Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BT lớn LHC aPhân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.15 KB, 11 trang )

A. MỞ ĐẦU
Một trong những yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng nhà nước XHCN do dân,
vì dân và của dân là việc bảo đảm pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện. Bảo
đảm pháp chế tức là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện, phương pháp và
cách thức nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế, đem lại lợi
ích cho nhà nước, cho xã hội và người lao động. Việc bảo đảm pháp chế có ý nghĩa to lớn
trong quản lý nhà nước nói chung, trong quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Tìm hiểu
về vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước”.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với
việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước.
1. Khái niệm pháp chế và các yêu cầu bảo đảm bảo pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước
1.1. Khái niệm đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp luật mà còn
chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con người. Nội dung pháp chế rất phong
phú, trong đó nội dung cơ bản nhất là sự triệt để tôn trọng pháp luật của các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và công dân. Chính từ nội dung này mà pháp chế là một trong những
nguyên tắc cơ bản nhất của quản lí hành chính nhà nước.
Bảo đảm pháp chế tức là phải củng cố việc xây dựng cơ chế, phương tiện, phương pháp
và cách thức nhằm làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu quả trong thực tế.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức – pháp lí do các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng nhằm thực hiện chức năng, quyền


hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của công dân.
Từ khái niệm trên, bảo đảm pháp chế cũng được hiểu như là những điều kiện, những
phương tiện và những khả năng thực hiện trên thực tế đối với pháp luật hiện hành nhằm
xây dựng và củng cố chính quyền của dân, do dân, vì dân bảo vệ các quyền và nghĩa vụ


của công dân trên tất cả các mặt của đời sống xã hội.
1.2. Các yêu cầu bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước có nghĩa là bằng những cơ chế và
hoạt động pháp lí làm cho pháp luật được thực hiện trong thực tế, hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước và việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của công dân theo một trật tự
nhất định, do đó hoạt động thực thi pháp luật cần phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Xây dựng một hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lí đầy đủ để Nhà nước pháp quyền
Việt Nam hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình và nhân dân lao động được bảo vệ
và có đủ điều kiện thực hiện các quyền tự do chân chính của họ;
- Xây dựng bộ máy tổ chức điều hành tinh gọn, có đủ năng lực;
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có trình độ và năng lực để đáp ứng
công việc được giao;
- Có nguồn kinh phí đầy đủ để đáp ứng yêu cầu của xã hội;
- Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của công dân;
- Xử lí nghiêm minh mọi trường hợp vi phạm pháp luật;
- Tổ chức và thực hiện pháp luật phải được thực hiện bởi nhiều hình thức và phương
pháp khác nhau;
2. Khái niệm hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
Giám sát tức là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc làm nào đó đúng
hay sai với những điều đã được pháp luật quy định.


Đặc điểm chung nhất của “ giám sát” là giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định;
Giám sát luôn gắn với đối tượng cụ thể ( giám sát ai, giám sát cái gì); Giám sát thể hiện
mối quan hệ giữa chủ thể tiến hành hoạt động giám sát và đối tượng chịu sự giám sát;
Giám sát được tiến hành trên cơ sở những quy định cụ thể.
Chính vì vậy giám sát là hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định –
là một nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và cũng là một hình thức kiềm chế, đối
trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay. Thực hiện tốt công tác giám sát là
đòi hỏi cấp thiết của nhà nước pháp quyền ở nước ta.

Ở nước ta, khái niệm giám sát được dùng để chỉ quyền của nhân dân lao động thông
qua hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước. Điều 2 Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội đã quy định: “Giám sát là việc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội
đồng dân tộc, ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong
việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy
ban thường vụ Quốc hội”.
Các cơ quan quyền lực nhà nước là những cơ quan có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ
máy nhà nước. Vị trí pháp lí cũng như chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của nó do Hiến
pháp quy định. Đó là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân lao
động. Chính vì vậy hoạt động của những cơ quan này tác động tích cực và chi phối rất
lớn hoạt động của các cơ quan nhà nước khác, trong đó có cơ quan hành chính nhà nước.
Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan quyền lực nhà nước đại
diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động giám sát đối với việc bảo đảm pháp chế
trong quản lý hành chính nhà nước, để phát hiện những yếu kém về mặt tổ chức,
lệch lạc trong nhận thức, hành động, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật,
xâm phạm lợi ích Nhà nước... để từ đó có biện pháp khắc phục, xử lý thích đáng.
Qua đó, từng bước nâng cao hiệu quả của quản lý, góp phần vào việc thực hiện


nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước, phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
II. Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối
với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
1. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo
pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước là một trong các biện pháp pháp lí
bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước. Trong đó, hoạt động giám sát này
được thực hiện chủ yếu qua hoạt động giám sát của Quốc hội và hoạt động giám sát của
hội đồng nhân dân các cấp.

