Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

skkn vận DỤNG PHƯƠNG PHÁP nêu vấn đề TRONG dạy học PHẦN “ CÔNG dân với đạo đức” NHẰM GIÁO dục đạo đức, lối SỐNG CHO học SINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.15 KB, 57 trang )

1

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH ĐỒNG NAI
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LƯƠNG THẾ VINH
Mã số……

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY HỌC PHẦN “
CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO
HỌC SINH

Người thực hiện: NGUYỄN THỊ THU VÂN
Lĩnh vực nghiên cứu: Phương pháp giảng dạy môn GDCD

Năm học: 2012- 2013


2

SƠ YẾU LÝ LỊCH KHOA HỌC
I.THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN:
1 . Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Vân
2. Sinh ngày 18 tháng 01 năm 1982
3. Giới tính: Nữ
4. Địa chỉ: 7/57- KP3 - Biên Hoà – Đồng Nai
5. Điện thoại: 0977250460
6. Chức vụ: Giáo viên
7. Đơn vị công tác : Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO :
- Trình độ chuyên môn: Cử nhân


- Năm nhận bằng: 2005
- Chuyên nghành đào tạo: GDCD
III: KINH NGHIỆM KHOA HỌC :
- Bảy năm kinh nghiệm


3

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU .................................................................................................. 4
B. NỘI DUNG............................................................................................... 9
Chương 1. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY
PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
LỚP 10 LÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO HỌC SINH ...................................................................... 9
1.1. Lý luận chung về phương pháp dạy học nêu vấn đề................................. 9
1.2. Sự cần thiết vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân
với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh......................... 14
1.3. Tình hình vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần “Công dân với
đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh ....................................... 20
Chương 2. VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY
PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN
LỚP 10 NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC
SINH…........................................................................................................24
2.1. Định hướng cách tiến hành vận dụng phương pháp nêu vấn đề ......... ....24
2.2. Thiết kế một số giáo án vận dụng phương pháp nêu vấn đề ................... 26
C. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI THỰC HIỆN VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ DẠY PHẦN “CÔNG DÂN VỚI ĐẠO
ĐỨC”…………………………………………………………………...........49

KẾT LUẬN……………………………………………………………..........52
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... ………….53
PHỤ LỤC…………………………………………………………………….53


4

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang ở trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, đẩy mạnh
CNH, HĐH với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế là nguồn lực của người Việt Nam với sự phát triển toàn diện. Hơn
bao giờ hết, ngành giáo dục và đào tạo giữ vị trí quan trọng, là một quốc sách
hàng đầu có nhiệm vụ tạo ra những con người mới với đầy đủ những phẩm chất
và năng lực, có đức và tài, tích cực và sáng tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Đứng trước yêu cầu của xã hội, luật giáo dục (2005) đã chỉ rõ: “ Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [16, 23]
Trong những năm gần đây, giáo dục phổ thông có những chuyển biến tích
cực, đặt biệt là những đổi mới về phương pháp dạy học. Trên cơ sở phương
pháp dạy học truyền thống, chúng ta đã và đang áp dụng các phương pháp dạy
học tích cực, trong đó có phương pháp nêu vấn đề. Phương pháp nêu vấn đề
thực tế đã khắc phục những hạn chế của phương pháp dạy học cũ, đồng thời
khơi dậy, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, rèn luyện cho học sinh
năng lực giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống, kích thích tư duy và
tinh thần hợp tác xây dựng bài của các em.

Vận dụng phương pháp nêu vấn đề đặc biệt cần thiết đối với môn GDCD,
thực tế đây là môn học rất quan trọng trong nhà trường phổ thông, có “vị trí
hàng đầu trong việc định hướng phát triển nhân cách của học sinh”. Tuy nhiên
hiện nay, việc nhận thức hoặc đánh giá không đúng về vị trí của môn học vẫn
còn là một tình trạng khá phổ biến. Không ít người vẫn còn có những nhận thức,
quan niệm lệch lạc khi cho rằng GDCD chỉ là môn phụ, hoặc đồng nhất môn


5

GDCD với môn chính trị hoặc đạo đức thuần túy. Không ít những giáo viên dạy
qua loa, chiếu lệ, thiếu sự đổi mới về phương pháp dạy học. Đó chính là nguyên
nhân khiến môn học chưa thực sự phát huy được vai trò của mình trong việc
giáo dục nhân cách học sinh. Mặt khác, dưới sự tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường, tình trạng đạo đức của học sinh có sự xuống cấp. Lối sống thực dụng,
buông thả, thiếu ước mơ, hoài bão, sự vi phạm pháp luật ngày càng tăng ở lứa
tuổi học trò. Bên cạnh đó, những tệ nạn xã hội đã và đang xâm nhập vào học
đường hủy hoại thể lực, trí tuệ, đạo đức của các em.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải nhận thức đúng vị trí và mục tiêu của
môn GDCD và phải vận dụng một cách khoa học các phương pháp dạy học, đặc
biệt là phương pháp dạy học nêu vấn đề nhằm biến những tri thức vốn khô khan,
trừu tượng, khó hiểu của môn học thành tình cảm, lẽ sống, lý tưởng, niềm tin ở
học sinh, thôi thúc các em hành động theo lẽ phải và không ngừng nỗ lực phấn
đấu để tự hoàn thiện bản thân, vươn tới các giá trị “chân- thiện-mĩ”.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề Vận dụng phương
pháp nêu vấn đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” chương trình
giáo dục công dân lớp 10 nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh làm
đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các nhà giáo dục trên thế giới cũng như Việt nam đã có những công trình

nghiên cứu về phương pháp dạy học nêu vấn đề.Trong cuốn Những cơ sở của
dạy học nêu vấn đề, V.Ôkôn đã nghiên cứu vấn đề các điều kiện để xuất hiện
các tình huống có vấn đề trong dạy học. I.I.Lecne đã phân tích bản chất dạy học
nêu vấn đề, cơ sở, tác dụng và phạm vi áp dụng phương pháp nêu vấn đề trong
cuốn Dạy học nêu vấn đề.
Các nhà giáo dục tên tuổi như M.I.Makhơnutốp, M.A.Đanhilốp hay
B.P.Exicpốp đã phân tích các tình huống có vấn đề trong dạy học và xây dựng
quy trình dạy học nêu vấn đề.


