Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

KINH tế xã hội HUYỆN BÌNH MINH (TỈNH VĨNH LONG) từ năm 1986 đến năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.89 MB, 132 trang )

THƯ
VIỆN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
______________________________

NGUYỄN THỊ HỒNG SANG

KINH TẾ XÃ HỘI HUYỆN BÌNH MINH
(TỈNH VĨNH LONG) TỪ NĂM 1986 ĐẾN
NĂM 2005

LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC

TP.HCM-2010


MỞ ĐẦU

1

Lý do chọn đề tài
Bình Minh- mảnh đất giàu truyền thống lịch sử- văn hóa, có tiềm năng phát triển

kinh tế- xã hội. Nhiều thế kỷ trôi qua, vùng đất và con người huyện Bình Minh đã góp công
to lớn vào những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam không chỉ trong chiến đấu chống
giặc ngoại xâm mà còn cả trong lao động sản xuất.
Sau ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng (30-04-1975), nhân dân huyện Bình
Minh với đức tính cần cù, chịu thương chịu khó và tinh thần cách mạng kiên cường đã
nhanh chống bắt tay vào công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã


hội. Qua 10 năm khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội (1975- 1985), bằng sự nổ lực của
Đảng bộ, chính quyền nhân dân, huyện Bình Minh đã thu được những thắng lợi cơ bản, đời
sống vật chất- tinh thần của nhân dân được cải thiện đáng kể so với trước giải phóng. Tuy
vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Bình Minh giai đoạn này cũng tồn tại những
hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12- 1986) với đường lối đổi mới đúng đắn đã tạo
động lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội của cả nước nói chung huyện Bình Minh nói
riêng. Vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng phù hợp với thực tế địa phương,
trong những năm 1986- 2005, kinh tế xã hội Bình Minh có những chuyển biến mạnh mẽ,
đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao rõ rệt. Mặc dù vậy, quá trình phát triển kinh tếxã hội huyện Bình Minh trong giai đoạn đầu thực hiện công cuộc đổi mới cũng còn bộc lộ
những hạn chế nhất định.
Chuyển biến về kinh tế- xã hội là yếu tố phản ánh sự vận động, phát triển của các nền
văn minh nhân loại. Sự chuyển biến ấy chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên, xã hội; đặc
biệt là các quyết định quản lý của giai cấp lãnh đạo. Quá trình vận động và phát triển đó
cũng phản ánh ý chí, khả năng chinh phục thiên nhiên, xây dựng cuộc sống cùng khát vọng
vươn lên của con người trên hành trình đi đến tương lai. Chính vì vậy, việc dựng lại bức
tranh chân thực và sinh động quá trình phát triển kinh tế- xã hội từ sau ngày giải phóng đến
năm 2005 đặc biệt để thấy được thành tựu, sự chuyển biến mạnh mẽ về kinh tế- xã hội trong
thời kỳ đổi mới (1986-2005) ở huyện Bình Minh là một vấn đề mới, có ý nghĩa khoa học và
thực tiễn sâu sắc.


Trước hết, nghiên cứu đề tài này giúp chúng ta có cách nhìn toàn diện, hệ thống, đánh
giá khách quan những thành tựu và hạn chế trong công cuộc đổi mới đất nước nói chung,
của một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long nói riêng mà Bình Minh là một trong những huyện có
bước phát triển mạnh mẽ. Đó cũng là căn cứ khoa học giúp cho các cơ quan có thẩm quyền
hoạch định chính sách phát triển kinh tế- xã hội phù hợp, từ đó tạo động lực cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Bình Minh đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về: “Kinh tế- xã hội huyện Bình Minh từ năm 1986 đến
2005” có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu, giảng dạy lịch sử địa phương, giúp cho thế

hệ trẻ có những hiểu biết bổ ích về truyền thống hào hùng của quê hương, về công cuộc đổi
mới của Đảng và nhà nước, qua đó thấy được trách nhiệm của mình đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng quê hương, Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Từ đó, mỗi người càng thêm
yêu quý quê hương, đất nước, tin tưởng vào tương lai của dân tộc, quê hương mình.
Đồng thời, quá trình hoàn thành đề tài này còn giúp tôi rèn luyện công tác nghiên cứu
khoa học, vận dụng vào công tác giảng dạy của mình, đặc biệt phần lịch sử địa phương thời
kỳ đổi mới.
Với những ý nghĩa như vậy, tôi quyết định chọn vấn đề: “Kinh tế- xã hội huyện Bình
Minh (tỉnh Vĩnh Long) từ năm 1986 đến năm 2005” làm đề tài luận văn Thạc sỹ sử học của
mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về kinh tế- xã hội thời kỳ đổi mới của đất nước nói chung và ở các vùng
nông thôn nói riêng là một vấn đề cấp thiết được nhiều nhà khoa học, nhiều nhà nghiên cứu
ở Trung ương và địa phương quan tâm. Nhưng việc nghiên cứu về phát triển kinh tế- xã hội
huyện Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long) trong giai đoạn 1986-2005 còn rất ít, thể hiện chủ yếu
trong một số báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Bình Minh, của các ban, ngành, các niên
giám thống kê lưu trữ tại Cục thống kê huyện, Cục thống kê tỉnh Vĩnh Long. Một công trình
viết về quá trình kinh tế-xã hội huyện Bình Minh trong giai đoạn 1986-2005 thì hoàn toàn
chưa có.
Kinh tế-xã hội huyện Bình Minh trong giai đoạn đổi mới đã có một số báo cáo, các
niên giám thống kê, các bài viết và các công trình nghiên cứu sau:
Các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Bình Minh lần thứ VI,VII, VIII, IX đã
nêu bật những thành tựu đạt được về kinh tế- xã hội huyện Bình Minh từ năm 1986-2005.


Báo cáo tổng kết 20 năm xây dựng huyện Bình Minh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa nêu khái quát những những thành tựu đạt được từ năm 1975- 1995.
Các báo cáo hàng năm về tình hình kinh tế- xã hội và phương hướng nhiệm vụ kinh
tế- xã hội năm sau của Ủy ban nhân dân huyện Bình Minh đã tổng kết những thành tựu đã
đạt được trên tất cả các lĩnh vực.

Các niên giám thống kê lưu trữ tại tỉnh Vĩnh Long và huyện Bình Minh từ năm 1975
đến năm 2005 đã thống kê về tình hình khí tượng thủy văn, dân số- lao động, tài chính,
nông-lâm-thủy sản, công nghiệp, xây dựng cơ bản, thương mại, giao thông vận tải, giáo
dục, y tế, văn hóa… Đây là những số liệu do các cơ quan Nhà nước thống kê chính xác,
toàn diện và có hệ thống về tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa huyện Bình Minh từ năm
1975 đến năm 2005 rất quý báo để phục vụ cho đề tài.
Như vậy, tất cả các công trình nêu trên mới đề cập những vấn đề chung mang tính lý
luận và thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, hoặc chỉ dừng lại ở những ở những báo
cáo, thống kê về kinh tế- xã hội huyện Bình Minh trong thời kỳ đổi mới. Cho đến nay, chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, trình bày có hệ thống riêng về vấn đề kinh
tế- xã hội huyện Bình Minh từ năm 1986 đến năm 2005.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
3.1 Đối tượng
Đề tài luận văn tập trung tìm hiểu và làm rõ tình hình kinh tế- xã hội huyện Bình
Minh trong thời kỳ đổi mới từ 1986- 2005.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: giới hạn trên địa bàn huyện Bình Minh.
Về thời gian: đề tài chủ yếu tìm hiểu kinh tế- xã hội huyện Bình Minh giai đoạn từ
1986 đến 2005.
Sở dĩ chúng tôi lấy năm 1986 làm mốc mở đầu cho công trình nghiên cứu vì đây là
năm diễn ra Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986), được ghi nhận như một trong những mốc
son lịch sử, đánh dấu sự chuyển hướng có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành mô hình
kinh tế vĩ mô phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước và quy luật khách quan. Với
đường lối đổi mới đúng đắn đã tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế- xã hội đất
nước nói chung và huyện Bình Minh nói riêng.
Năm 2005 là mốc kết thúc của công trình nghiên cứu vì đây là năm tổng kết những
thành tựu, hạn chế và rút ra bài học kinh nghiệm qua gần 20 năm đổi mới, phát triển của


huyện Bình Minh. Và đây cũng là năm nhìn nhận lại những gì đạt được và chưa đạt được để

