Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TIỂU LUẬN CAO học vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.76 KB, 15 trang )

A. MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một quy luật, là kết quả của nền kinh tế thị trường tự do gồm
có nhiều doanh nghiệp của nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại để tranh giành
cùng một lợi ích, mong mở rộng thị phần của mình trên một thị trường liên quan.
Cạnh tranh là động lực của cải tiến và phát triển. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân
khác nhau mà có tồn tại sự độc quyền, cũng như một số công ty độc quyền trong
nền kinh tế thị trường, đó có thể là do doanh nghiệp được nhà nước bảo hộ về bí
quyết kinh doanh, bằng sáng chế, hay là do doanh nghiệp kiểm soát được toàn bộ
nguồn cung cấp các nguyên liệu để chế tạo ra một sản phẩm nào đó, hay cũng có
thể là doanh nghiệp độc quyền là nhờ vào các quy định của pháp luật-doanh nghiệp
được chính phủ bảo hộ độc quyền. Điều này đặc biệt đúng với những mặt hàng
mang tính thiết yếu và nhạy cảm đối với nền kinh tế như xăng dầu. Xăng dầu là
nguồn năng lượng thiết yếu và rất quan trọng, là nguồn nhiên liệu tiên quyết cho
nhiều ngành sản xuất, ảnh hưởng đến sự phát triển to lớn của mỗi quốc gia.. Ở
nước ta hiện nay đang áp dụng việc chuyển từ nhà nước độc quyền kinh doanh
xăng dầu sang cho doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, điều đó sẽ tác động như
thế nào đến nhà sản xuất và người tiêu dùng? Và Việt Nam hiện nay có thực sự
đang kinh doanh xăng dầu theo cơ chế thị trường hay không? Bên cạnh đó, đang có
rất nhiều điều không minh bạch trong kinh doanh xăng dầu, thị trường xăng dầu
vẫn đang phải đối mặt với những “ gã khổng lồ” với khả năng chi phối thị trường.
Độc quyền phân phối xăng dầu cũng đã gây tác động tới việc tăng giá xăng dầu.
Nhận thấy đây là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực và có ý nghĩa quan trọng trong
đời sống xã hội nên trong học phần kinh tế vi mô, tôi đã lựa chọn đề tài: “ Vấn đề
độc quyền trong kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu viết tiểu
luận của mình. Trong quá trình làm bài, dù đã có nhiều cố gắng song không thể

1


tránh khỏi những hạn chế, thiếu xót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của thầy cô và các bạn. Tôi xin chân thành cảm ơn!



2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I.
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỘC QUYỀN
1.1.Khái niệm
Đối lập với thị trường canh tranh hoàn hảo là thị trường độc quyền. Thị
trường độc quyền đối với một loại hàng hóa nào đó là thị trường mà trong đó chỉ
có một nhà cung ứng hàng hóa đó. Nhà cung ứng duy nhất này được gọi là nhà độc
quyền. Do là người duy nhất cung ứng hàng hóa ra thị trường nên đường cung của
nhà độc quyền chính là đường cung của ngành và đường cầu của thị trường chính
là đường cầu đối với sản phẩm của nhà độc quyền.
Một ngành được xem là độc quyền hoàn toàn khi hội đủ hai điều kiện sau:
- Đối thủ cạnh trạnh không thể gia nhập ngành: Do doanh nghiệp độc quyền
hoàn toàn không có đối thủ cạnh trạnh nên có thể ấn định sản lượng hay giá bán
tùy ý mà không lo ngại thu hút những doanh nghiệp khác gia nhập ngành vì sự gia
nhập ngành của các doanh nghiệp mới sẽ khó khăn vì các rào cản, chi phí sản xuất.
- Không có những sản phẩm thay thế tương tự. Nếu không có sản phẩm thay
thế thì nhà độc quyền không lo ngại về tác động của chính sách giá của mình đến
phản ứng của các doanh nghiệp khác.
1.2.Hình thức
Trong kinh tế học, độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một
người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi. Đây là
một trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị
trường thiếu tính cạnh tranh. Mực dù trên thực tế hầu như không thể tìm được
3



trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền và do đó độc quyền
thuần túy có thể coi là không tồn tại nhưng những dạng độc quyền không thuần túy
đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi ích xã hội. Độc quyền được phân loại theo
nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền, cấu trúc của độc
quyền...
* Độc quyền bán và độc quyền mua:
Khái niệm độc quyền thường dùng để chỉ độc quyền bán nhưng tương tự như
độc quyền bán cũng có độc quyền mua - một trạng thái thị trường mà ở đó chỉ tồn
tại một người mua trong khi có nhiều người bán. Khác với độc quyền bán, trong
trường hợp độc quyền mua, doanh nghiệp độc quyền sẽ gây sức ép để làm giảm giá
mua sản phẩm từ những người bán.
Doanh nghiệp độc quyền bán có thể đồng thời là độc quyền mua và trong
trường hợp này lợi nhuận siêu ngạch của nó rất lớn vì bán sản phẩm với giá cao
hơn và mua yếu tố đầu vào thấp hơn mức cân bằng của thị trường cạnh tranh.
Doanh nghiệp độc quyền bán có điều kiện thuận lợi để trở thành độc quyền
mua vì nó sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi và do đó một
vài yếu tố đầu vào của nó có thể là duy nhất, kể cả trong trường hợp yếu tố đầu vào
không duy nhất thì doanh nghiệp độc quyền bán cũng có khả năng chi phối mạnh
giá các yếu tố đầu vào nếu nó có quy mô lớn.
1.3.Tổn thất phúc lợi xã hội do độc quyền thường gây ra
Do tối đa hóa lợi nhuận nên doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất hàng hóa ở
mức sản lượng mà tại đó chi phí biên bằng với doanh thu biên thay vì sản xuất ở
mức sản lượng mà ở đó giá sản phẩm bằng chi phí biên như trong thị trường cạnh
tranh hoàn hảo (cân bằng cung cầu).
4


Khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nơi mà giá bán sản phẩm không phụ
thuộc vào số lượng sản phẩm do một doanh nghiệp sản xuất ra, trong tình trạng độc
quyền giá bán sẽ giảm xuống khi doanh nghiệp độc quyền tăng sản lượng. Vì thế

doanh thu biên sẽ nhỏ hơn giá bán sản phẩm và cứ một đơn vị sản phẩm sản xuất
thêm doanh nghiệp độc quyền sẽ thu thêm được một khoản tiền nhỏ hơn giá bán
sản phẩm đó.
Điều này có nghĩa là nếu cứ sản xuất thêm sản phẩm thì doanh thu thu thêm
được không đủ bù đắp tổn thất do giá bán của tất cả sản phẩm giảm xuống. Mặt
khác, nếu áp dụng nguyên tắc biên của tính hiệu quả nghĩa là sản xuất sẽ đạt hiệu
quả khi lợi ích biên bằng chi phí biên, tất nhiên lợi ích biên và chi phí biên ở đây
xét trên góc độ xã hội chứ không phải đối với doanh nghiệp độc quyền ta thấy
rằng: ở mức sản lượng mà doanh nghiệp độc quyền sản xuất thì lợi ích biên (chính
là đường cầu) lớn hơn chi phí biên đồng nghĩa với tình trạng không hiệu quả.
Tóm lại, doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất ở sản lượng thấp hơn và bán với
giá cao hơn so với thị trường cạnh tranh. Tổn thất mà xã hội phải gánh chịu do sản
lượng giảm sút trừ đi tổng chi phí biên để sản xuất ra phần sản lượng đáng lẽ nên
được sản xuất ra thêm đó chính là tổn thất do độc quyền.

5


CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN
TRONG KINH DOANH XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng vấn đề kinh doanh xăng dầu
Xăng dầu là một trong những nguồn nhiên liệu thiết yếu trong đời sống
thường nhật của con người; nó phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng; là yếu tố đầu
vào khá quan trọng của các quá trình sản xuất. Do đó việc quy định điều kiện kinh
doanh mặt hàng này là một vấn đề hết sức nhạy cảm đối với mỗi người dân chúng
ta. Chính vì vậy mà chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản nhằm điều chỉnh
những hoạt động trong lĩnh vực này.
Theo Nghị định số 55/2007/NĐ-CP ngày 06/04/2007 của Chính phủ quy
định về kinh doanh xăng dầu và điều kiện kinh doanh xăng dầu tại thị trường Việt