6

nc ta, vn dy hc nờu vn cng c cỏc nh khoa hc, cỏc
nh giỏo dc quan tõm nghiờn cu nh: Nguyn Cnh Ton, hc v cỏch dy
hc, Nxb i hc S phm, H Ni, 2004; V Vn To, Dy hc gii quyt
vn , mt hng i mi phng phỏp giỏo dc, o to, hun luyn, Trng
qun lý giỏo dc v o to, H Ni, 1996. Cỏc cụng trỡnh ny ó cp cỏc
khớa cnh khỏc nhau ca phng phỏp dy hc nờu vn .
Cỏc cụng trỡnh trờn ó cp n bn cht, vai trũ, quy trỡnh, gii phỏp
vn dng phng phỏp dy hc nờu vn trong dy mt s phn ca mụn
GDCD trng THPT.
Vn giỏo dc o c, li sng cho hc sinh c cỏc tỏc gi quan
tõm nghiờn cu nh: Nguyễn Nghĩa Dân, Đổi mới phương pháp dạy học môn
đạo đức và Giáo dục công dân; Lê Thị Lan, Quan hệ giữa các giá trị truyền
thống và hiện đại trong xây dựng đạo đức. Nh giỏo dc Phm Minh Hc, trong
nhiu cụng trỡnh nghiờn cu ca mỡnh v o c ó nhn mnh n vn cu
trỳc ca nhõn cỏch, cng nh nhn mnh vai trũ ca giỏo dc o c trong quỏ
trỡnh v phỏt trin nhõn cỏch. Phm Tt Dong ó i sõu nghiờn cu mi quan h
gia hot ng giỏo dc hng nghip giỏo dc lao ng, dy ngh vi mc tiờu
giỏo dc o c li sng cho th h tr. H Th Ng chỳ trng n vn t

chc quỏ trỡnh giỏo dc o c thụng qua ging dy cỏc b mụn khoa hc, nht
l cỏc b mụn khoa hc xó hi v nhõn vn, rốn luyn phng phỏp t duy khoa
hc trờn c s ú giỏo dc th gii quan, nhõn sinh quan, bi dng ý thc
o c, hng dn thc hin cỏc hnh vi o c cho hc sinh.
Nh vy, cỏc tỏc gi nhiu gúc khỏc nhau ó cp cỏc vn v
phng phỏp dy hc, phng phỏp nờu vn trong dy hc, cng nh giỏo
dc o c, li sng cho thanh niờn, hc sinh. Tuy nhiờn, vn vn dng
phng phỏp nờu vn trong dy phn Cụng dõn vi o c chng trỡnh
GDCD lp 10 THPT nhm giỏo dc o c, li sng cho hc sinh thỡ cha cú
mt cụng trỡnh no nghiờn cu mt cỏch cú h thng. Cỏc cụng trỡnh ca cỏc tỏc


7

giả trong và ngoài nước tạo cơ sở lý luận để tác giả tiếp tục tìm hiểu, nghiên
cứu, thực hiện đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ tính tất yếu của việc vận dụng phương pháp nêu vấn đề,
tác giả đưa ra quy trình và thiết kế một số tiết dạy áp vận dụng phương pháp nêu
vấn đề trong dạy phần “Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10
nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ sự cần thiết phải vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy
phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.
- Đánh giá thực trạng vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần
“Công dân với đạo đức” ở các trường THPT
- Xây dựng quy trình và thiết kế giáo án vận dụng phương pháp nêu vấn
đề trong dạy học phần “Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống
cho học sinh.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài tập trung nghiên cứu phương pháp nêu vấn đề vận dụng trong dạy
học phần “Công dân với đạo đức” chương trình GDCD lớp 10.
- Đề cập một phần ở một số bài cụ thể trong phần “Công dân với đạo đức”
thuộc chương trình GDCD lớp 10.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục; dựa trên cơ sở
nội dung chương trình SGK môn GDCD, SGV môn GDCD, những tài liệu
hướng dẫn, bồi dưỡng GV giảng dạy môn GDCD và các văn bản chỉ đạo quá
trình dạy - học của Bộ Giáo dục và Đào tạo.


8

- Đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương pháp lôgíc và
phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thực
nghiệm sư phạm; phương pháp thống kê xã hội học, v.v..
6. Ý nghĩa đề tài
Sáng kiến kinh nghiệm sẽ góp phần sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
công tác nghiên cứu và giảng dạy môn GDCD, giúp cho quá trình giảng dạy
môn học này ngày càng đạt hiệu quả cao hơn; đồng thời góp phần vào công tác
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh các trường THPT.


9

B. NỘI DUNG

Chương 1

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY PHẦN
“CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10
LÀ YÊU CẦU KHÁCH QUAN NHẰM GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC,
LỐI SỐNG CHO HỌC SINH

1.1.

Lý luận chung về phương pháp nêu vấn đề

1.1.1. Các quan điểm về phương pháp nêu vấn đề
Dạy học nêu vấn đề và những công trình nghiên cứu về nó bắt đầu xuất
hiện vào những thập niên 50 - 60 của thế kỷ XX. Tuy nhiên dạy học nêu vấn đề
với tính chất một hệ thống giảng dạy là một hiện tượng mới về nguyên tắc.
Bàn về phương pháp dạy học nêu vấn đề, các nhà nghiên cứu khoa học
giáo dục trong và ngoài nước đã đưa nhiều quan niệm khác nhau:
I.F Khalarmov cho rằng: “dạy học nêu vấn đề là sự tổ chức quá trình dạy
học bao gồm việc tạo ra các tình huống có vấn đề, nhằm kích thích ở học sinh
nhu cầu giải quyết các vấn đề đó để lôi cuốn các em tham gia vào hoạt động
nhận thức, nhằm tự lực nắm vững kiến thức, kỹ năng kỹ xảo mới, phát triển tính
tích cực nhận thức, đồng thời hình thành năng lực tự mình thông hiểu và lĩnh hội
các thông tin khoa học mới” [10; 34]
Nhà giáo dục Ba Lan V.Ôkon cho rằng: Dạy học nêu vấn đề là toàn bộ
các hoạt động như tổ chức các tình huống có vấn đề, diễn đạt các vấn đề, chú ý
giúp đỡ cho học sinh ở mức cần thiết để giải quyết vấn đề đó, kiểm tra cách giải
quyết ấy và cuối cùng là hệ thống hóa và củng cố các kiến thức tiếp thu được.
Theo I.La.Lecne, dạy học có vấn đề: “Nó giúp cho học sinh làm quen
không những với cách thức giải quyết vấn đề, với bản chất của chúng, với lĩnh
vực và biện pháp áp dụng giống như khi tiến hành phương pháp giải thích minh