đưa ra định hướng, kế hoạch phát triển cho tương lai.
3.3 Nhiệm vụ của đề tài
Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu quá trình xây dựng phát triển kinh tế- xã hội
huyện Bình Minh từ 1986 đến 2005. Trên cơ sở đó dựng lại bức tranh kinh tế- xã hội huyện
Bình Minh trong gần 20 năm đổi mới (1986-2005).
Từ thực tiễn sinh động của quá trình phát triển cũng như những thành tựu kinh tế- xã
hội huyện Bình Minh đạt được, đề tài rút ra những bài học kinh nghiệm của quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế- xã hội huyện Bình Minh.
Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị cho huyện Bình Minh tỉnh Vĩnh Long trong quá
trình xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội hiện nay.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Nguồn tư liệu
Để nghiên cứu, giải quyết nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi dựa vào các nguồn tư liệu
sau:
Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin bàn về kinh tế- xã hội, các văn
kiện, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước, của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn
thể huyện Bình Minh về vấn đề phát triển kinh tế- xã hội trong thời kỳ đổi mới.
Những công trình nghiên cứu về kinh tế- xã hội các vùng nông thôn Vĩnh Long, các
niên giám thống kê lưu trữ tại Cục thống kê tỉnh Vĩnh Long, Cục thống kê huyện Bình
Minh.
Nguồn tư liệu gốc viết về huyện Bình Minh như: Các báo cáo chính trị tại những lần
Đại hội Đảng bộ tỉnh từ 1975 đến 2005, Báo cáo tổng kết và phương hướng nhiệm vụ kế
hoạch 5 năm, Báo cáo tổng kết và phương hướng hàng năm của Ủy ban nhân dân tỉnh, Số
liệu thống kê lưu giữ ở các Sở, Ban, Ngành huyện Bình Minh.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng tư liệu điền dã thông qua những lần thực tế tại một số
di tích lịch sử, đơn vị kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện Bình Minh, các tư liệu trên báo chí,
mạng Internet… để làm phong phú và sáng tỏ nội dung của đề tài.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.



Phương pháp nghiên cứu, trong quá trình thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu
chính là phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Phương pháp tiếp cận hệ thống: là coi quá trình phát triển kinh tế- xã hội huyện Bình
Minh từ năm 1986- 2005 như là một bộ phận không thể tách rời đối với kinh tế trong nước
và thế giới, cụ thể xem xét kinh tế- xã hội huyện Bình Minh trong bối cảnh nền kinh tế thế
giới và trong nước với những mối liên hệ, tác động qua lại giữa các yếu tố, của các lĩnh vực
khác nhau của đời sống kinh tế- chính trị- xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể.
Phương pháp lịch sử thể hiện ở chỗ đặt bản thân vấn đề kinh tế- xã hội huyện Bình
Minh trong bối cảnh lịch sử cụ thể của giai đoạn 1986- 2005. Bất cứ việc nhìn nhận hoặc
đánh giá một vấn đề nào trong đề tài cũng không thể không căn cứ vào bối cảnh lịch sử cụ
thể và đặc điểm riêng của điều kiện tự nhiên- xã hội và con người Bình Minh. Đồng thời,
phương pháp lịch sử còn thể hiện ở chỗ diễn biến của quá trình phát triển kinh tế- xã hội
huyện Bình Minh được trình bày theo trình tự thời gian.
Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic không thể tách rời nhau. Nghiên cứu quá
trình phát triển kinh tế- xã hội Bình Minh không phải chỉ là dựng lại bức tranh toàn cảnh
quá trình phát triển kinh tế- xã hội mà còn phải tìm cho ra bản chất, quy luật của tiến trình
phát triển kinh tế- xã hội, rút ra được nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và định hướng phát
triển trong tương lai. Phương pháp lôgic chính là công cụ đóng vai trò làm những nhiệm vụ
trên.
Sự phối hợp giữa hai phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic đều dựa trên nền
tảng của phương pháp duy vật biện chứng. Quá trình phát triển kinh tế- xã hội luôn luôn vận
động và phát triển, nhưng sự vận động và phát triển đó không diễn ra một cách ngẫu nhiên
mà theo quy luật. Kinh tế- xã hội huyện Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long) từ năm 1986 đến năm
2005 cũng không phải là ngoại lệ.
Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp so sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê, điền dã…
5. Đóng góp của luận văn
Dựng lại bức tranh toàn cảnh về sự chuyển biến kinh tế- xã hội huyện Bình Minh

trong gần 20 năm đổi mới (1986- 2005). Nêu những thành tựu, đặc điểm, bài học kinh
nghiệm trong xây dựng, phát triển kinh tế- xã hội huyện Bình Minh thời kỳ đổi mới 19862005, có ý nghĩa mở đường cho giai đoạn phát triển về sau.


Đề xuất một số giải pháp cho huyện Bình Minh trong công cuộc xây dựng, phát triển
kinh tế- xã hội giai đoạn hiện nay.
Có thể dùng luận văn làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy lịch sử địa phương
trong các nhà trường phổ thông ở huyện Bình Minh nhằm giáo dục lòng yêu nước, lòng tự
hào về những truyền thống tốt đẹp của địa phương, giáo dục lòng yêu quê hương, xứ sở, ý
thức bảo vệ những truyền thống tốt đẹp, những giá trị văn hóa của quê hương.
Luận văn có thể dùng để làm phong phú thêm nguồn tài liệu tuyên truyền trong quần
chúng, động viên nhân dân thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và của
huyện nhà.
Qua việc rút ra những bài học, những nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế,
luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chiến lược phát triển
kinh tế- xã hội của huyện nhà trong những giai đoạn cách mạng tiếp theo.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn
được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về vùng đất, con người, tình hình kinh tế- xã hội huyện Bình
Minh trước năm 1986.
Chương 2: Kinh tế- xã hội huyện Bình Minh từ năm 1986 đến năm 1995
Chương 3: Kinh tế- xã hội huyện Bình Minh từ năm 1996 đến năm 2005.


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT, CON NGƯỜI, TÌNH HÌNH KINH TẾ- XÃ HỘI
HUYỆN BÌNH MINH TRƯỚC NĂM 1986

1.1 Khái quát về vùng đất, con người huyện Bình Minh

1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý: Huyện Bình Minh là một đơn vị hành chánh của tỉnh Vĩnh Long, một
vùng đất trù phú, khí hậu ôn hòa, nằm dọc bên bờ bắc sông Hậu có hình thể dài, bầu vuông.
Huyện lỵ đặt tại thị trấn Cái Vồn, cách thị xã Vĩnh Long (tỉnh lỵ Vĩnh Long) 30 ki-lômét về phía Tây Nam và cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 165 ki-lô-mét. Nằm phía
nam bên bờ kia sông Hậu là trung tâm thành phố Cần Thơ, cách huyện lỵ 3 ki-lô-mét. Dòng
sông Hậu nằm dọc theo chiều dài của huyện vừa là ranh giới giáp thành phố Cần Thơ. Quốc
lộ 1A xuyên qua huyện từ km 2058 đến km 2066 dẫn qua bến phà Cần Thơ với chiều dài 8
ki-lô-mét, và Quốc lộ 54 (trong kháng chiến chống Mỹ gọi là Tỉnh lộ 37), có chiều dài 36 kilô-mét từ Lai Vung (Đồng Tháp) đến Ngãi Tứ (Tam Bình).
Nằm ở vị trí Tây- Nam của tỉnh Vĩnh Long; Huyện Bình Minh phía bắc giáp huyện
Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp; phía nam giáp sông Hậu; phía đông giáp huyện Tam Bình, và
phía tây giáp huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
Bình Minh có địa hình bằng phẳng, nhiều sông, kinh, rạch đan xen nhau, nước ngọt
quanh năm, đất đai màu mỡ thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp.
Đến năm 1957, theo Nghị định số 308/BNV/NC/NĐ (ngày 8-10-1957) của Bộ trưởng
Nội vụ (chế độ Việt Nam Cộng hòa) quận Bình Minh được thành lập, quận lỵ đặt tại Mỹ
Thuận gồm có ba tổng:
. Tổng An Trường gồm các xã: Mỹ Thuận, Đông Thành, thêm xã Phù Ly (cũ)
và Mỹ Hòa.
. Tổng An Ninh gồm các xã: Thành Lợi, Tân Quới, Tân Lược, Phong Hòa.
. Tổng An Khương gồm các xã: Vĩnh Thới, Tân Hòa Bình (Tân Hòa cũ).
Năm 1969 huyện Bình Minh chỉ còn hai tổng 7 xã, quận lỵ đặt tại Mỹ Thuận (thị trấn
Cái Vồn ngày nay). Để phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong công tác lãnh đạo phong trào
cách mạng, năm 1973 sau khi tái lập phân ban Sa Đéc, các xã Tân Hòa Bình, Vĩnh Thới,
Phong Hòa thuộc huyện Bình Minh được chuyển giao về cho huyện Lai Vung (Sa Đéc).


