
13,16%

* Thống kê kết quả học tập của học sinh sau khi áp dụng đề tài sáng kiến
kinh nghiệm:
- Phần lớn học sinh hứng thú vào giờ học Ngữ văn đặc biệt là phần văn bản
trung đại.
- Không khí lớp học sôi nổi hơn và học sinh thích học môn Ngữ văn hơn.
- Tỉ lệ học sinh hứng thú khi học phần văn bản trung đại là: 80,26%.
- Bảng thống kê kết quả học sinh:
Tỉ lệ học sinh
đạt 01 câu
100%

Tỉ lệ học sinh
đạt 02 câu
85,53%

Tỉ lệ học sinh
đạt 03 câu
65,79%

Tỉ lệ học sinh
đạt 04 câu

39,47%

* Các ví dụ ở mục 3 trang 7:
3.3/. Sử dụng hệ thống câu hỏi:
3.3.1/. Loại câu hỏi tái hiện:
Ví dụ 1: Bài Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi)
Em hiểu nội dung của hai câu văn: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; Quân điếu
phạt trước lo trừ bạo là như thế nào?
3.3.2/. Loại câu hỏi rèn năng lực tư duy và sử dụng ngôn ngữ:
Ví dụ: Bài Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi)
Ý thức về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước được
Nguyễn Trãi khẳng định rất rõ trong văn bản. Em hãy chứng minh điều đó?
Với câu hỏi này, học sinh phải biết sắp xếp các dữ liệu để làm dẫn chứng khi
chứng minh (nền văn hiến, núi sông, phong tục, các triều đại, biên giới phân
17


chia,...). Đồng thời học sinh phải biết dùng lí lẽ khi lập luận: Đại Việt có đủ căn
cứ để khẳng định chân lý về sự tồn tại độc lập và có chủ quyền.
3.3.3/. Câu hỏi giải thích:
Ví dụ: Bài Nước Đại Việt ta (Nguyễn Trãi - Trích Bình Ngô đại cáo)
Khi tìm hiểu tư tưởng khẳng định nền văn hiến Đại Việt đã được phát biểu
một cách hoàn chỉnh so với Nam Quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), giáo viên có
thể đặt câu hỏi: Tại sao có thể nói tác phẩm của Nguyễn Trãi là bản tuyên ngôn
độc lập lần thứ hai của dân tộc Việt Nam? Hãy so sánh với Nam Quốc sơn hà
(Lý Thường Kiệt)?
Với những câu hỏi như thế này, học sinh có thể thảo luận nhóm để khái quát
hoá sự việc: Nguyễn Trãi đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ
quyền của dân tộc: nền văn hiến lâu đời; cương vực lãnh thổ; phong tục tập
quán; lịch sử riêng; chế độ riêng. Với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã

phát biểu một cách hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc. Người đời sau
vẫn xem quan niệm của Nguyễn Trãi là sự kết tinh học thuyết về quốc gia, dân
tộc. So với thời Lý, học thuyết đó phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu
sắc của nó. Toàn diện vì ý thức về dân tộc trong Nam Quốc sơn hà được xác
định chủ yếu trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền còn đến Bình Ngô đại cáo,
ba yếu tố nữa được bổ sung: văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử. Sâu sắc vì
trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được văn hiến, truyền thống
lịch sử là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc.
3.3.4/. Loại câu hỏi nêu vấn đề:
Ví dụ: Bài Bàn luận về phép học (Nguyễn Thiếp)
Khi bàn về mục đích của việc học là học luân thường đạo lý để làm người
(tức học tam cương và ngũ thường) giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Theo em, quan niệm về mục đích của đạo học như thế có điểm nào tích cực
cần được việc học ngày hôm nay phát huy? Có những điểm nào cần được bổ
sung?
Với câu hỏi như thế này học sinh phải tìm tòi để đưa ra quan điểm học tập
của mình dựa trên sự tiếp thu người xưa và phát triển theo tư tưởng hiện đại hôm
nay.
+ Điểm tích cực của mục đích học tập trước đây là: coi trọng mục tiêu đạo
đức của việc học. Khẩu hiệu “Tiên học lễ - Hậu học văn” trong nhà trường hôm
nay là sự phát huy đạo học ngày trước.
+ Điểm cần bổ sung: Mục đích học không chỉ là rèn đạo đức, mà còn rèn
năng lực trí tuệ để con người sau này có sức mạnh xây dựng, cải tạo xã hội trên
mọi lĩnh vực: đạo đức, văn hoá, kinh tế, khoa học kĩ thuật,…
3.4/. Xác định mục tiêu chính của bài dạy.
3.4.2/. Chọn đưa thêm một vài nội dung cần hướng học sinh tìm hiểu và tiếp
nhận để các em phát huy được khả năng liên hệ thực tế, gắn tác phẩm với đời
sống hiện đại, từ đó các em sẽ có cơ hội hiểu sâu sắc hơn về giá trị của mỗi tác
phẩm.
* Văn bản “Chiếu dời đô” (Lí Công Uẩn)