10

họa mà còn giúp tìm hiểu cả logic, đôi khi nó chứa đựng mâu thuẫn của sự tìm
tòi những cách giải quyết này” [15; 17]
I.La.Lecne quan niệm bản chất của dạy học nêu vấn đề chính là bởi ý
nghĩa đã đưa lại kết quả tốt đẹp cho người học. Đó là sự biến đổi trong tư duy,
trong nhận thức của người học, trong cách suy nghĩ, lập luận logic để tìm ra
cách giải quyết vấn đề.
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Bảo quan niệm: “Dạy học nêu vấn đề là hình thức
dạy học dựa trên những quy luật của sự lĩnh hội tri thức và cách hoạt động một
cách sáng tạo, bao gồm sự kết hợp các phương pháp dạy và học có những nét cơ
bản của sự tìm tòi khoa học. Nhờ vậy nó bảo đảm cho sự lĩnh hội vững chắc
những cơ sở khoa học, phát triển tính tích cực, tính tự lực và năng lực sáng tạo
và hình thành cơ sở thế giới quan khoa học cho họ” [2; 11]
Tác giả đã nêu lên bản chất của dạy học nêu vấn đề chính là sự lĩnh hội
kiến thức một cách sáng tạo ở người học bằng cách người giáo viên hướng dẫn
cho học sinh đi lại con đường tìm tòi nghiên cứu mà các nhà khoa học đã đi, từ
đó hình thành cho học sinh tính tích cực độc lập, tìm tòi, phát hiện, hình thành
những phẩm chất của người nghiên cứu khoa học.
Mặc dù có những cách diễn đạt khác nhau về phương pháp dạy học nêu
vấn đề, nhưng tất cả các tác giả đều coi phương pháp dạy học nêu vấn đề là việc
tổ chức quá trình dạy học bằng cách tạo ra các tình huống có vấn đề, đặt học
sinh vào một môi trường tích cực, tạo nhu cầu phát hiện và giải quyết vấn đề nảy
sinh, khơi dậy khả năng suy nghĩ, tìm tòi sáng tạo để xây dựng nên những hiểu
biết mới cho bản thân.
Từ các quan niệm về dạy học nêu vấn đề ở trên, có thể nêu ra những dấu
hiệu bản chất của dạy học nêu vấn đề như sau:
Thứ nhất, dạy học nêu vấn đề là toàn bộ quá trình tổ chức hoạt động dạy
và học theo hướng tạo ra tình huống có vấn đề để kích thích tính tích cực tư duy
của người học.



11

Tình huống có vấn đề là điểm khởi đầu của dạy học nêu vấn đề. Tình
huống có vấn đề là tình huống gây ra cho học sinh một sự khó khăn, chứa đựng
mâu thuẫn giữa cái chưa biết và cái phải tìm, nó thôi thúc học sinh tự giác giải
quyết cho bằng được để chiếm lĩnh tri thức. Tình huống có vấn đề biểu hiện ra
có thể là một câu hỏi, một luận đề phải chứng minh, hay bác bỏ, một tình huống
phải lý giải.
Thứ hai, việc tạo ra tình huống có vấn đề là sự chủ động của giáo viên
trong quá trình lên lớp, đồng thời giáo viên cũng chủ động tập cho học sinh có
khả năng phát hiện, tự đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
Thứ ba, dạy học nêu vấn đề nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học
trong nhà trường phổ thông như:
Một là: Trang bị cho học sinh những tri thức cơ bản, hiện đại, phù hợp
với thực tiễn đất nước về tự nhiên, xã hội và nhân văn. Đồng thời rèn luyện kỹ
năng và kỹ xảo tương ứng.
Hai là: Tổ chức, điều khiển học sinh phát triển năng lực hoạt động trí tuệ,
đặc biệt là năng lực tư duy, sáng tạo.
Ba là: Giáo dục cho học sinh thế giới quan khoa học và giáo dục những
phẩm chất đạo đức nói riêng, phát triển nhân cách nói chung cho học sinh.
Thông qua việc sử dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy học sẽ thực
hiện tốt những nhiệm vụ nói trên, góp phần hình thành cho học sinh sự phát triển
hoàn thiện cả về phẩm chất và năng lực, đáp ứng nhu cầu thực tiễn cuộc sống.
1.1.2. Các bước chủ yếu trong dạy học nêu vấn đề
- Tình huống có vấn đề.
Vấn đề được nêu ra để dạy học là vấn đề học tập. Nó là mới đối với học
sinh, còn trong khoa học, trong thực tiễn thì nó không phải là vấn đề mới mà là
vấn đề đã được giải quyết, kiểm nghiệm trong thực tế.

Bản chất của vấn đề học tập là một nhiệm vụ học tập mà để thực hiện nó,
học sinh phải tư duy ở mức độ nhất định. Vấn đề học tập có thể là một câu hỏi,
những thắc mắc, là bản thân hoạt động tìm kiếm các câu trả lời của người học.
Tuy nhiên, không phải bất cứ câu hỏi nào cũng được xem là vấn đề học tập và


12

làm xuất hiện tình huống có vấn đề, bởi vì có những câu hỏi không đòi hỏi học
sinh phải tư duy, các em chỉ đọc trong SGK là có thể trả lời được. Tình huống
có vấn đề không chỉ thể hiện dưới dạng câu hỏi mà còn thể hiện dưới dạng tình
huống. Theo nhà giáo dục Ba Lan U.Ôkon thì tình huống có vấn đề do giáo viên
đưa ra trong quá trình dạy học phải đạt được ba điều kiện:
- Làm xuất hiện mâu thuẫn trước học sinh, giúp họ xác định rõ nhiệm vụ
nhận thức và tiếp nhận nó, nghĩa là tạo ra nhu cầu nhận thức của học sinh.
- Kích thích được hứng thú nhận thức của học sinh, đồng thời làm cho họ
tự giác, tích cực trong hoạt động nhận thức.
- Phải phù hợp với khả năng, trình độ của học sinh, nghĩa là người học có
thể giải quyết hoặc biết cách giải quyết bằng hoạt động tư duy, dựa vào vốn kiến
thức nhất định đã có về vấn đề đó.
Ví dụ ở bài 10: “Quan niệm về đạo đức” môn GDCD 10, để học sinh hiểu
được thế nào là hành vi đạo đức, giáo viên có thể đưa ra vấn đề như sau: Trong
giờ kiểm tra, bạn A đã mở tài liệu và đã giúp bạn khác làm bài đạt điểm cao. A
tự cho rằng hành vi mở tài liệu của mình là không vi phạm đạo đức vì đã giúp
cho các bạn khác làm được bài. Theo em, đó có phải là hành vi đạo đức không?
Tại sao?
Hoặc khi đề cập đến điểm khác nhau giữa đạo đức và pháp luật, giáo viên
đặt ra câu hỏi kích thích khả năng tư duy của học sinh như sau: Tại sao nói sự
điều chỉnh hành vi của pháp luật là sự điều chỉnh thông qua những yêu cầu tối
thiểu. Trong khi sự điều chỉnh hành vi của đạo đức lại thường là những yêu cầu

cao của xã hội đối với con người?
Vấn đề nêu ra có thể là đơn giản, có thể là phức tạp. Điều quan trọng là giáo
viên cần khéo léo liên hệ với kiến thức cũ và vốn hiểu biết của học sinh để giải
quyết vấn đề mới. Với những câu hỏi nêu trên, học sinh sẽ suy nghĩ thêm và trả lời
được trên cơ sở những kiến thức đã được học về phần đạo đức ở cấp THCS
Trong bài giảng môn Giáo dục công dân, đặc biệt phần “Công dân với
đạo đức”, lượng kiến thức trong sách giáo khoa có phần mang tính trừu tượng