Sau khi hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long. Ngày 11 tháng
03 năm 1977, Chính phủ ký Quyết định số 59/CP sáp nhập hai huyện Tam Bình và Bình
Minh thành huyện Tam Bình (nhưng trên thực tế hai huyện này không sáp nhập). Ngày 11
tháng 03 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ký Quyết định số 98/HĐBT tái lập lại huyện Bình

Minh gồm các xã: Thành Lợi, Mỹ Hòa, Mỹ Thuận, Tân Quới, Tân Lược, Đông Thành và thị
trấn Cái Vồn. Trụ sở huyện lỵ đặt tại Cái Vồn.
Ngày 9 tháng 08 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 85/CP thành lập các
xã Đông Bình, Đông Thạnh (từ xã Đông Thành); Thành Đông, Thành Trung (từ xã Thành
Lợi); Tân Bình, Tân Thành (từ xã Tân Quới) và xã Tân An Thạnh, Tân Hưng (từ xã Tân
Lược).
Hiện nay huyện Bình Minh gồm có 16 xã: Đông Thành, Đông Bình, Đông Thạnh,
Thành Lợi, Thành Đông, Thành Trung, Tân Quới, Tân Thành, Tân Bình, Tân Lược, Tân
Hưng, Tân An Thạnh, Mỹ Hòa, Mỹ Thuận, Thuận An, Nguyễn Văn Thảnh và thị trấn Cái
Vồn.
Huyện Bình Minh có 16 xã và một thị trấn, diện tích tự nhiên là 243,1km2, chiếm
16,3% diện tích toàn tỉnh. Huyện Bình Minh nằm cạnh thành phố Cần Thơ một trung tâm
kinh tế quan trọng của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tại đây có trường đại học Cần Thơ
và Viện Đồng bằng sông Cửu Long. Điều đó rất thuận tiện cho việc ứng dụng các giống mới
và kỹ thuật mới trong nông nghiệp. Huyện Bình Minh nằm cách thành phố Hồ Chí Minhmột trung tâm kinh tế lớn của cả nước có 130 km.
Với lợi thế nằm gần hai trung tâm kinh tế lớn là thành phố Hồ Chí Minh và thành phố
Cần Thơ, huyện Bình Minh có rất nhiều điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiếp
nhận sự hỗ trợ về đầu tư, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, song trong điều kiện cạnh tranh
cũng thách thức huyện phải vươn lên để thu hút vốn đầu tư, thu hút chất xám và chiếm lĩnh
thị trường.
Địa hình: Phần diện tích của Huyện nằm ở phía Bắc quốc lộ 1A, vùng thấp trũng nhất
tỉnh. Vùng có cao trình 0,5- 0,7m gồm các xã Tân Hưng, Tân Thành, Thành Trung, Nguyễn
Văn Thảnh.
Vùng có cao trình 0,7-1m gồm các xã Đông Thạnh, Thuận An, Mỹ Thuận, Thành
Đông.
Vùng có cao trình 1- 1,25m gồm các xã Mỹ Hòa, Đông Thành, Đông Bình, Thị trấn
Cái Vồn, Thành Lợi, Tân Quới, Tân Bình, Tân Lược.


Nhìn chung địa hình của Huyện khá bằng phẳng, cao từ phía Tây và thấp dần về phía

Đông. Địa hình như trên là rất thuận lợi cho việc lợi dụng thủy triều để tưới tiêu hoặc tự chảy
kết hợp hỗ trợ bằng động lực đảm bảo cho sản xuất các vụ lúa quanh năm.
Khí hậu thời tiết: khí hậu của huyện Bình Minh có đặc điểm là nhiệt đới gió mùa.
Nhiệt độ trung bình 26- 270C, bình quân khoảng 2.600 giờ nắng/năm, độ ẩm bình quân 8083%. Cả năm có hai mùa rõ rệt: Mùa khô từ tháng 5 đến giữa tháng 11, hướng gió Tây- Tây
Nam từ biển thổi vào; mùa khô từ cuối tháng 11 đến tháng 5, hướng gió Đông Bắc và Đông
Nam từ lục địa thổi qua gây khô và lạnh. Huyện Bình Minh là nơi có nhiều ưu đãi về điều
kiện khí hậu thời tiết, rất thuận lợi cho sự phát triển của vật nuôi và cây trồng, là điều kiện để
phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đa canh, tăng vụ.
Chế độ thủy văn và nguồn nước: Huyện Bình Minh nằm cạnh sông Hậu, sông rạch
chằng chịt, chiếm trên 10% diện tích chung với mật độ 760m/km2. Chế độ thủy triều trên các
sông, rạch theo tính chất bán nhật triều không đều. Trong năm có hai mùa rõ rệt: Mùa cạn từ
tháng 12 đến tháng 6, phụ thuộc vào chế độ mực nước của triều biển Đông; Mùa lũ từ tháng
7 đến tháng 11, phụ thuộc phần lớn vào mực nước sông Cửu Long và một phần ảnh hưởng
của thủy triều biển Đông.
Như vậy, mùa lũ thường trùng vào các tháng mưa nên hàng năm thường xảy ra lũ lụt.
Phần lớn diện tích của Huyện nằm ở phần thấp trũng của tỉnh (bắc quốc lộ 1) nên thường
chịu ảnh hưởng của lũ cuối tháng 9, đầu tháng 10. Theo phân vùng lũ của định hướng qui
hoạch lũ đồng bằng sông Cửu Long tỉnh Vĩnh Long nằm trong vùng ngập nông của đồng
bằng. Mức nước lũ đo được ở các trạm Cần Thơ và Mỹ Thuận trong các trận lũ lớn dao động
từ 2- 2,15m. Vì vậy, hàng năm thiệt hại do lũ gây ra trên diện tích lúa Thu Đông và cây ăn
trái là rất lớn.
Vào mùa khô với chế độ bán nhật triều không đều, Huyện có thể lợi dụng để tưới tiêu
tự chảy. Cũng như cả tỉnh Vĩnh Long, huyện Bình Minh sử dụng nguồn nước từ sông Mê
Kông qua các nhánh sông Tiền, sông Hậu nên nguồn nước khá dồi dào, chất lượng tốt, đủ
cân đối quanh năm cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt. Nước ngầm của Huyện thường xuất
hiện ở độ sâu 200- 300m, ở khu vực Thị Trấn thì ở độ sâu 80- 120m. Nước có hàm lượng sắt
và độ nhiểm mặn khá cao. Vì vậy, trong chương trình cung cấp nước sạch cho nông thôn chủ
yếu là khai thác nước mặt.
Để tận dụng các lợi thế tự nhiên nhằm phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới ổn
định và bền vững, công tác thủy lợi trên địa bàn Huyện cần tập trung vào việc kiểm soát lũ,