Nam thì giá bán xăng dầu sẽ được áp dụng theo cơ chế thị trường nghĩa là thương
nhân kinh doanh xuất, nhập khẩu xăng dầu hoặc thương nhân sản xuất, chế biến
xăng dầu tự quyết định sau khi nộp các loại thuế, phí theo quy định của pháp luật
hiện hành.
Theo thống kê hiện nay thì có khoảng 11 doanh nghiệp Nhà nước được kinh
doanh nhập khẩu xăng dầu bán tại thị trường nội địa với khoảng 12.000 trạm bán lẻ
xăng dầu (cây xăng). Trong đó 6.000 cây xăng là của Petrolimex (khoảng hơn
1.800 cây xăng có 100% vốn của tổng công ty, hơn 4000 cây liên kết treo biển tổng
công ty và lấy xăng của tổng công ty).
Tại điều 11 Luật cạnh tranh hiện hành đã định nghĩa rõ: “doanh nghiệp được
coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường
liên quan…”; tại Điều 9 cũng quy định “Cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
6


quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia
thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.”
Với tỷ lệ thị phần lên tới 60% của Petrolimex hiện nay, rõ ràng là một con số
đảm bảo an toàn cho vị thế của Petrolimex trên thị trường xăng dầu trong nước.
Hơn nữa nếu đơn vị chiếm 60% thị phần cung cấp nguồn nhiên liệu này đã
kiềm giá thì cũng chẳng có đơn vị nào tăng giá. Bởi lẽ, nếu giá thế giới mà tăng
cao, doanh nghiệp khác bán bằng giá của Petrolimex cũng đã là khó khăn.
Có thể nói, xăng dầu là mặt hàng chiến lược, khá nhạy cảm và chủ trương
tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp để thị trường xăng dầu vận hành theo cơ chế
thị trường, đảm bảo quyền lợi của các bên ngay lập tức nhận được sự đồng tình,
ủng hộ của nhiều người. Tuy nhiên, một số ý kiến khác vẫn băn khoăn về việc liệu
quyền lợi của người tiêu dùng có được đảm bảo khi doanh nghiệp được tự quyết
định giá theo ý mình, cũng như cần làm gì để tránh tình trạng chuyển từ độc quyền
Nhà nước sang độc quyền doanh nghiệp.
Nguyên nhân chính của những tranh cãi trên là do Petrolimex đang chiếm

với khoảng 60% thị phần chi phối thị trường. Vì các sản phẩm xăng dầu gần như
đồng nhất và dịch vụ tương đối đơn giản nên các nhà phân phối xăng dầu khác đều
chạy theo giá bán của Petrolimex, vì nếu họ bán với giá cao hơn sẽ mất khách, còn
bán thấp hơn thì bị giảm lợi nhuận. Đối với Petrolimex, một khi có khả năng chi
phối thị trường thì công ty này có thể “nâng giá nhanh, hạ giá chậm” và đương
nhiên là các đơn vị khác sẽ được “ăn theo”. Kết quả là sức mạnh độc quyền (hay
tựa-độc-quyền) của Petrolimex đã triệt tiêu cơ chế thị trường cạnh tranh và làm
giảm phúc lợi của người tiêu dùng.
Khi kỷ luật của cạnh tranh không phát huy tác dụng thì Nhà nước có cơ sở
để can thiệp thông qua các biện pháp điều tiết nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế và
7


bảo vệ phúc lợi của người tiêu dùng. Cụ thể, Nhà nước có thể điều tiết về mức giá,
về chất lượng dịch vụ và về quy định gia nhập - rút lui khỏi hoạt động kinh doanh
xăng dầu.
Bản chất của việc điều tiết mức giá là điều chỉnh mối quan hệ lợi ích giữa
Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Có lẽ Nhà nước không muốn quy
định một mức giá quá cao vì như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí của khu
vực hộ gia đình và kinh doanh (và tất nhiên là cả CPI nữa). Nhà nước cũng không
thể quy định một mức giá quá thấp vì điều này tuy làm lợi cho người tiêu dùng
nhưng lại gây khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và ảnh hưởng tới
ngân sách Nhà nước.
Một quy tắc phổ biến của điều tiết giá là quy định một mức giá sao cho
doanh nghiệp bị điều tiết có thể thu hồi chi phí và có một mức lợi nhuận hợp lý.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy tắc này trong thực tế không hề dễ dàng. Khó khăn thứ
nhất là làm thế nào để xác định được các chi phí hợp lý của doanh nghiệp. Chi phí
này bao gồm giá nhập xăng dầu (fob), phí bảo hiểm, cước vận chuyển về đến Việt
Nam, các loại thuế và phí, chi phí kinh doanh (vốn, lao động, khấu hao...), trích
quỹ bình ổn và các khoản trích nộp khác theo luật định. Nhìn vào cơ cấu chi phí