13

cao. Vì vậy, khi nêu vấn đề, phải chú ý tới nguyên lý về sự thống nhất giữa lý
luận với thực tiễn. Giáo viên cần gợi ý để học sinh có thể tự nêu vấn đề và giải
quyết vấn đề dựa trên những tình huống hoặc sự kiện các em đã được tiếp cận
trong cuộc sống. Chẳng hạn, trong quá trình dạy bài 10 “Quan niệm về đạo
đức”, học sinh có nêu vấn đề sau: Có một vụ án, người chồng vô cùng hung ác,
hàng ngày ông ta thường đánh đập rất dã man người vợ của mình, nhất là khi
say xỉn, người vợ như sống trong địa ngục trần gian. Người con trai của họ vốn
là người hiền lành, ngoan ngoãn, luôn là học sinh giỏi, chứng kiến cảnh hành hạ
đó mà thương mẹ khôn xiết nhưng đồng thời cũng căm thù cha mình. Một hôm,
anh ta đã giết chết cha mình để chấm dứt cuộc sống địa ngục gia đình.
Em học sinh này cho rằng đây là một người con hiếu thảo, việc giết cha là
vì quá yêu thương mẹ. Vậy hành vi của anh ta có phải là hành vi đạo đức hay
không?. Với câu hỏi này, tác giả đã cho học sinh thảo luận và trả lời đồng thời
định hướng để các em hiểu cho đúng về vấn đề này.
Xây dựng tình huống có vấn đề là một việc làm không dễ, đòi hỏi nhiều
hiểu biết và kinh nghiệm. Do đó trong tình hình hiện nay, đây thường là công
việc của giáo viên. Tuy nhiên giáo viên vẫn nên động viên hướng dẫn để học
sinh có thể tham gia nêu vấn đề ở mức độ phù hợp với trình độ của các em
- Giải quyết vấn đề

Giải quyết vấn đề phụ thuộc vào vấn đề đã được nêu ra. Nhiệm vụ học tập
này có thể là trả lời câu hỏi, chứng minh hoặc bác bỏ một luận điểm, lí giải một
tình huống cụ thể.
Cơ sở để giải quyết vấn đề là nội dung kiến thức trong sách giáo khoa.
Đây là tài liệu quan trọng vì nó cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học
cơ bản, đã được khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm. Ngoài ra cơ sở giải quyết
vấn đề còn là vốn hiểu biết của giáo viên và học sinh. Muốn giải quyết vấn đề có
hiệu quả, giáo viên cần chuẩn bị một cách chu đáo, chia những vấn đề lớn thành
những vấn đề nhỏ phù hợp với trình độ của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến
thức từ đơn giản đến phức tạp.


14

Giai đoạn này đòi hỏi học sinh phải huy động tri thức, vốn sống để giải
quyết vấn đề. Giáo viên cần khéo léo gợi ý để học sinh tự giải quyết, tạo ra sự
hứng thú cho học sinh bằng cách nêu những câu hỏi gợi mở, giải quyết từng vấn
đề. Giáo viên cũng cần nêu ra những câu hỏi giả định, nhằm khắc sâu trí nhớ,
phát triển trí tuệ cho học sinh. Làm tốt điều này sẽ khiến học sinh không ngừng
tìm tòi để nhận thức, hăng say trong học tập.
Bước này là hết sức quan trọng. Nó vừa là kết quả của sự suy nghĩ, tìm
tòi, nỗ lực hết mình của học sinh vừa thể hiện tính hiệu quả từ những gợi ý của
giáo viên. Nhìn nhận vào những gì mà học sinh phát biểu được, giáo viên có thể
biết được học sinh nắm bài đến đâu, đang khúc mắc chỗ nào để tiếp tục có
những gợi ý nhỏ, giúp các em tiếp tục suy nghĩ để đi đến kết luận đúng đắn cuối
cùng.
Hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề học tập là việc làm phải được
chuẩn bị công phu, chu đáo. Giờ học dạy theo phương pháp này có thành công
hay không, thành công nhiều hay ít là phụ thuộc rất nhiều vào sự hướng dẫn của
giáo viên.

- Kết luận
Sau khi giải quyết vấn đề, cần liệt kê tất cả các giải pháp đã nêu đồng thời
đánh giá mức độ đúng đắn và hạn chế của kết quả các giải pháp. Giáo viên và
học sinh cần khách quan trong đánh giá và sau đó là quyết định lựa chọn giải
pháp tối ưu nhất. Học sinh vận dụng những kiến thức vừa mới tìm tòi được để đi
đến kết luận vấn đề, đồng thời có thể tiếp tục phát hiện những vấn đề học tập
mới. Ở giai đoạn này, giáo viên cũng cần uốn nắn những suy nghĩ và hành động
không đúng đắn của học sinh
1.2. Sự cần thiết vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần
“Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
1.2.1. Đạo đức lối sống của HS hiện nay và sự cần thiết giáo dục đạo
đức lối sống cho HS