cải tạo các kênh trực cấp 1 và cấp 2, phát triển thủy lợi nội đồng với hệ thống kênh rạch mật
độ cao, xây dựng bờ bao, cống, bọng để cải thiện điều kiện tưới tiêu.
Đất đai và khoáng sản: Huyện Bình Minh có hai nhóm đất chính là đất phèn và đất
phù sa. Đất phèn có diện tích lớn nhất, chiếm 65% diện tích đất tự nhiên và 74,5% đất nông
nghiệp, phân bố chủ yếu ở các vùng thấp, trũng ở các xã như: Nguyễn Văn Thảnh, Mỹ
Thuận, Thành Trung, Tân Thành, Tân Hưng, Đông Thạnh, Thuận An. Đặc điểm của đất
phèn ở đây là tầng sinh phèn ở rất sâu, đất đã được canh tác khá thuần thục nên hầu như
không có độc tố cho cây trồng. Trên vùng đất phèn có thể bố trí 2- 3 vụ lúa hoặc 1 màu 2 lúa
trong năm cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Đất phù sa chiếm 22,5% đất tự nhiên và
25,5% đất nông nghiệp, phân bố tập trung ở các xã vùng cao, ven tuyến sông Hậu như: Tân
An Thạnh, Tân Quới, Tân Bình, Thành Lợi và Thị trấn Cái Vồn. Đây là loại đất phì nhiêu đã
được sử dụng để đa dạng hóa cây trồng: với địa hình cao trồng cây ăn trái, địa hình trung
bình thì sản xuất lúa luân canh với cây màu.
Theo số liệu thống kê của Huyện thì đến năm 2004, Huyện không còn đất hoang hóa,
diện tích đất nông nghiệp hiện còn 19.418 ha (chiếm 79,89% diện tích đất tự nhiên của
Huyện). Trong đó: đất trồng cây hàng năm là 13.857 ha, đất trồng cây lâu năm là 5.446 ha và
đất nuôi trồng thủy sản là 115 ha. Bình quân đất nông nghiệp đầu người là 1.094m2.
Về khoáng sản: ngoài nguồn cát và đát sét làm vật liệu xây dựng, những năm thăm dò
đến nay Huyện không có một khoáng sản nào đặc biệt.
1.1.2 Đặc điểm kinh tế- xã hội
Bình Minh dựa vào nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu với các ngành nghề chính như:
chăn nuôi, trồng lúa, hoa màu, cây ăn trái và cây công nghiệp ngắn ngày, đánh bắt và nuôi
trồng thủy sản…
Về trồng lúa, từ những năm 1960 chỉ làm một vụ, năng suất mỗi năm bình quân từ 2
đến 2,5 tấn trên một héc-ta. Qua quá trình ứng dụng khoa học kỹ thuật, số vụ và năng suất
tăng dần lên. Hiện nay trồng lúa phổ biến từ 2 đến 3 vụ, năng suất 5 đến 5,5 tấn trên một
héc-ta. Trước năm 1945 đất đai Bình Minh phần lớn tập trung trong tay địa chủ, phần đông
nông dân không có ruộng phải đi làm thuê kiếm sống.

Vốn là một vùng bằng phẳng phì nhiêu, được thiên nhiên ưu đãi về khí hậu, nông
nghiệp vẫn là nguồn thu nhập chính của nhân dân. Ngoài hai vụ lúa và nuôi trồng, người
nông dân còn có các vụ hoa màu như: bắp (ngô), trồng khoai lang, rau cải, xà lách xoong…


Bình Minh là nguồn cung cấp với số lượng lớn cho các tỉnh thành phố Cần Thơ, Vĩnh Long,
thành phố Hồ Chí Minh…
Cùng với sản xuất cây màu, người nông dân Bình Minh còn có một số ngành nghề chế
biến thực phẩm và thủ công đáp ứng nhu cầu sinh hoạt trong huyện và cạnh tranh với khu
vực: các loại nước tương, chao, đậu hủ (Đông Bình), nước mắm (Thành Lợi), làm nhang,
bánh tráng (thị trấn), xóm lu, tào hủ ki, ươm bầu cải xanh và làm dưa cải bốn mùa. Kinh tế
vườn là thế mạnh của Bình Minh, ngoài xoài, mận, nhãn, cùng những trái cây quí hiếm khác,
bưởi Năm Roi là đặc sản có từ đầu thế kỷ XX.
Năm Roi vỏ mỏng, ruột to
Mùi thơm dịu ngọt, ăn no còn thèm.
Dân cư trong huyện phần lớn là thờ cúng tổ tiên, ông bà và một phần theo các tôn
giáo: Phật Giáo, Hòa Hảo, Thiên Chúa, Cao Đài, số ít còn lại theo đạo Tin Lành. Số tín đồ
theo đạo đông nhất vẫn là Phật giáo, kế đó là Phật giáo Hòa Hảo. Phật giáo là đạo được
truyền bá rất sớm vào Việt Nam đã theo cư dân từ những ngày mới hình thành cộng động
dân cư trong huyện.
Sinh hoạt tôn giáo là một nhu cầu thực sự về văn hóa tinh thần của một bộ phận nhân
dân. Tuy vậy trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ tôn giáo ở Bình Minh vẫn là yếu
tố mà kẻ địch lợi dụng để chống phá cách mạng, kích động tín đồ và giáo dân xa rời kháng
chiến gây khó khăn cho quá trình vận động và phát triển lực lượng cách mạng. Tuy nhiên
mọi âm mưu của địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng đều bị thất bại. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các tín đồ (Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo), các giáo dân (Công Giáo, Tin
Lành) người Kinh, Hoa hay Khơ-me đoàn kết một lòng theo Đảng cùng toàn dân tích cực
tham gia thực hiện thắng lợi hai cuộc kháng chiến, giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do
cho Tổ quốc.
Các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, đình làng nhiều nơi trở thành nơi nuôi chứa cán

bộ, đảng viên hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng. Ngoài sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo,
sinh hoạt văn hóa truyền thống là món ăn tinh thần lâu đời của nhân dân Bình Minh. Vào
những đêm trăng sáng, những đôi trai gái trong làng chèo xuồng ra sông ngân nga những
điệu hò, hò huê tình, đối đáp hoặc ngâm thơ Lục Vân Tiên, dân trong vùng đều có thể biết
một hay vài đoạn, hoặc có một số ít thuộc toàn bộ tập thơ…
1.1.3 Truyền thống lao động sản xuất và đấu tranh bất khuất của nhân dân
huyện Bình Minh qua các thời kỳ lịch sử


Trước thế kỷ XVIII, Bình Minh là một vùng đầm lầy hoang vu, cây cối rậm rạp, nhiều
thú dữ. Trên bờ có cọp beo, heo rừng, dưới sông có cá Sấu, cá Nược lội thành bầy, ít người
sinh sống.
Sang thế kỷ XIX, dân cư tăng dần lên bởi nơi đây có địa hình bằng phẳng, phì nhiêu
được bồi đắp phù sa của sông Hậu Giang, thông thương qua các nhánh sông nhỏ như Mỹ
Thuận,Trà Mơn, Chà Và lớn… thuận lợi cho việc trao đổi hàng nông phẩm.
Từ mọi miền đất nước, lớp lớp người dân với nhiều lý do khác nhau đã
tụ tập về vùng đất màu mỡ này khai hoang khẩn đất, lập nghiệp để tạo cho vùng đất đầm lầy
hoang vu xưa kia thành một Bình Minh trù phú như ngày nay. “Đất lành chim đậu”, dân số
tăng lên nhanh chóng bao gồm những dân tộc anh em trong cộng đồng người Kinh, Hoa,
Khơ-me chen cùng nhau căng lều, dựng trại đoàn kết, tương trợ, đùm bọc yêu thương nhau
đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, với kẻ thù. Trân trọng và giữ gìn những gì đã có, nên
mỗi dân tộc có một bản sắc văn hóa riêng.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta nói chung và Bình Minh nói riêng,
các phong trào chống giặc sôi sục rộng khắp. Cùng với nhân dân đồng bằng sông Cửu Long,
ở Bình Minh hình thành nhiều phong trào với nhiều màu sắc chính trị khác nhau, nổi bật là
phong trào hưởng ứng cuộc chiến đấu chống Pháp của Trương Công Định. Ở Ngãi Tứ, Bình
Ninh (Tam Bình ngày nay) có căn cứ địa của thủ lĩnh nghĩa quân này. Tiếp theo đó là phong
trào “Thiên địa hội” với lãnh tụ Phan Xích Long ở Cần Thơ đã trực tiếp tác động ảnh hưởng
đến nhân dân các xã Mỹ Thuận, Mỹ Hòa. Một tổ chức theo lối tụ nghĩa nhằm “bảo vệ lẫn
nhau về chống sưu cao thuế nặng”. Ở các xã Phù Ly, Đông Thành, Mỹ Hòa, Thành Lợi, Tân