1.1. Hoạt động giám sát của Quốc hội
Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ và quyền hạn của
Quốc hội. Quyền đó đã được khẳng định cụ thể tại khoản 2 Điều 70 Hiến pháp 2013 và
Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội năm 2014: “ Quốc hội… thực hiện quyền giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Quy định này vừa khẳng định Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước
thống nhất, tập trung trong tay nhân dân lao động. Quy định trên đây cũng đồng thời
khẳng định: chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội. Nói Quốc hội trong
trường hợp này là toàn thể đại biểu Quốc hội chứ không phải chỉ một đoàn đại biểu Quốc
hội hay một bộ phận nào đó của Quốc hội. Vì thế, Quốc hội mới có quyền và đủ điều kiện
thực hiện “quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”.
* Giám sát của Quốc hội tại các kỳ họp được thực hiện thông qua những hoạt động:
- Thông qua việc chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với Chủ tich nước, Chủ tịch
Quốc Hội, Thủ tướng chính phủ, các bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,


nghe Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo
cáo, đồng thời cũng chất vấn đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao về các vấn liên quan. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc
Hội có thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc Hội hoặc tại kỳ họp sau
của Quốc Hội hoặc bằng văn bản.
- Quốc hội nghe, xem xét, đánh giá công khai các báo cáo của Chủ tịch nước, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao; có thể bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với
Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; có thể miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước,
Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về
việc miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác

của Chính phủ. Như quy định của Khoản 7 Điều 70 Hiến pháp năm 2013.
* Giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Uỷ ban thường vụ Quốc hội vừa là cơ quan giúp Quốc hội vừa trực tiếp thực hiện giám
sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, giám sát hoạt động của Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, giám sát hoạt động của Hội
đồng nhân dân; đồng thời có quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định bãi bỏ các văn bản
đó, đối với những văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội thì bãi bỏ.
* Giám sát của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội
Các Uỷ ban, Hội đồng của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát và trên
các kì họp báo cáo trước Quốc hội về hoạt động của mình trong các bản báo cáo thẩm tra,


thuyết trình… (thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Uỷ ban pháp luật, thẩm tra thực
hiện ngân sách của Uỷ ban kinh tế và ngân sách…). Trong phạm vi lĩnh vực được Luật tổ
chức Quốc hội quy định, tiến hành giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan, cá
nhân có liên quan.
* Giám sát của đại biểu Quốc hội
- Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội được thực hiện ở các địa phương và cơ sở,
đặc biệt thông qua việc tiếp xúc của họ với các cử tri, nghe đề nghị cũng như các yêu cầu
và khiếu nại của cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước và
các cán bộ có thẩm quyền ở những cơ quan ấy.
- Thông qua việc thực hiện quyền giám sát, Quốc hội xây dựng những biện pháp và giải
pháp hữu hiệu để giải quyết những vấn đề được phát hiện từ việc thực hiện quyền giám
sát của mình. Chẳng hạn như việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức
vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn (khoản 7 Điều 70 Hiến pháp năm 2013).
Trong việc thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước,

Quốc hội thực hiện quyền này tập trung trước hết đối với hoạt động của cơ quan
hành chính nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước tức là thực hiện quyền lực nhà nước về mặt tổ chức đối
với bộ máy hành chính nhà nước.
1.2. Hoạt động giám sát của chính quyền địa phương(Hội đồng nhân dân)
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương thực hiện quyền
giám sát đối với hoạt động của ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của ủy
ban nhân dân cũng như các đơn vị trực thuộc. Phạm vi giám sát của hội đồng nhân
dân bao gồm toàn diện mọi vấn đề và lĩnh vực quản lí của địa phương. Căn cứ vào
những quy định của Hiến pháp và Điều 1:“Hội đồng nhân dân thực hiện quyền
giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện
các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ


quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của
công dân ở địa phương” của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
năm 2003 nội dung hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được xác định như
sau:
Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân địa phương là chức năng chủ yếu
của các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương được thực hiện trước hết ở các
kì họp của hội đồng nhân dân. Hoạt động này cũng được thực hiện thông qua việc
nghe và thảo luận báo cáo của ủy ban nhân dân, thông qua việc chất vấn các đại
biểu là lãnh đạo của ủy ban nhân dân cũng như các đại biểu là lãnh đạo cơ quan
kiểm sát và xét xử ở địa phương. Hội đồng nhân dân bầu và bãi miễn các thành
viên của ủy ban nhân dân, có quyết định đình chỉ hoặc bãi bỏ, nghị quyết của hội
đồng nhân dân quyết định của ủy ban nhân dân. Sáng ngày 14/7/2010, 3 giám đốc
sở của UBND thành phố Hà Nội gồm: Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông
Nguyễn Văn Phúc, Giám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội Nguyễn Đình
Đức và Giám đốc Sở Giao thông Vận tải Nguyễn Quốc Hùng đã đăng đàn trả lời

chất vấn của đại biểu HĐND thành phố và cử tri. 3 nhóm vấn đề nóng nhất đã
được Thường trực HĐND Hà Nội lựa chọn từ hơn 200 ý kiến, chất vấn của đại
biểu HĐND thành phố gồm: quản lý games online; đào tạo, chuyển đổi nghề cho
lao động nông thôn; tiến độ, chất lượng các dự án chỉnh trang đô thị và các giải
pháp chống ùn tắc giao thông.
Trong các kì họp của mình, hội đồng nhân dân xem xét các báo cáo công tác
của thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, tòa án nhân dân, viện kiểm
sát nhân dân cùng cấp; nghe báo cáo và xem xét ý kiến đóng góp, nguyện vọng của
cử tri địa phương về hoạt động của hội đồng nhân dân và những vấn đề về kinh tế,
văn hóa xã hội và những vấn đề bức xúc khác ở địa phương… Một ví dụ thực tế là
thực hiện chương trình kỳ họp cuối năm của HĐND tỉnh và thành phố Nam Định,
sáng 11/11/2010, đoàn đại biểu HĐND Tỉnh, HĐND Thành Phố khoá 15 tiếp xúc


đại biểu cử tri phường Phan Đình Phùng. Hội nghị đã được nghe đại diện HĐND
Tỉnh, Thành Phố báo kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế xã hội của địa phương
năm 2010. Cử tri đã đóng góp nhiều ý kiến có chất lượng về vệ sinh môi trường,
xây dựng, cơ sở hạ tầng, thủ tục giải quyết chế độ chính sách…Hội nghị đã được
đại biểu HDND Tỉnh, Thành phố tiếp thu và trả lời, làm rõ từng nội dung, đáp ứng
nguyện vọng chính đáng của cử tri phường.
Ngoài ra, một biểu hiện cụ thể của hình thức giám sát quan trọng của hội đồng
nhân dân là việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân. Giải quyết khiếu nại tố
cáo của cử tri kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật là nghĩa vụ của toàn thể đại
biểu hội đồng nhân dân chứ không phải riêng bộ phận nào. Làm tốt nhiệm vụ này
là một biểu hiện thiết thực của việc xây dựng nền dân chủ xã hội của dân, do dân
và vì dân. Mặt khác nhiệm vụ này còn góp phần ích cực vào việc tăng cường và
bảo đảm pháp chế và thông qua hoạt động khiếu, nại tố cáo mà nhiều hành vi tham
nhũng, lãng phí vi phạm dân chủ được làm sáng tỏ. Tháng 12/2000, ông Lê Đạo,
nguyên Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Bí thư Huyện ủy Đức Trọng (Lâm Đồng) phát
hiện và tố cáo một số cán bộ huyện Đức Trọng (thời kỳ 1991-1993) đã cố tình

phạm pháp trong việc cấp 6.000m2 đất vốn là tài sản của người nước ngoài sau giải
phóng miền Nam đã ký văn bản hiến cho Nhà nước.
2. Vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc
đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
Thứ nhất, là những đại biểu do dân trực tiếp bầu ra nên hoạt động giám sát của cơ quan
dân cử là cách thức thực hiện quyền lực nhân dân, thực hiện ý nguyện của cử tri đồng
thời cũng là cách thức xác lập sự phụ thuộc của đại biểu với cử tri. Nếu đại biểu từ chối ý
nguyện của cử tri trong việc thực hiện quyền giám sát của mình cũng đồng nghĩa với việc
đại biểu đó đánh mất uy tín của mình trước cử tri. Thực tế cho thấy, nhân dân luôn kỳ
vọng và đòi hỏi ở mỗi đại biểu dân cử, những người đã được nhân dân tin tưởng bầu vào
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan quyền lực ở địa phương cần phải thực sự