15

Đạo đức, lối sống của học sinh được hình thành từ môi trường gia đình,
nhà trường và xã hội, trong đó môi trường giáo dục của nhà trường đóng vai trò
quan trọng, góp phần to lớn đối với sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ. Bác
Hồ đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Năm 1964, khi nói chuyện với thầy trò trường ĐHSP Hà Nội, Bác Hồ
chúng ta đã dạy: “ Dạy cũng như học phải biết chú trong cả tài lẫn đức. Đức là
đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất là quan trọng. Nếu không có đạo đức cách
mạng thì có tài cũng vô dụng” [26; 171]. Như vậy tư tưởng trồng người của Bác
là giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên học sinh vừa hồng vừa chuyên
tức là vẹn toàn cả đức lẫn tài.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ là một yêu cầu đặc biệt quan
trọng và cần thiết trong bối cảnh hiện nay khi xã hội có những bước chuyển biến
không ngừng, sâu rộng, to lớn về mọi mặt. Mặt trái của cơ chế thị trường tác
động không ít đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận dân cư trong đó

có số lượng học sinh, thiếu niên khiến cho đạo đức của học sinh hiện nay đang
trên đà suy giảm. Một bộ phận thế hệ trẻ lười biếng trong học tập; có những
hành vi không tôn trọng thầy cô, cha mẹ; trộm cắp, cờ bạc, sống không có lý
tưởng, mục đích; chạy theo những nhu cầu tầm thường, thích hưởng thụ, sùng
bái đồng tiền, coi thường pháp luật, quay lưng lại với các giá trị văn hóa truyền
thống, đạo đức truyền thống. Tình trạng sống buông thả thể hiện trong việc quan
hệ tình dục bừa bãi của đối tượng khá lớn học sinh đang ở mức báo động gây lo
ngại cho gia đình và xã hội. Trái với truyền thống coi trọng tình nhân ái của dân
tộc ta, một bộ phận trong nhân dân, chủ yếu là lớp trẻ, vị thành niên đang sa vào
cuộc sống bạo lực, phi nhân tính, trái đạo lý làm người như: học sinh đánh thầy,
học sinh kết bè cánh để đánh nhau, giải quyết mâu thuẫn theo kiểu “xã hội
đen”... Báo chí gần đây hay đề cập đến bạo lực chốn học đường, do bị ảnh
hưởng từ trò chơi điện tử, phim ảnh nhan nhản trên mạng đã khiến các em hành
xử với bạn mình quá tàn nhẫn, việc trò vô lễ với thầy cô trong cách xưng hô,
chửi thầy, thậm chí đánh cả thầy, tạt axit vào mặt thầy ngay trên bục giảng đã


16

xảy ra. Trong gia đình, con cái ngược đãi cha mẹ, thậm chí đánh, giết cả người
sinh thành ra mình hết sức dã man khiến cho dư luận bức xúc. Theo thống kê
của ngành công an, mỗi năm xảy ra khoảng 100.000 vụ án hình sự, trong đó có
hơn 70% đối tượng phạm pháp là thanh thiếu niên. Chỉ tính riêng năm 2010,
trên địa bàn cả nước có 13572 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên, trong đó
có 1.600 vụ học sinh đánh nhau. Con số phạm tội cho thấy sự yếu kém về tư
cách đạo đức của một bộ phận không nhỏ của học sinh, gây búc xúc cho xã hội,
làm xấu đi hình ảnh học sinh đáng ra phải trong sáng, tốt đẹp, có tri thức văn
hóa, đạo đức tốt, đáng được yêu mến và hy vọng.
Thực trạng đạo đức, lối sống của học sinh trong nền kinh tế thị trường đã
nêu là vấn đề đáng lo ngại cần phải được quan tâm và kịp thời ngăn chặn bởi lẽ

thế hệ trẻ là tương lai của đất nước, Bác Hồ từng khẳng định họ là “rường cột
của nước nhà”, là lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội mới. Nếu chúng ta
không quan tâm và giải quyết những tiêu cực ấy thì hậu quả của nó đối với đời
sống xã hội và sự phát triển của đất nước là rất nghiêm trọng.
Để hạn chế những cái tiêu cực, cái xấu đang xâm nhập vào giới trẻ nói
chung học sinh nói riêng, ngoài đòi hỏi sự quan tâm và giáo dục trong gia đình,
thì cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục trong nhà trường. Các bộ môn giảng
dạy trong nhà trường, bên cạnh việc cung cấp nhiều kiến thức bổ ích cho học
sinh còn góp phần giáo dục đạo đức cho các em. Đối với môn GDCD, mục tiêu
dạy người đóng vai trò quan trọng nhất, thông qua môn học, học sinh nắm được
các khái niệm cơ bản về các phạm trù đạo đức trong việc xử lý hàng ngày; nắm
được các chuẩn mực về đạo đức, các hành vi nên làm của một người công dân,
người có đạo đức; biết cư xử đúng mực trong các mối quan hệ giữa tình bạn,
tình yêu và trong mối quan hệ gia đình; biết rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, lương tâm
để trong các mối quan hệ biết điều chỉnh hành vi của mình theo chiều hướng tốt
đẹp, có ích cho người khác. Tuy nhiên để môn học có sức mạnh tác động đến
việc rèn luyện đạo đức, hành vi HS trong thực tế đòi hỏi người truyền đạt phải
có năng lực giảng dạy, biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy


17

học, đặc biệt là các phương pháp dạy học tích cực trong đó có phương pháp nêu
vấn đề
1.2.2. Sự cần thiết vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần
“Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
Trong dạy phần “Công dân với đạo đức”, việc vận dụng phương pháp nêu
vấn là rất cần thiết nhằm phát huy hiệu quả dạy học. Điều này xuất phát từ
những căn cứ sau:
Thứ nhất, vai trò của phương pháp nêu vấn đề đối với việc phát huy tính

tích cực của học sinh
Một trong những mục tiêu của giáo dục đào tạo là đảm bảo cho con người
có khả năng thích ứng với sự phát triển của xã hội hiện đại. Luật giáo dục 28.2
đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”[16; 23]
Phương pháp dạy học nêu vấn đề đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH hiện
nay trong nhà trường theo hướng tích cực hóa hoạt động người học. Phương
pháp này luôn phát triển cho học sinh năng lực phát hiện tình huống, giải quyết
vấn đề trong quá trình nhận thức và thực tiễn cuộc sống. Khác hẳn với cách
giảng dạy nhồi nhét, học sinh chỉ biết nghe, ghi nhớ, mà lười suy nghĩ. Dạy học
nêu vấn đề phát huy được tính tích cực tự nhận thức của học sinh. Thông qua
thảo luận, nêu ý kiến cách giải quyết của mình trong tập thể, qua đó kiến thức
người học được tiếp thu lên một trình độ mới. Đặc biệt khi học sinh biết đặt câu
hỏi nêu ra điều mình chưa biết và tìm cách giải quyết vấn đề nêu ra là một yếu tố
quan trọng để học tập thông minh, chủ động. Phương pháp này giúp học sinh tự
mình nắm kiến thức, tự mình rút ra những kết luận sau khi đã suy nghĩ kỹ.
Những kết luận này là sự phản ánh những quan điểm riêng, có căn cứ khoa học,
do các em nhận thức được và như thế các em sẽ nắm chắc kiến thức, nhớ bài học


18

sâu sắc hơn. Điều này mang tính độc lập, tự giác học tập chứ không thụ động
chờ vào kết luận của giáo viên. Do đó, hình thành trong bản thân người học sự
hứng thú, ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người. Học sinh chỉ
học tập tốt, có kết quả khi các em tiếp nhận lý thuyết bằng cách giải quyết
những vấn đề thực tế.