này, có thể thấy ngay là có những chi phí cơ quan điều tiết có thể quan sát và tính
toán được một cách tương đối dễ dàng (như giá xăng dầu thế giới, các loại thuế và
phí).
Tuy nhiên cũng có những chi phí rất khó quan sát và xác minh tính hợp lý,
chẳng hạn như chi phí đầu tư, quỹ lương, khấu hao... Rõ ràng là cơ quan điều tiết
không muốn bù đắp cho những chi phí không hợp lý do đầu tư kém hiệu quả, do
quỹ lương quá cao vì dư thừa lao động hay tiền thưởng quá đáng. Để giải quyết
khó khăn này, cơ quan điều tiết cần yêu cầu các công ty kinh doanh xăng dầu công
8


khai cơ cấu chi phí của mình. Bên cạnh đó, cơ quan điều tiết cũng có thể so sánh
cơ cấu chi phí này với cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp cạnh tranh trong và
ngoài nước. Trong trường hợp của Việt Nam, vì Petrolimex có vai trò chi phối thị
trường nên để tiết kiệm chi phí, cơ quan điều tiết trước tiên chỉ cần thực hiện hai
nghiệp vụ trên với doanh nghiệp này.
Khó khăn thứ hai của việc điều tiết giá là làm thế nào để xác định mức lợi
nhuận hợp lý vì các doanh nghiệp xăng dầu có thể lập luận rằng ngành kinh doanh
này tiềm ẩn nhiều rủi ro nên phải được bù đắp bằng một mức lợi nhuận trên trung
bình. Một lần nữa, việc xác định mức lợi nhuận trung bình của ngành kinh doanh,
đồng thời so sánh với các công ty cạnh tranh trong và ngoài nước có thể giúp cơ
quan điều tiết khắc phục phần nào khó khăn này.
Bên cạnh hai khó khăn trên, cơ quan điều tiết cũng phải quan tâm đến một
số vấn đề kỹ thuật quan trọng như xác định giá cơ sở và khi nào thay đổi giá cơ sở.
Như đã thảo luận ở trên, trong cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp xăng dầu có
một số khoản mục có tính chủ quan, không quan sát được, vì vậy không nên đưa
các khoản mục chi phí này vào trong giá cơ sở. Tốt nhất là dùng ngay giá xăng dầu
thế giới - là mức giá hoàn toàn khách quan và minh bạch làm giá cơ sở. Về tần suất
thay đổi giá cơ sở, nếu Nhà nước muốn bình ổn giá thì chỉ nên điều chỉnh giá hay
thuế suất khi giá cơ sở biến động đủ lớn (trên 5% chẳng hạn).

Ngoài giá bán còn có hai công cụ điều tiết khác, đó là điều tiết chất lượng
dịch vụ và quy định việc gia nhập - rút lui khỏi ngành kinh doanh. Về chất lượng
dịch vụ, quan trọng nhất là các tiêu chuẩn bảo đảm an toàn và bán đúng bán đủ cho
khách hàng. Về quy định gia nhập - rút lui khỏi ngành kinh doanh, Nhà nước cần
tăng cường tính cạnh tranh cho thị trường bằng cách cho phép sự tham gia của

9


nhiều đầu mối nhập khẩu, đồng thời cần giảm bớt tính độc quyền trong hoạt động
phân phối xăng dầu.
Không nên hi vọng rằng cơ chế thị trường trong điều kiện tồn tại độc quyền
sẽ nâng cao phúc lợi cho người tiêu dùng và cải thiện hiệu quả cho nền kinh tế. Nói
cách khác, một khi còn độc quyền và thiếu cạnh tranh thì cơ chế thị trường sẽ
không thể vận hành hiệu quả. Khi ấy, cần đến hoạt động điều tiết một cách công
bình và có hiệu lực của Nhà nước, mà điều này lại phụ thuộc khả năng tách bạch
mục tiêu kinh doanh ra khỏi các mục tiêu chính trị - xã hội và khả năng minh bạch
hóa cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, nhất là những
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
2.2. Ảnh hưởng của độc quyền xăng dầu đến sản xuất và tiêu dùng
Có thể nói rằng, việc tăng giá xăng dầu không đem lại lợi ích cho kinh tế
Việt Nam. Theo lý thuyết, một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh
nặng đối với nền kinh tế theo hai cách thức khác nhau, tùy thuộc vào mức độ mà
một quốc gia phụ thuộc vào xăng dầu nhập khẩu và việc tiêu thụ xăng dầu tương
đối so với tổng sản phẩm quốc dân.
Thứ nhất, việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống của
dân cư xuống dưới mức lẽ ra đã có thể đạt được do tổng tiêu dùng cho sản phẩm
xăng dầu tăng lên tương đối so với thu nhập (ước tính sự gia tăng giá xăng tại Việt
Nam khiến cho mỗi cá nhân sử dụng phương tiện xe gắn máy mỗi tháng phải chi
thêm bình quân khoảng 30 - 40.000 đồng so với trước; hơn nữa, mặt hàng xăng