Quới có phong trào chống Pháp do Sung Biện Chì lãnh đạo ảnh hưởng rất lớn trong nhân
dân huyện. Thực dân Pháp và tay sai ra sức khủng bố quần chúng, lùng bắt cho được Sùng
Biện Chì bằng cả những thủ đoạn đe hèn hòng tiêu diệt phong trào kháng Pháp của nhân dân
ta.
Phong trào cách mạng không ngừng phát triển. Năm 1936, chi bộ Đảng xã Mỹ Hòa
cũng ra đời. Trong phong trào cách mạng của Bình Minh đã tỏa sáng tấm gương của những
người chiến sĩ cộng sản tiên phong như Nguyễn Văn Nhung, Hà Huy Giáp, Nguyễn Ngươn
Hanh, Nguyễn Thị Lựu... là những hạt giống đỏ đến xây dựng cơ sở đầu tiên của Đảng bộ
Bình Minh. Sự ra đời của chi bộ Đảng đánh dấu phong trào cách mạng ở Bình Minh thật sự
chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn đấu tranh chống đế quốc và phong kiến giải phóng giai
cấp, giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ khi có Đảng lãnh đạo, nhân dân Bình Minh phát huy lòng yêu nước nồng nàn,
truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, từng bước phát triển phong trào, giành thắng
lợi trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám năm 1945, cùng cả nước lật đổ bộ máy
thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật giành chính quyền về tay nhân dân.
Cách mạng tháng Tám thành công đã đem lại cho nhân dân Bình Minh một bước
ngoặt lịch sử. Từ thân phận nô lệ, bị áp bức bóc lột nặng nề của đế quốc, phong kiến trở
thành người làm chủ đất nước, quê hương, làm chủ ruộng, vườn, làm chủ xã hội, làm chủ
bản thân mình.
Sáng ngày 29 tháng 10 năm 1945, Pháp đổ bộ đánh chiếm thị xã Vĩnh Long và các
huyện trong tỉnh. Nhân dân Bình Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhất tề đứng lên chống
Pháp, phát huy truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ hy sinh để giành thắng lợi. Chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp thành công
(1945-1954) đã khắc sâu thêm mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân, dân với
Đảng. Và trong những chặng đường kháng chiến chống đế quốc Mỹ đầy cam go, thử thách
những giá trị truyền thống cách mạng quí báo của Đảng bộ và nhân dân Bình Minh được
nhân lên gấp bội.
Là địa bàn vành đai bảo vệ cơ quan đầu não Vùng 4 chiến thuật của Mỹ-Ngụy ở Cần

Thơ. Bình Minh có vị trí chiến lược đặc biệt đối với cả ta và địch, nơi đây đã trở thành
“quyết chiến điểm” bình định của địch, chống bình định của ta. Chiến trường diễn ra ngày
càng ác liệt nhưng cán bộ và nhân dân Bình Minh vẫn kiên cường bám trụ chiến đấu và
chiến thắng vẻ vang.
Suốt chặng đường 30 năm kháng chiến đầy gian khổ hy sinh, Đảng bộ, quân dân
huyện Bình Minh quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện và phương
pháp cách mạng của Đảng. Từ đấu tranh chính trị tiến lên khởi nghĩa, từ khởi nghĩa tiến lên
tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công bằng 2 chân (chính trị, vũ trang) 3 mũi giáp công
(chính trị, quân sự, binh vận); tiêu hao, tiêu diệt địch để giành quyền làm chủ, giành quyền
làm chủ để tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, giành thắng lợi từng bước, giành thắng lợi từng
phần, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mà đỉnh
cao là chiến thắng ngày 30 tháng 4 năm 1975 giải phóng quê hương Bình Minh, góp phần
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Từ những thành tích đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập của dân tộc, nhất
là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, huyện Bình Minh vinh dự được Nhà nước


cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân. Năm tháng sẽ trôi qua nhưng những chiến công anh hùng và tên tuổi của những
người có công với nước của huyện Bình Minh được ghi nhận vào sử sách và sống mãi với
muôn đời con cháu mai sau.
Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ, ác liệt, hy sinh nhưng cũng hết sức
tự hào, vinh quang. Đảng bộ, quân dân huyện Bình Minh cùng nhân dân cả nước bước sang
trang sử mới. Từ sau đại thắng mùa xuân 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, nhân dân huyện Bình Minh tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, vượt qua khó
khăn, thử thách, tập trung sức vào công cuộc tái thiết quê hương, từng bước ổn định cuộc
sống nhân dân lao động, cùng cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2 Tình hình kinh tế- xã hội huyện Bình Minh từ sau ngày giải phóng đến trước đổi
mới (1975-1985)

Sau ngày miền Nam giải phóng, cả nước thống nhất, đi lên xây dựng chủ nghĩa chủ
nghĩa xã hội. Được nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV soi sáng, phát huy điều
kiện thuận lợi của địa phương, Đảng bộ huyện Bình Minh đã đề ra chủ trương phù hợp, kịp
thời, đáp ứng tình hình, nhiệm vụ mới của cách mạng. Bình Minh có địa giới hành chánh tiếp
cận thành phố Cần Thơ, bến phà Hậu Giang, quốc lộ 1 xuyên ngang huyện tạo điều kiện giao
lưu kinh tế- văn hóa với các tỉnh. Diện tích đất nông nghiệp của huyện khá rộng, thiên nhiên
ưu đãi, lực lượng lao động dồi dào, là điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh phát triển sản xuất.
Đại bộ phận nhân dân nơi đây giàu lòng yêu nước, khi hết chiến tranh họ vô cùng phấn khởi,
tin Đảng, tin cách mạng. Cán bộ, đảng viên của huyện phần lớn được thử thách, tôi luyện
qua hai cuộc chiến tranh gian khổ, ác liệt nay giành được thắng lợi, mặc dù bắt tay vào
nhiệm vụ mới mẻ, phức tạp nhưng rất vững vàng, quyết tâm cao.
Bên cạnh những thuận lợi trên thì tình hình xã hội ở huyện Bình Minh sau năm 1975
cũng diễn biến hết sức phức tạp: Do huyện Bình Minh là một địa bàn trọng yếu, nên trong
thời kỳ 1954- 1975 quân đội, chính quyền địch đã xây dựng hệ thống an ninh, tình báo làm
vành đai bảo vệ vùng 4 chiến thuật. Một số binh lính và sĩ quan chính quyền cũ trốn cải tạo,
những phần tử bất mãn với chính quyền cách mạng tìm cách…nhen nhóm, tập hợp, hình
thành nhiều tổ chức và đã có những hoạt động nguy hiểm chống phá cách mạng.

Mặc



trong điều kiện khó khăn, vừa phải ổn định an ninh địa phương, khắc phục những hậu quả


sau chiến tranh, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, tình hình kinh tế
xã hội của huyện Bình Minh trong những năm 1975- 1985 có bước phát triển đáng kể.
1.2.1 Tình hình kinh tế
* Giai đoạn 1975-1980:
Cũng giống như các địa phương khác của tỉnh Vĩnh Long, sau ngày được giải phóng,