Phương pháp nêu vấn đề giúp người học không chỉ năng động, sáng tạo
trong việc nắm vững tri thức, mà còn hình thành kỹ năng cần thiết như kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tiễn; kỹ năng suy nghĩ, lập luận và giải quyết vấn
đề, đánh giá một nhận định nào đó. Cũng như kỹ năng biết lắng nghe, nói, tranh
luận để bảo vệ luận điểm của mình, của nhóm.
Thứ hai, xuất phát từ mục đích, yêu cầu của dạy học phần “Công dân với
đạo đức”
Phần “Công dân với đạo đức” là một trong 5 phân môn của chương trình
giáo dục công dân lớp 10. Chương trình gồm hai mạch nội dung:
Một là: Quan niệm về đạo đức, một số phạm trù cơ bản của đạo đức học:
Nghĩa vụ, lương tâm, nhân phẩm, danh dự, hạnh phúc.
Hai là: Các giá trị đạo đức, thể hiện trong 3 mối quan hệ cơ bản của con
người là:
- Quan hệ với bản thân: Bài “Tự hoàn thiện bản thân”.
- Quan hệ với người khác: Bài “Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia
đình”.
- Quan hệ với cộng đồng, đất nước, nhân loại, gồm các bài:
“Công dân với cộng đồng”
“Công dân với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”
“Công dân với một số vấn đề cấp thiết của nhân loại”
Mục tiêu của phần môn GDCD - Phần “Công dân với đạo đức” là giúp
học sinh nắm vững các giá trị đạo đức của xã hội để từ đó có thái độ tôn trọng
các giá trị đạo đức ấy, hình thành những hành vi ứng xử phù hợp với các chuẩn


19

mực đạo đức của xã hội, dám phê phán các thái độ và hành vi đạo đức lệch lạc,
đồng thời có quyết tâm học tập, rèn luyện để tự hoàn thiện bản thân.
Để thực hiện mục tiêu trên, việc lựa chọn phương pháp giảng dạy cho

môn học đóng vai trò quan trọng. Đặc điểm tri thức phần “Công dân với đạo
đức” mang tính khái quát hóa và trừu tượng cao nhưng lại gắn liền với thực tiễn
cuộc sống, liên quan đến cách cư xử trong các mối quan hệ đa dạng của HS
khiến các em đặc biệt quan tâm thậm chí đôi khi cảm thấy hoang mang khó xử
hoặc sai lầm trong nhiều trường hợp gặp phải. Do đó nếu trong bài học, giáo
viên sử dụng phương pháp dạy học nêu vấn đề, đặt ra các tình huống thực tế vừa
lý thú, vừa phù hợp với môn học xuất phát từ cuộc sống hàng ngày hoặc từ hoạt
động nhận thức mà người học chưa biết giải đáp để học sinh tự giải quyết và tự
do nói ra suy nghĩ của mình thì hiệu quả giáo dục của các tiết học sẽ nâng cao.
Thứ nhất, sẽ giúp giảm lối học thụ động, sách vở, học sinh sẽ học tập đầy say
mê, sôi nổi, hứng thú; thứ hai, khi trao đổi với thầy cô, bạn bè về những vấn đề
đang diễn ra trong cuộc sống sẽ giúp cho người học được trải nghiệm, hóa giải
vấn đề mà họ đang gặp bế tắt, đồng thời học sinh biết rút ra được bài học cho
chính bản thân mình từ đó đánh giá, tự điều chỉnh hành vi, suy nghĩ của mình
theo hướng tích cực.
Thứ ba, xuất phát từ đối tượng người học.
Có thể nói, học sinh lớp 10 đang ở vào lứa tuổi ham học hỏi, ham hiểu
biết, năng động, sáng tạo, thích cái mới mẻ và luôn thích thể hiện mình. Vì vậy,
phương pháp giáo dục phải phù hợp với tâm lý, lứa tuổi cũng như là sở thích và
nguyện vọng của các em. Trong việc sử dụng phương pháp dạy học cũng vậy,
nếu giáo viên chỉ sử dụng phương pháp dạy học truyền thống sẽ tạo cho học sinh
tâm lý chán nản, tẻ nhạt trong giờ học, không phát huy được tính sáng tạo của
học sinh và như vậy hiệu quả giáo dục của tiết học sẽ hạn chế. Đặc biệt là môn
học GDCD, các em từng xem đó là môn bổ trợ, việc học và dạy tốt môn này phụ
thuộc nhiều yếu tố trong đó có sự nỗ lực, đầu tư tiết dạy của giáo viên và học tập
tự giác, tích cực của học sinh. Tuy nhiên, việc học tốt môn GDCD là rất khó đối


20


với các em vì môn học vốn trừu tượng và nặng về lý luận, hầu hết các em đều
thích học tập với một trạng thái thật thoải mái, không gây áp lực mà vẫn dễ tiếp
thu bài đặc biệt là các em thích hoạt động và thể hiện bản thân mình. Phương
pháp dạy học nêu vấn đề sẽ khiến học sinh cảm thấy hứng thú hơn khi việc học
được hấp dẫn bằng sự đáp ứng nhu cầu của mình. Trong thực tiễn dạy học, giáo
viên có thể đưa ra những tình huống có ý nghĩa đối với học sinh bằng cách kể
một câu chuyện liên quan, sử dụng đoạn băng video, thậm chí để các em sắm vai
để tạo tình huống và giải quyết tình huống. Được hoạt động và thể hiện khả
năng của mình, học sinh sẽ rất hứng thú. Nếu giáo viên không nắm bắt tâm lý đó
hoặc thiếu khả năng đổi mới phương pháp giảng dạy thì không những các em
càng không thích thú với môn học, học chỉ để đối phó mà hơn hết việc rèn luyện
tác phong đạo đức cho học sinh sẽ mất dần đi tác dụng bởi vì một khi chính môn
giáo dục các em khiến các em không có động lực, niềm vui và hứng thú để học
thì làm sao có thể tác động đến tình cảm để thực hiện hành vi đúng đắn trong
thực tế.
Như vậy, việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực nói chung, dạy học
nêu vấn đề nói riêng đáp ứng nhu cầu người học, giúp học sinh có thái độ đúng
đắn với môn học, với nhiệm vụ học tập của mình và hoàn thành nhiệm vụ tốt
hơn để trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.
1.3. Tình hình vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong dạy phần
“Công dân với đạo đức” nhằm giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh
Thành phố Biên Hòa có khoảng 40 giáo viên dạy môn GDCD, hầu hết các
giáo viên được đào tạo chính quy, một số ít giáo viên dạy môn văn, sử kiêm
nhiệm. Phần lớn giáo viên giảng dạy môn này còn trẻ, năng động và có ý thức
trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhiều giáo viên tự nghiên cứu và đầu
tư cho bài dạy của mình sao cho hiệu quả nhất bằng cách sử dụng phong phú
phương pháp dạy học tích cực, trong đó có phương pháp nêu vấn đề. Hầu hết
giáo viên đánh giá cao và cho rằng cần thiết khi vận dụng phương pháp này
trong phần “Công dân với đạo đức”. Một số giáo viên tâm huyết với nghề tỏ ra