dầu tương đối không co giãn so với giá - nghĩa là giá tăng nhưng người sử dụng
phương tiện vận tải cơ giới vẫn phải sử dụng do không có nhiên liệu khác thay thế,
do vậy khi giá xăng dầu tăng thì người tiêu dùng có ít thu nhập hơn dùng để chi
tiêu cho các hàng hóa khác).
10


Thứ hai, sự gia tăng này tác động đến nền kinh tế theo các cách thức mà rất
khó để các nhà hoạch định chính sách có thể quản lý được: một mặt, sự gia tăng
giá xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát thông qua hiện tượng giá cánh kéo. Do
xăng dầu là yếu tố đầu vào của hầu như tất cả các ngành kinh tế khác, nên giá đầu
vào tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo giá đầu ra
sản phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hưởng đến sức
mua của xã hội và gây ra áp lực lạm phát. Chi phí sản xuất tăng sẽ tác động đến
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, còn không ít những chiêu thức mà đại lý sử dụng móc túi người
tiêu dùng trong lĩnh vực xăng dầu như; gian lận trong đo lường và kinh doanh sản
phẩm xăng dầu. Đây là thực trạng mà nhiều năm qua người tiêu dùng Việt Nam đã
phải gánh chịu. Năm 2008, giá xăng trong nước gặp nhiều biến động do tình hình
thế giới càng khiến nhiều gian thương gia tăng hành vi “ móc túi ” khách hàng
bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hơn.
Theo một số thống kê chưa chính thức, những kiểu đong thiếu xăng, gắn
chíp điện tử, pha xăng dỏm… đã khiến người tiêu dùng thiệt hại với giá trị ước
tính lên đến vài trăm tỷ đồng. Cũng trong năm nay, các cơ quan thông tấn báo chí
đã đồng loạt lên tiếng phê phán các hành vi gian lận trong đo lường xăng dầu, đồng
thời Hội Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam kiến nghị truy tìm và xử lý hình sự đối
với những tổ chức, cá nhân buôn bán, cung cấp những thiết bị, phụ kiện tiếp tay
cho việc thực hiện gian lận thương mại.

11



CHƯƠNG III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ ĐỘC QUYỀN XĂNG DẦU Ở VIỆT
NAM
Hạn chế độc quyền là việc làm cần thiết vì độc quyền gây ra thiệt hại đối
với nền kinh tế. Hạn chế độc quyền là vấn đề quan trọng trong kinh tế học ứng
dụng. Một số ngành quan trọng như ngành xăng dầu thường bị khống chế bằng
pháp luật, nhằm buộc ngành nghề này phải hoạt động theo phương thức có lợi nhất
cho xã hội để hạn chế thiệt hại do độc quyền. Một số giải pháp đề nghị nhằm giảm
những tổn thất đối với nền kinh tế.
- Nhà nước cần xác định rõ và bóc tách giữa 2 nhiệm vụ về bản chất khác
hẳn nhau là: Kinh doanh xăng dầu như mục đích tự thân của các doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu, với việc dự trữ xăng dầu bảo đảm an ninh năng lượng như một
mục tiêu chính trị quốc gia.
- Nhà nước cần xác định được giá sàn và giá trần trên cơ sở phân nhóm đúng
vai trò của từng nhân tố cấu thành giá bán lẻ xăng dầu.Nhà nước cần cho phép tự
động điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu theo xu hướng và cạnh tranh thị trường, đồng
thời tăng cường các chế tài của Nhà nước và giám sát xã hội.
- Thúc đẩy quá trình tự do hoá kinh doanh xăng dầu, tạo cạnh tranh lành
mạnh đầy đủ trên thị trường bán buôn và bán lẻ xăng dầu Việt Nam. Khi đó, Nhà
nước vẫn thu được thuế, các doanh nghiệp có thêm động lực và cơ hội đầu tư phát
triển, còn người tiêu dùng thì được lợi cả về chất lượng dịch vụ và giá cả do các
“nhà xăng’ cung cấp.
- Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành kiểm toán toàn diện và
khách quan các chi phí kinh doanh hiện hành và chuẩn mực của các hoạt động kinh
12