huyện Bình Minh phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề do cuộc chiến tranh khốc
liệt kéo dài để lại. Để khắc phục hậu quả chiến tranh, nhanh chống ổn định và phát triển sản
xuất, dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và V, các Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Bình Minh đã huy
động mọi nổ lực để phục hồi và đẩy mạnh sản xuất, thu được những kết quả đáng kể. Tổng
sản phẩm (GDP) của huyện năm 1976 là 13,344 tỷ, năm 1980 là 16,789 tỷ, tăng bình quân
hàng năm là 5,16%. GDP bình quân/người dân, năm 1976 là 111.000đ/người, năm 1980 là
127.000đ/ người (tăng 14,4% so năm 1976), bình quân tăng 2,8%/người/năm [29, tr.3].
Sản xuất nông nghiệp: Ban chấp hành Đảng bộ huyện đã xác định sản xuất nông
nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm, phát triển toàn diện, chú trọng sản xuất lương thực, thực
phẩm. Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn này phát
triển tương đối toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp
(1980) tăng 18,9% so với năm (1976), bình quân tăng 3,8%/năm.Trong đó: cây lúa nhờ phát
triển vụ lúa hè thu diên tích tăng 7,3% (bình quân tăng 1,4%/năm), năng suất tăng chậm
1,2% (bình quân 0,2%/năm), sản lượng tăng 8,7% (bình quân 1,7%/năm); Cây màu lương
thực, phát triển rất mạnh, diện tích tăng 4 lần (bình quân tăng 70%/năm), sản lượng tăng 5
lần (bình quân tăng 92%/năm); Cây công nghiệp ngắn ngày, đậu nành phát triển mạnh, năm
1976 mới có 3,5 ha đến năm 1980 đạt 164 ha, nhưng cây mía giảm từ 27 ha xuống còn 9 ha.
Bên cạnh tập trung ổn định và phát triển các ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi của
huyện cũng có bước chuyển biến tích cực. Giá trị sản lượng tăng 10,5%, bình quân tăng
2%/năm. Trong đó tổng đàn trâu tăng 76%, bò 31%, đàn gà 26%, riêng đàn heo tăng chậm
1,6%. Trong chăn nuôi, đáng chú ý là đàn trâu bò (trâu bò cày kéo) hàng năm đều đạt và
vượt kế hoạch, nhờ công tác quản lý, chăm sóc, bảo vệ theo cơ chế tập đoàn nên nhìn chung
phát triển, phục vụ tích cực cho sản xuất nông nghiệp [29, tr.4].
Công tác thủy lợi luôn được xem là biện pháp hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp.
Vì thế huyện đã huy động gần 36.000 lượt lao động, đào đắp 324.600m3 đất, phục vụ tưới
tiêu cho 1.620 ha lúa, màu và các công trình gắn liền giao thông- thủy lợi [29, tr.4].


Quá trình sản xuất nông nghiệp cũng là quá trình gắn với đẩy mạnh cải tạo quan hệ

sản xuất nông nghiệp: tháng 6/1977, thực hiện chỉ thị 43 của Bộ chính, Nghị quyết 06, 07
Tỉnh ủy, đến cuối năm 1980 Huyện tổ chức được khoảng 200 tập đoàn, nhưng đại bộ phận
tập đoàn còn là hình thức, chỉ có 48 tập đoàn có bình công, chấm điểm nhưng chất lượng
chưa tốt[29, tr.4].
Thực hiện chỉ thị 57, quyết định 188 của Trung ương, Huyện đã chỉ đạo đạt kết quả
đợt vận động chia cơm xẻ áo, cắt đuôi địa chủ thu tô, đem ruộng đất trang trải cho nông dân
không đất, thiếu đất.
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Khó khăn lớn nhất của huyện sau ngày giải
phóng là nền công nghiệp hầu như không có gì. Các ngành nghề thuộc tiểu thủ công nghiệp
và thủ công nghiệp sản xuất từ nguồn nguyên liệu địa phương thì chỉ có một số cơ sở sản
xuất gạch ngói, cơ sở xay xát lúa gạo và một số cơ sở sửa chữa cơ khí nhỏ. Trước thực trạng
trên, lãnh đạo huyện đã đề ra chủ trương vừa khôi phục, vừa xây dựng ngành công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp của huyện nhằm phát triển sản xuất, tăng nhanh khối lượng hàng hóa
cho tiêu dùng. Thời kỳ này chỉ có cơ sở tư nhân hoạt động, đánh chung có phát triển. Năm
1976 có 107 cơ sở, 364 lao động. Năm 1980 có 132 cơ sở, 499 lao động, số cơ sở tăng 23%,
lao động tăng 10,6%, tăng bình quân hàng năm (cơ sở 4,6%, lao động trên 2%). Giá trị tổng
sản lượng (quy giá cố định 1989) năm 1976 đạt được 1,650 tỷ, năm 1980 đạt được 2,036 tỷ,
tăng 23,3% (tăng bình quân 4,6%/năm) [29, tr.5].
Bước sang năm 1977, Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long lần I vòng 2 đã đề ra chủ
trương phát triển kinh tế các năm 1977- 1978 và đến năm 1980, trong đó xác định rõ phải ra
sức khôi phục và phát triển sản xuất, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp đi đôi với phát triển
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp… Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh.
Thực hiện chủ trương trên, đồng thời với việc xác lập nền mống cho ngành công nghiệp,
huyện Bình Minh tiến hành thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư
doanh. Trong thương nghiệp, cải tạo được 85 hộ thương nghiệp TBTD (gồm 3 hộ tư sản, 28
hộ hạng trung và 54 hộ tiểu thương) [29,tr.4]. Cuối năm 1980 tổ chức đăng ký cho 2.000 hộ
sản xuất kinh doanh, trong thực hiện gắn liền cải tạo với xây dựng, toàn Huyện có 1 cửa
hàng tổng hợp Huyện, 1 hợp tác xã mua bán với nhiều quầy hàng, cửa hàng bán lẻ và hệ
thống HTX được tổ chức xuống tận xã- ấp, làm trung gian quản lý thu mua, phân phối hàng
hóa. Đối với tiểu thủ công nghiệp, tổ chức được một số cơ sở quốc doanh như: xà bông, cơ



khí, nước mắm… và nhiều cơ sở công tư hợp doanh khác ở các ngành cơ khí, may mặc, gia
công, đồ mộc, thức ăn gia súc…
Xây dựng cơ bản: Đảng bộ huyện Bình Minh xác định, đầu tư xây dựng cơ bản là
nhiệm vụ rất nặng nề, vừa khắc phục hậu quả chiến tranh tàn phá, vừa phát triển xây dựng cơ
sở vật chất xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng nhiều công trình kinh tế, văn hóa, phúc lợi công
cộng…Thực hiện chủ trương của huyện Đảng bộ, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản được
tập trung trên cả khu vực sản xuất vật chất và khu vực không sản xuất vật chất, trong đó, chủ
yếu tập trung vốn đầu tư khắc phục sự yếu kém của cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các công trình
thủy lợi giao thông nông thôn…năm 1976 nhân dân đóng góp 440 triệu, năm 1980 đầu tư
1,487 tỷ (Nhà nước 40%, dân 60%), tăng bình quân 47%/năm. Sau giải phóng, ta tiếp thu, sử
dụng nhà máy điện (chạy dầu Diezen) tại Huyện, công suất 400KW, trạm biến thế 185KW,
với đường dây trung thế 8,6 KV, dài 3,5 km. Tổng số 450 điện kế, với công suất của nhà
máy chỉ đủ phục vụ khu vực chợ Thị trấn[29, tr.5].
Ngân sách: Nhiệm vụ cơ bản của hoạt động tài chính trong giai đoạn này được huyện
xác định là làm chủ các nguồn vốn để đảm bảo thực hiện đường lối phát triển kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Thực hiện nhiệm vụ được giao, hoạt động tài chính từng bước vươn lên khai thác
nguồn thu trên địa bàn. Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 1976 là 214 triệu (chiếm 1,6%
trong GDP). Thu ngân sách năm 1980 là 305 triệu (chiếm 1,82% trong GDP). Tăng 42,5% so
năm 1976. Bình quân tăng 8,5%/năm [29, tr.5].
Trong vòng 5 năm, tổng huy động thuế và lúa thừa trong dân đạt 27.699 tấn lúa (trong
đó thuế nông nghiệp là 9.903 tấn, mua lúa thừa là 17.796 tấn). Trong những năm 1976 -1980
mua lúa thừa bằng tiền mặt và hợp đồng hai chiều. Nhà nước tạm ứng vật tư nông nghiệp
cho dân, đến vụ thu hoạch Nhà nước thu lại lúa. Riêng 2 năm 1978 -1979, do ảnh hưởng
nặng lũ lụt nên huy động đạt thấp so kế hoạch (năm 1978, thuế đạt 74%, mua đạt 46% kế
hoạch). Năm 1979 cả mua và thu thuế chỉ đạt 32% kế hoạch cả năm. Còn lại các năm khác,
tổng huy động đạt khá so kế hoạch [29, tr.6].
* Giai đoạn 1981 -1985
Kinh tế của huyện trong giai đoạn này tiếp tục phát triển và đạt được những thành tựu

to lớn. Tổng sản phẩm GDP trong huyện năm 1985 là 26,981 tỷ, tăng bình quân 12%/năm,
tốc độ tăng GDP bình quân của thời kỳ này tăng hơn 140% (hơn 2 lần) hai thời kỳ 19761980 [29, tr.17]. Mức sống của người dân ngày càng được nâng cao. GDP bình quân/người
dân: Năm 1985 là 184.000đ/người, tăng 44,8% so năm 1980. Tăng bình quân