18


- Tìm hiểu về vị trí địa lý cũng như những điểm thuận lợi của thành Đại La
và cố đô Hoa Lư (kiến thức môn Địa lý).
- Tìm hiểu lý do vì sao nhà Đinh và Tiền Lê lại chọn đóng đô ở Hoa Lư. Tại
sao đến thời Lý thì Lý Công Uẩn lại muốn di chuyển (kiến thức môn Lịch sử).
- Giá trị lịch sử, kinh tế và văn hóa ngày nay của quần thể di tích Tràng An
(Hoa Lư) và Hà Nội (thành Đại La xưa).
- Ý nghĩa giáo dục về việc bảo tồn và phát triển các di tích lịch sử, văn hóa,...
* Văn bản “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn)
- Hoàn cảnh lịch sử của ba lần kháng chiến chống quân Nguyên- Mông,
trong đó chú trọng đến hoàn cảnh trước cuộc kháng chiến lần thứ 2 (1285) và
đức độ cao cả của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (kiến thức môn Lịch sử).
- Những di tích lịch sử của tỉnh Hải Dương và các lễ hội tưởng nhớ công lao
của Trần Quốc Tuấn (kiến thức môn Lịch sử).
- Vị trí địa lý của huyện Chí Linh (đất phong vương của Trần Quốc Tuấn
năm xưa).
- Một vài sự kiện lịch sử hiện đại thể hiện hào khí Đông A (kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ).
- Tình yêu Tổ quốc khi đất nước bị đe dọa về chủ quyền (sự kiện giàn khoan
HD 981,...)
* Văn bản “Nước Đại Việt ta” (Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi)
- Hoàn cảnh lịch sử và sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- So sánh, đối chiếu với các văn bản cùng mục đích: Bài thơ Sông núi nước
Nam (Lí Thường Kiệt (1028)); Tuyên ngôn độc lập của Bác Hồ (1945).
* Văn bản “Bàn luận về phép học” (Nguyễn Thiếp)
- So sánh đạo học xưa và nay.
- Liên hệ việc học tập của bản thân em và bạn bè (mục đích, tiêu chí, khả
năng phấn đấu,...) để nhận biết đúng sai trong việc học.

- Liên hệ quan điểm học tập của nhiều người trong xã hội....

19


3.6/. Sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy- học
Ví dụ: tranh ảnh khi dạy văn bản Chiếu dời đô

Lược đồ vị trí địa lý của Hoa Lư (Ninh Bình) và Đại La (Thăng Long – Hà Nội)

Toàn cảnh cố đô Hoa Lư

Thăng Long xưa

Hà Nội ngày nay

Ví dụ: dạy văn bản Hịch tướng sĩ

20


Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần trên miền quê
Ví dụ dạy văn bản Nước Đại Việt ta

Chủ quyền dân tộc

Sự kiện giàn khoan HD 981
21



3.7/. Dùng sơ đồ trong phân tích và tổng kết bài học:
- Sơ đồ để phân tích từng luận điểm:
+ Sơ đồ cách lập luận diễn dịch

- Sơ đồ để tổng kết bài học:
Ví dụ: hệ thống luận điểm trong Chiếu dời đô

22


Hịch tướng sĩ: Bí quyết nghị luận để kêu gọi động viên các tướng sĩ trong
bài hịch là dùng nghệ thuật khích tướng.

+ Trình tự lập luận trong văn bản Nước Đại Việt ta

+ Sơ đồ lập luận trong văn bản Bàn luận về phép học

23


* Tài liệu tham khảo:
- Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn 8.
- Tài liệu chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn.
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (20042007) môn Ngữ văn- quyển 1 và 2- NXB Giáo dục.
- Phương pháp dạy học Ngữ văn ở trường THCS theo hướng tích hợp và tích
cực- Đoàn Thị Kim Nhung- NXB Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hệ thống câu hỏi đọc- hiểu Ngữ văn 8- NXB Giáo dục
Với những điều bản thân đã lĩnh hội được, tôi hy vọng đóng góp phần nào để
có thể giúp tạo được sự hứng thú cho học sinh đồng thời nâng cao chất lượng và
hiệu quả khi giảng dạy đặc biệt là tích hợp kiến thức liên môn vào dạy- học môn

Ngữ văn 8 nói chung và phần văn bản trung đại Việt Nam nói riêng ngày càng
đạt hiệu quả cao hơn.
Long Thạnh, ngày tháng năm 2016
Người viết

Dương Trường Giang

24


MỤC LỤC
I/. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .......................................................... Trang 1
II/. NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM .................................... Trang 4
III/. KẾT LUẬN ........................................................................... Trang 14
IV/. PHỤ LỤC .............................................................................. Trang 17

25


×