doanh xăng dầu, lập và công khai hoá cơ sở dữ liệu có liên quan (giá mua, chi phí

vận tải, duy trì hệ thống dự trữ và phân phối xăng, lợi nhuận định mức và các nghĩa
vụ tài chính của kinh doanh xăng dầu…), để các cơ quan chức năng và giới tiêu
dùng có cơ sở khoa học minh bạch cho việc tính và kiểm tra “giá chuẩn” trên thị
trường kinh doanh xăng dầu trong nước.
- Các cơ quan chức năng nên thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành chính sách pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh xăng dầu đối với
các doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự công bằng cho doanh nghiệp và người tiêu
dùng.
- Pháp quy hoá các quy định và yêu cầu quản lý nhà nước có liên quan đến
chất lượng, định giá và quản lý giá xăng dầu, bảo đảm cạnh tranh tự do và minh
bạch về giá cả, cũng như tạo các căn cứ ổn định và thuận lợi cho hình thành và dự
báo giá xăng dầu theo sát các động thái thị trường và giảm thiểu các “thắc mắc”,
đoán mò và tin đồn thất thiệt trên thị trường này.

13


C. KẾT LUẬN
Có thể nói độc quyền trong việc kinh doanh xăng dầu là một cấu trúc thị
trường không tối ưu đối với xã hội, sự xuất hiện và tồn tại của độc quyền làm cho
thị trường vận hành kém hiệu quả, nguồi tài nguyên xã hội không được phân bổ tối
ưu, làm cho xã hội bị thiệt hại. Vì vậy, việc sử dụng nguồn lực phát triển kinh tế
không đạt hiệu quả, các lợi ích đạt được phần lớn thuộc về nhà độc quyền.Các
công ty kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu trong nước được hình thành và phát
triển là do lịch sử để lại. Vì các công ty này vừa thực hiện chức năng kinh doanh
của mình và vừa đảm bảo dự trữ năng lượng cho quốc gia, thực hiện nhiệm vụ
chính trị nhà nước giao. Mặt khắc, các công ty này được thành lập theo quyết định
hành chánh, chứ không thông qua hình thức cạnh tranh độc quyền. Mặt dù độc
quyền của ngành xăng dầu đã có một số tác dụng tích cực nhất định đối với phát
triển đất nước như: tạo ra lợi thế về qui mô sản xuất lớn, về hiệu quả đầu tư tập

trung, về an ninh năng lượng quốc gia,… tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta đều có
thể nhận thấy các hạn chế và tác hại của hành vi lạm dụng độc quyền đối với toàn
bộ nền kinh tế, mà nổi bật là làm tăng giá cả của các yếu tố đầu vào dẫn đến đời
sống người dân bị ảnh hưởng. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho khách hàng mà
còn gây ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh. Chừng nào mà chi phí sản
xuất chưa được công khai một cách minh bạch, vấn đề định giá xăng dầu còn chưa
đúng, còn nhiều chi phí ảo thì khi đó người tiêu dùng vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi
trong vấn đề xăng dầu.

14


Tài liệu tham khảo
1. Ảnh hưởng của tăng giá xăng dầu: m ột s ố phân tích định lượng ban đầu
– Nguyễn Đức Thành, Bùi Trinh, Đào Nguyên Thắng, Tạp chí khoa học – ĐHQG
Hà Nội.
2. Quyết định 187/2003/Q Đ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về việc ban
hành quy chế quản lý kinh doanh xăng dầu.
3. Nghị định 55/2007/N Đ-CP ngày 06/04/2007 của Thủ tướng Chính phủ
về kinh doanh xăng dầu.
4. Số liệu và thông tin từ:
- Cổng thông tin điện tử Chính ph ủ: www.custom.gov.vn
- Tổng Cục Thống kê: www.gso.gov.vn
- Bộ Công thươ ng: www.moit.gov.vn
- Bộ Tài chính: www.mof.gov.vn

15




×