8,9%/người/năm, tốc độ tăng bình quân của thời kỳ này tăng hơn gấp 3 lần so với thời kỳ
1976 -1980 [29, tr.17].
Trong nông nghiệp: Nền nông nghiệp của huyện tiếp tục phát triển khá và tương đối
ổn định. Năm 1984, giá trị tổng sản lượng ngành là 378,5 triệu đồng tăng 74,1% so với năm
1980 và bằng 2,4 lần năm 1976. Nhịp độ phát triển hàng năm thời kỳ 1976- 1980 là 8,5% đã
vọt lên 14,9% trong giai đoạn 1980- 1984. Cơ cấu ngành dù chưa cân đối (trồng trọt chiếm
85%, chăn nuôi đạt 15%), nhưng đang có hướng chuyển đổi tốt. Tỉ trọng giá trị chăn nuôi ở
năm 1980 là 12% đã vươn lên đạt 15% trong tổng sản lượng ngành [94, tr.8].
Trồng trọt: Giá trị sản phẩm trên 317 triệu đồng (năm 1984) bằng 166,8% năm 1980
và gấp đôi năm 1976. Sản xuất đã bắt đầu mang tính chất sản xuất hàng hóa với những cây
trồng chính là: lúa, khoai lang, đầu nành, đậu xanh, rau cải và dừa.
Năm 1984, toàn huyện có 20.617 ha đất nông nghiệp, chiếm 83,5% diện tích tự nhiên.
Trong đó, đất lúa là 16.680 ha, đất chuyên màu có 542 ha và 3.395 ha vườn cây lâu năm [94,
tr.8].
Trong đất lúa, diện tích trồng 2 vụ lúa lớn nhất có 8.528,5 ha, ít nhất là đất 2 lúa 1 màu
là 107,5 ha, còn lại đất 1 lúa 1 màu là 3.584 ha và đất 1 lúa là 4.460 ha. Sản lượng lúa đạt
được là 78.048 tấn nhiều hơn năm 1976 là 30.000 tấn. Năng suất lúa bình quân đã tăng lên
0,8 tấn/ha/vụ. Diện tích gieo trồng lúa 1984 là 24.650 ha nhiều hơn năm 1976 là 4.150 ha do
mở rộng thêm diện tích tăng vụ 1.368 ha và khai hoang phục hóa 2.782 ha [94, tr.8].
Sản lượng khoai lang từ 2.200 tấn ở năm 1976 đã tăng lên 43.000 tấn ở năm 1984.
Cũng trong thời gian đó đậu nành từ 3 tấn tăng lên 540 tấn, đậu xanh từ 14 tấn tăng lên 275
tấn, rau cải từ 630 tấn tăng lên trên 1.600 tấn [94, tr. 9].
Trên đất vườn, cây dừa phát triển mạnh, bình quân mỗi năm trồng trên 10.000 cây.
Năm 1984, toàn huyện có 149.751 cây dừa chiếm diện tích khoảng 600 ha, trong đó đã có
trái được 71.227 cây với sản lượng cơm dừa trên 400 tấn. Ngoài ra, trên 750 ha là vườn cây

ăn trái với 1 số cây trồng có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên đến nay Bình Minh vẫn còn 2.060
ha vườn tạp hiệu quả kinh tế kém [94, tr.9].
Nhìn chung, cơ cấu cây trồng luân canh lúa màu đang chiếm tỉ trọng 22% diện tích
ruộng, biến đổi thế xu hướng phá dần độc canh cây lúa, tăng tỉ trong cây màu, cây công
nghiệp. Từ năm 1976- 1984, cây công nghiệp ngắn ngày tăng lên 14 lần. Cơ cấu mùa vụ
cũng phát triển theo xu hướng thuận lợi. Diện tích đất 1 vụ lúa giảm từ 5.600 ha ở năm 1976
xuống còn 3.800 ha ở năm 1984. Ngược lại đất 2 vụ lúa tăng từ 7.308 ha lên đến 8.676 ha.


Đặc biệt nhất, diện tích luân canh lúa màu tăng vọt từ 240 ha lên 3.691 ha. Từ đó hệ số sử
dụng đất từ 1,5 lần ở năm 1976 đã lên đến 1,70% lần/năm vào năm 1984 [94, tr.9].
Chăn nuôi: Đến năm 1984, giá trị sản phẩm là 55,3 triệu đồng so với năm 1980 tăng
2,4 lần. Nhịp độ phát triển bình quân là 24,5%. Trong cơ cấu đàn gia súc- gia cầm, năm
1984, giá trị đàn heo chiếm tỉ trọng cao nhất là 51% (17.088 con) kế đến là vịt 201.992 con,
gà (giống địa phương) có 102.152 con. Trâu bò 3.190 con, có 2.278 con cày kéo, ít nhất là dê
có 385 con [94,tr.9].
Trong thời kỳ 1980- 1984, nhịp độ phát triển bình quân hàng năm đàn heo khá
(12,5%) nhưng cơ cấu chưa hợp lý, heo nái chỉ chiếm 2,2%. Bình quân đầu heo so với diện
tích gieo trồng còn thấp (0,6 con/ha và 0,7 con/hộ). Gia cầm có khả năng phát triển nhanh
46%) nhưng cũng mới chỉ đạt 8,2 con vịt/ha lúa và mỗi hộ chỉ đạt 4,2 con gà. Đặc biệt dê
đang có triển vọng lớn, tốc độ hàng năm là 85%. Từ hiện trạng trên, nếu tăng nguồn thức ăn
gia súc công nghiệp, đủ con giống, phòng chống dịch bệnh tốt, đàn gia súc, gia cầm còn có
khả năng phát triển rất lớn có thể cân đối với trồng trọt.
Về thủy sản: Trong thời gian qua sản lượng tôm cá hàng năm phần lớn do khai thác tự
nhiên, việc tổ chức nuôi, vẫn chưa được chú ý phát triển đúng mức. Năm 1984, có 25 ha diện
tích mặt nước được đưa vào nuôi cá tôm chiếm 5% diện tích ao hồ có khả năng sử dụng
được. Trong đó diện tích nuôi tôm là 10 ha. Giống ca nuôi chủ yếu là cá tra. Sản lượng cá
đánh bắt là 2.900 tấn, tôm là 58 tấn. Trong đó, sản lượng do khai thác tự nhiên là 97,6%
khâu đánh bắt cũng chưa hợp lý còn gây lãng phí như dùng thuốc cá, bắt cá con, tôm trứng.
Ngoài ra việc sử dụng thiếu thận trọng một số thuốc sâu đang là nguy cơ làm giảm nhanh trữ

lượng tôm cá tự nhiên.
Góp phần quan trọng tạo nên những thành quả đó, nhiều công tác phục vụ sản xuất
nông nghiệp đã được tổ chức thực hiện: Công tác thủy lợi trong 10 năm nay, chỉ mới tính ở
những công trình lớn, ngân sách đã đầu tư trên 5 triệu đồng (tính theo giá xây dựng năm
1984). Nhân dân trong huyện đã tham gia trên 130.000 lượt người, đào đắp hơn 2 triệu m3
đất. Đã dẫn nước và xổ phèn cho 2.000 ha đất phèn, phục vụ tưới tiêu chủ động cho hơn
2.000 ha và giữ khô đất để cày ải được 13.000 ha đất lúa. Tuy nhiên do hệ thống thủy lợi lớn,
vừa và nhỏ chưa đồng bộ, khép kín nên phần lớn diện tích chưa chủ động mực nước, sản
xuất còn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên.
Các cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp đến nay vẫn còn ít, nhỏ, quản lý
kém nên khả năng phục vụ chưa cao. Hiện nay huyện có 1 trạm máy quốc doanh với 9 máy