21

quan tâm và tìm hiểu phương pháp dạy học nêu vấn đề. Nhiều giáo viên cho
rằng giảng dạy theo phương pháp này giảm bớt phần khô khan, cứng nhắc, thu
hút sự chú ý và tham gia đóng góp ý kiến của học sinh. Mặc dù, đôi lúc tiến
hành theo phương pháp này gặp phải những trở ngại nhưng thực tế giờ học lại
sôi nổi hơn, học sinh tham gia tích cực hơn, kết quả đem lại sau tiết học cũng đạt
hiệu quả cao hơn so với sử dụng phương pháp khác. Tuy nhiên cũng một số giáo
viên cho rằng thực hiện phương pháp này chỉ có một số học sinh tích cực, chủ
yếu là những học sinh học khá, giỏi tham gia.
Bên cạnh những ưu điểm mang lại của phương pháp dạy học nêu vấn đề,
giảng dạy nêu vấn đề trong phần “Công dân với đạo đức” còn đặt ra nhiều vấn
đề và việc dạy - học còn có những hạn chế nhất định như:
Thứ nhất, hầu hết giáo viên cho rằng sử dụng phương pháp nêu vấn đề là
cần thiết trong dạy phần “Công dân với đạo đức”, tuy nhiên trong quá trình
giảng dạy lại ít sử dụng phương pháp này. Trong số giáo viên tác giả tiến hành
điều tra thì có rất ít giáo viên thường xuyên sử dụng (15%), phần lớn giáo viên
thỉnh thoảng sử dụng (55%), thậm chí có đến 30% giáo viên chưa bao giờ sử
dụng phương pháp nêu vấn đề. Phương pháp giáo viên sử dụng chủ yếu vẫn là
phương pháp truyền thống, đặc biệt là phương pháp giảng giải mà ít đặt ra câu
hỏi kích thích tư duy cho học sinh, tổ chức cho học sinh được nêu và giải quyết
vấn đề liên quan đến bài học, nhiều giáo viên tổ chức thảo luận nhóm nhưng câu
hỏi đơn giản, học sinh dễ dàng trả lời mà chưa phát huy được tính năng động,
sáng tạo của học sinh. Có những giáo viên sử dụng phương pháp nêu vấn đề
trong giảng dạy nhưng chưa thực sự đạt hiệu quả vì khi tổ chức cho học sinh
giải quyết vấn đề thì giáo viên ít liên hệ thực tiễn, cách đặt câu hỏi cũng chưa cụ
thể, rõ ràng, khả năng gợi ý cho học sinh trả lời đúng hướng còn hạn chế.
Nguyên nhân của tình trạng này là do giáo viên cũng chưa nắm chắc về bản chất
của phương pháp dạy học nêu vấn đề, kỹ năng đặt câu hỏi.

Thứ hai, để dạy tốt phần “Công dân với đạo đức” đòi hỏi người giáo viên
phải có nhiều kinh nghiệm chuyên môn bởi vì phương pháp nêu vấn đề là một


22

phương pháp dạy học còn mới mẻ, và tương đối khó vận dụng. Không phải bất
cứ giáo viên nào cũng có khả năng vận dụng phương pháp này. Đặc trưng của
phương pháp nêu vấn đề là phải xây dựng tình huống có vấn đề, do đó đòi hỏi
giáo viên phải cân nhắc, lựa chọn sao cho tình huống đó phù hợp với đối tượng
học sinh, không chỉ kích thích tư duy sáng tạo mà còn tác động tích cực đến việc
rèn luyện đạo đức, lối sống cho học sinh. Chính vì vậy, để dạy tốt theo phương
pháp này, người giáo viên phải không ngừng trau dồi chuyên môn, nghiên cứu,
tìm tòi làm sao cho phương pháp này phát huy hiệu quả cao nhất. Chính những
lý do đó làm tốn nhiều công sức và thời gian của giáo viên.
Thứ ba, phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải biết cách tiến hành và lựa
chọn sao cho phù hợp vì phương pháp này mất nhiều thời gian. Do thời gian của
một tiết học có giới hạn mà lượng kiến thức của bài học có nhiều vấn đề cần giải
quyết. Vì vậy, giáo viên không thể giải quyết tất cả vấn đề mà học sinh nêu ra,
chỉ có thể giải quyết những vấn đề nổi trội. Nếu giáo viên không sắp xếp thời
gian cho hợp lý, cứ để cho việc tranh luận của học sinh diễn ra trong thời gian
dài thì giáo viên không đảm bảo thời gian và tiến trình lên lớp. Muốn khắc phục
tình hình trên, giáo viên phải nêu ra tình huống có vấn đề mang tính điển hình
bao quát nội dung phần dạy.
Thứ tư, hiệu quả của phương pháp dạy học nêu vấn đề phụ thuộc rất nhiều
vào tinh thần và thái độ tham gia của học sinh. Dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, không phải lớp học nào học sinh cũng tham gia tích cực. Có những lớp
học, học sinh tham gia rất tích cực, tranh giành nhau phát biểu, mạnh dạn đưa ra
câu hỏi hay vấn đề để hỏi giáo viên và cùng cả lớp tranh luận. Tuy nhiên, có
những lớp học sinh tương đối thụ động, chỉ có một số em hăng hái trả lời, thậm

chí có em lơ là trong học tập, còn làm việc riêng, không chú ý đến vấn đề giáo
viên nêu ra. Khi giáo viên đưa ra vấn đề cần hợp tác, thảo luận của các nhóm, thì
chỉ có một vài em tích cực, một số em còn lại không chịu hợp tác thảo luận với
bạn để giải quyết vấn đề, một số em khác thì độc lập làm việc một mình, khi
giáo viên gọi trình bày thì các em thường hay đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.