thay mặt nhân dân giám sát có hiệu quả hoạt động của bộ máy công quyền, giám sát việc
làm của cán bộ, công chức nhà nước để bảo vệ lợi ích của nhà nước và của công dân.
Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử thực chất cũng chính là góp phần bảo đảm
phát huy dân chủ một cách đầy đủ nhất.
Thứ hai, thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp thực
hiện quyền lực nhà nước một cách thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra
mọi mặt công tác của các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, đảm bảo các đối tượng
chịu sự giám sát phải thực hiện đúng đắn và đầy đủ những quy định của pháp luật. Cũng
thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể phát hiện những
yếu kém, những khuyết điểm trong công tác tổ chức và hoạt động cũng như những khó
khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực hiện nhiệm vụ mà pháp luật
đã quy định đối với các cơ quan hành chính nhà nước. Trên cơ sở đó cơ quan quyền lực
nhà nước kịp thời đề ra những thời gian cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục những
khó khăn và tồn tại ấy.
Thứ ba, vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cũng không kém
phần quan trọng trong việc phát hiện ra sự bất cấp của hiến pháp, luật, pháp lệnh nghị
quyết của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân; các văn bản quy

phạm pháp luật của cơ quan hành chính các cấp. Nếu phát hiện thấy khiếm khuyết về
hình thức hay nội dung thì các cơ quan quyền lực nhà nước nói trên phải đưa ra những
biện pháp, giải pháp khắc phục. Thông qua đó, những cơ quan này đã đưa ra những yêu
cầu và những biện pháp cải tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy, nâng cao hiệu lực
quản lí nhà nước.
Thứ tư, trên cơ sở kết quả giám sát, cơ quan quyền lực nhà nước sẽ góp phần thực hiện
pháp luật, đáp ứng yêu cầu của việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà
nước. Việc nghiên cứu và xem xét báo cáo công tác giúp Quốc hội nắm được tình hình
hoạt động của Chính phủ, qua đó tiếp nhận thông tin một cách đầy đủ, kịp thời về tình
hình thi hành Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động thực tiễn. Đồng thời tăng cường


trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, trước nội dung chất vấn – phương thức thực
hiện quyền giám sát tối cao. Cũng qua đó giúp Quốc hội đánh giá năng lực, trình độ,
trách nhiệm của các thành viên Chính phủ thông qua việc trả lời chất vấn.
Thứ năm, hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn góp phần hoàn
thiện đường lối, thể chế của Đảng, nâng cao vị thế của Đảng trong hệ thống chính trị.
Hoạt động giám sát trên thực tế giúp phát hiện những đảng viên thoái hóa, biến chất,
không còn đủ tư cách để giáo dục, thuyết phục dân chúng, từ đó xử lí nghiêm minh, công
khai vi phạm. Có loại bỏ được những người không còn đủ tư cách nữa thì những đường
lối chính sách mà Đảng đưa ra mới phù hợp với thực tế, phù hợp với lòng dân.
C.KẾT LUẬN
Trong hoạt động quản lí hành chính từ trước tới nay, đều phải có những quy
định của pháp luật, những thiết chế và tổ chức để các cơ quan luôn nằm trong sự
kiểm tra, đánh giá của nhà nước và nhân dân nhằm chống lại xu hướng lạm dụng
quyền lực Nhà nước, chống lại những hành vi vi phạm hiến pháp và pháp luật, đặc
biệt cho những cơ quan nhà nước trong thực thi công vụ phải tuân theo những quy
định của pháp luật. Vì thế, trong quản lí nói chung và quản lí hành chính nhà nước
nói riêng, hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước nếu được chú trọng
sẽ phát huy được những ưu điểm, mặt mạnh của hoạt động này, giúp cho guồng

quay của bộ máy nhà nước phối hợp nhịp nhàng, đan xen kiểm tra giám sát lẫn
nhau. Có như chúng ta mới tạo ra hành lang pháp lí minh bạch, thông thoáng là
điều kiện, cơ sở đầu tiên cho những bước phát triển của đất nước và việc đảm bảo
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lí hành chính nhà nước.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.

Trường Đại học Luật Hà Nội,Giaó trình Luật Hành chính Việt Nam 2013.
Luật tổ chức quốc hội 2014.
Luật Hiến pháp 2013.
Trường Đại học Luật Hà Nội,Giaó trình Luật Hiến pháp 2014.
http: www.tapchicongsan.com.vn.



×