23

Thực trạng trên xuất phát từ trình độ nhận thức của học sinh chưa đồng đều, thụ
động, lười suy nghĩ và có tư tưởng học đối phó. Mặt khác, có phần xuất phát từ
giáo viên đó là chưa phát huy hết vai trò của mình trong quá trình giảng dạy,
thiếu hấp dẫn, lôi cuốn học sinh khi nêu vấn đề.
Thứ năm, phương pháp nêu vấn đề không phải là phương pháp vạn năng
nó cần phải được sử dụng kết hợp với các phương pháp khác trong quá trình
giảng dạy một bài học. Nếu giáo viên quá lạm dụng phương pháp này trong một
bài dạy và nhiều nội dung thì sẽ dẫn đến hiệu quả ngược lại, nó tạo ra trạng thái
mệt mỏi cho học sinh và dẫn đến chệch hướng với vấn đề ban đầu mà giáo viên
đưa ra. Ngoài ra, phương pháp nêu vấn đề phù hợp với các lớp học sinh khá
giỏi. Đối với các lớp học trung bình chỉ nên sử dụng trong mức độ nhất định.
Tóm lại, để việc học tập của học sinh đạt kết quả cao thì phải khắc phục
những hạn chế trên, giáo viên cần phải nhận thức sâu sắc vai trò của phương
pháp đối với môn học nói chung, phần “Công dân với đạo đức” nói riêng, đồng
thời biết vận dụng kết hợp một cách nhuần nhuyễn và hợp lý giữa phương pháp
nêu vấn đề với PPDH khác nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh,
giúp các em tự tin và trưởng thành hơn khi lĩnh hội và hành động trong thực tế.


24


Chương 2
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP NÊU VẤN ĐỀ TRONG DẠY PHẦN “CÔNG
DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC” MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 10 NHẰM
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CHO HỌC SINH

2.1. Định hướng cách tiến hành phương pháp nêu vấn đề
Vận dụng phương pháp nêu vấn đề trong một giờ dạy thường tiến hành
theo trình tự sau:
Bước 1: GV nêu tình huống có vấn đề. Việc GV đưa HS vào tình huống
có vấn đề giúp HS nắm được kiến thức của từng nội dung, từng khái niệm…
nhằm đạt được mục tiêu bài học đặt ra. Tình huống có vấn đề có thể dưới dạng
một câu hỏi, một tình huống gây sự mâu thuẫn trong nhận thức của HS, thôi
thúc các em suy nghĩ giải quyết. Bên cạnh những câu hỏi chính hay những vấn
đề khó, GV có thể sử dụng câu hỏi phụ, câu hỏi gợi mở. Đối với bài tập tình
huống có vấn đề, GV nêu ra những câu hỏi giả định như: Nếu trong trường hợp
đó, em sẽ hành động như thế nào? Vì sao?, hoặc Nếu là A, em có cư xử như vậy
không?Vì sao?. Một số tình huống khác GV đưa HS vào các loại quan điểm, giả
thuyết khác nhau đòi hỏi HS phải lựa chọn quan điểm nào đúng và phải có lập
luận vững chắc của mình về sự lựa chọn đó. Ở một bài dạy, phương pháp nêu
vấn đề cần được kết hợp với phương pháp dạy học tích cực khác. Trong trường
hợp GV nêu vấn đề để HS thảo luận, đóng vai giải quyết thì GV có thể nêu câu
hỏi hoặc tình huống cho các nhóm ngay trong quá trình dạy học hoặc GV thông
báo vấn đề cho HS thời gian trước đó có thể một tuần để các em có sự chuẩn bị.
Để tổ chức cho học sinh đóng vai giải quyết thì tình huống cần được để “mở”.
Hoặc ngược lại, giáo viên có thể cung cấp một vài thông tin để học sinh tự đóng
vai tạo nên tình huống có vấn đề, sau phần trình diễn giáo viên đặt câu hỏi học
sinh tham gia đóng góp ý kiến.
Bước hai, GV tổ chức cho HS giải quyết vấn đề. Vấn đề nêu ra có thể có
nhiều cách giải quyết khác nhau. Ở giai đoạn này GV có thể để HS chủ động



25

trao đổi trong phạm vi cả lớp sau đó cá nhân sẽ phát biểu giải quyết vấn đề, HS
khác lắng nghe bổ sung ý kiến hoặc đưa ra ý kiến khác nếu không đồng tình.
Ngoài ra GV cũng có thể tổ chức cho HS giải quyết vấn đề dưới hình thức thảo
luận nhóm, đóng vai.
- Đối với việc tổ chức thảo luận nhóm giải quyết vấn đề:
+ GV tiến hành chia lớp thành những nhóm nhỏ. Mỗi nhóm cần cử nhóm
trưởng để điều khiển nhóm.
+ GV giao câu hỏi cho nhóm, quy định thời gian thảo luận và bố trí vị trí
ngồi thảo luận của các nhóm.
+ Các nhóm tiến hành thảo luận để giải quyết câu hỏi GV giao cho, sau đó
đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận như dùng lời nói, viết ra giấy…, các
nhóm khác lắng nghe, bổ sung ý kiến, tranh luận đúng sai.
- Đối với việc giải quyết vấn đề dưới hình thức đóng vai. Tình huống GV
nêu ra là tình huống giả định nhằm mục đích để học sinh được tìm hiểu, suy
nghĩ và đóng vai ứng xử. Vì vậy mấu chốt của việc đóng vai là để giải quyết vấn
đề được nêu ra.
+ Sau khi nêu tình huống, trước hết GV cho các nhóm tìm hiểu, thảo luận
để lựa chọn cách ứng xử đúng đắn.
+ Nhóm thống nhất ý kiến và phân công thành viên trong nhóm đóng vai
giải quyết. Các nhóm khác chú ý theo dõi và đưa ra nhận xét sau cách giải quyết
ấy.
Đây là bước vô cùng quan trọng quyết định đến việc tiếp nhận kiến thức
cần chuyển tải đến HS. Trong khi giải quyết tình huống, HS lĩnh hội được nội
dung và cách thức giải quyết một cách tích cực, tự giác, sáng tạo.
Bước ba, GV nhận xét, kết luận và chốt lại kiến thức liên quan đến nội
dung bài học. Trên cơ sở thảo luận và giải quyết vấn đề của các nhóm, GV nhận
xét và đánh giá mức độ đúng đắn của kết quả đạt được, đánh giá các hành vi của

các nhân vật trong tình huống. Đồng thời, GV khái quát lại toàn bộ vấn đề, chốt
lại vấn đề cơ bản liên quan đến nội dung bài học.


×