và 1 tổ hợp máy kéo tư nhân gồm 36 máy kéo cùng 101 máy với công suất từ 9- 12 CV, khả
năng làm đất 38% diện tích canh tác lúa.
Trại giống cấp III của huyện có 23 ha đã sản xuất có lãi nhưng chưa đủ sức đáp ứng
nhu cầu giống mới và chưa thể hiện là khuôn mẫu thâm canh cây lúa. Trạm bảo vệ thực vật,
trạm thú y và mạng lưới tổ chức ở cơ sở, tập đoàn mới được hình thành và bắt đầu phát huy
tác dụng ở vài nơi. Dịch bệnh trong chăn nuôi và bệnh tiêm đọt sần ở cây lúa vẫn là mối đoe
dọa thường xuyên cho ngành nông nghiệp.
Trại chăn nuôi quốc doanh của huyện có diện tích chuồng trại là 360m3, nhưng quản
lý kém hiện nay chỉ mới nuôi được 1 nái cơ bản và 7 nái kiểm định.
Cung ứng vật tư cho nông nghiệp ngày càng tăng về số lượng (trung bình 1 ha gieo
trồng ở năm 1980 lượng phân các loại là 26 kg đã tăng lên 65kg ở năm 1984) nhưng vẫn còn
thấp so với yêu cầu thâm canh, chủng loại chưa hợp lý, cung ứng nhiều khi chưa kịp thời vụ.
Nhờ ở gần trường Đại học Cần Thơ và Viện Đồng bằng sông Cửu Long nên nông dân
trong huyện phần lớn nhạy bén sử dụng giống mới. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, bình tuyển,
phổ biến, hướng dẫn việc bố trí mỗi giống phù hợp với từng loại đất và từng mùa vụ khác
nhau chưa được quan tâm thực hiện. Công tác quảng bá, phổ biến rộng rãi các tiến bộ khoa
học kỹ thuật nông nghiệp chưa nhiều, chưa xây dựng được nhiều mô hình làm điểm, làm

mẫu. Cán bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp khá lớn so với các huyện khác nhưng mất cân
đối (Đại học nhiều gấp 3 lần trung cấp), chưa được sử dụng hết năng lực, chưa có mục tiêu
làm việc lâu dài để tích cực tháo gở những cản ngại và thúc đẩy sản xuất phát triển. Mối liên
kết giữa huyện với trường Đại học Cần Thơ và Viện nghiên cứu lúa Đồng bằng sông Cửu
Long chỉ mới hạn hẹp ở phạm vi cấp giống lúa.
Hết thời kỳ 1976 -1980 công tác tổ chức tập đoàn sản xuất bị chựng lại, song đến cuối
năm 1981, quán triệt Chỉ thị 100/CT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng, huyện chủ
trương xây dựng các tập đoàn sản xuất mới gắn liền với thực hiện cơ chế khoán sản phẩm.
Huyện tập trung chỉ đạo củng cố, xây dựng tập đoàn- tổ đoàn kết sản xuất, nhưng lúc này
phong trào cũng chưa mạnh, mãi đến năm 1983 phong trào phát triển rất mạnh, toàn Huyện
có 100 tập đoàn sản xuất– 232 tổ đoàn kết sản xuất, năm 1984 có 197 tập đoàn sản xuất- 204
tổ đoàn kết sản xuất và đến năm 1985 thực hiện kế hoạch 06 của Tỉnh ủy, huyện chỉ đạo tổ
chức dứt điểm, toàn Huyện có 401 tập đoàn, 10 liên doanh kinh tế tập đoàn, trong đó có
380/401 tập đoàn có nội dung hoạt động đúng tính chất xã hội chủ nghĩa (chiếm 94%) [29,
tr.18].


Kết quả công tác cải tạo góp phần tích cực vào việc xóa bóc lột nông dân, điều chỉnh
san sẻ ruộng đất cho hộ nghèo, gia đình chính sách. Nhờ cơ chế quản lý tập trung, Nhà nước
đã huy động quy mô lớn sức người, sức của vào các chương trình thủy lợi, khai hoang phục
hóa, phát triển sản xuất… đem lại hiệu quả tích cực. Tuy nhiên việc điều chỉnh ruộng đất lại
sa vào tình trạng cào bằng hơn là thực hiện chính sách công bằng, phân chia cụ thể theo từng
đối tượng, làm cho một bộ phận nhân dân bị mất đất, làm ảnh hưởng xấu đến tâm trạng
người dân.
Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp: Phần lớn các cơ sở sản xuất vẫn còn hoạt động
cá thể. Tuy có chú ý mở rộng cơ sở quốc doanh nhưng kết quả không cao, chất lượng, hiệu
quả kinh tế kém. Cuối năm 1985, toàn huyện có 278 cơ sở, 835 lao động, tăng 110% cơ sở
và 85% lao động so với năm 1980, tỷ trọng tăng bình quân hàng năm (22% số cơ sở và 17%
số lao động) [29, tr.19].
Về công nghiệp, giá trị sản lượng toàn ngành năm 1984 là 28 triệu đồng, tăng 1,6 lần

so với năm 1980. Nhịp độ phát triển bình quân năm là 12,6%, trong đó: quốc doanh và công
tư hợp doanh có 18 cơ sở chiếm tỉ trọng là 7%, khu vực tập thể có 5 cơ sở chiếm tỉ trọng
8,5%, còn lại lớn nhất là 264 cơ sở cá thể chiếm 84,5% giá trị tổng sản lượng.
Trong sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, ngành chế biến lương thực- thực
phẩm chiếm ưu thế với tỉ trọng 53% giá trị tổng sản lượng, kế đến là ngành sản xuất vật liệu
xây dựng là 14,3% và sửa chữa cơ khí là 7,5%, còn lại là các ngành khác [94, tr. 12].
Nhìn chung, tuy phong phú và đa dạng về ngành nghề, nhưng do thiếu nguồn năng
lượng quan trọng là điện cao thế, lực lượng cán bộ quản lý yếu, thiếu, quan hệ sản xuất còn
phổ biến là cá thể, thiếu sự đầu tư và hướng dẫn của Nhà nước, nên sản xuất công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp còn tự phát, tản mạn và phát triển chậm. Công nghiệp chiếm 1 tỷ trọng
chưa cân đối trong cơ cấu kinh tế nông- công nghiệp của huyện.
Thực hiện chủ trương cải tạo công thương nghiệp trên địa bàn, đến hết năm 1985, toàn
huyện đã cải tạo xong 682/898 hộ sản xuất kinh doanh (đạt 76%), xây dựng được 17 cơ sở
quốc doanh, 9 cơ sở công tư hợp doanh ở nhiều ngành hàng. Cấp xã- thị trấn có 9 hợp tác xã
với 46 cửa hàng bán lẻ và tổng số 54 ấp- khóm đều có quầy hàng bán lẻ phục vu[29, tr.18].
Trong thời kỳ này, hệ thống kinh tế quốc doanh, hợp tác xã… đã đảm trách được khâu
lưu thông phân phối, thu mua nắm nguồn hàng, quản lý thị trường, góp phần phục vụ sản
xuất và đời sống.


Xây dựng cơ bản: Trong giai đoạn 1981-1985, thực hiện phương châm “Nhà nước và
nhân dân cùng làm”, dựa vào nguồn vốn và sức mạnh tập thể để xây dựng cơ bản, huyện
Bình Minh đã đưa tổng mức đầu tư toàn xã hội (năm 1985) là 2,052 tỷ (nhà nước 33%, nhân
dân 67%) [29, tr.19]. Trong 10 năm (1975-1985), huyện đã đầu tư xây dựng cơ bản được
trên 80 triệu đồng (theo giá xây dựng 1985) chia ra: khu vực sản xuất vật chất chiếm 73,6%,
khu vực không sản xuất vật chất chiếm 26,4% [94, tr.15].
Trong khu vực sản xuất vật chất, vốn đầu tư phục vụ nông nghiệp chiếm tỉ trọng
23,1%, cho công nghiệp 15,2%, giao thông vận tải 7,4% và nhiều nhất là cho hệ thống lưu
thông phân phối, chiếm 35,3% vốn đầu tư. Trong khu vực không sản xuất vật chất, nhà làm
việc chiếm 61,5% các công trình phúc lợi công cộng chiếm 38,5%[94, tr. 15].

Nhìn chung, các cơ sở vật chất đã phát huy tác dụng. Tuy nhiên, một số đơn vị như
trại chăn nuôi, xí nghiệp đường, trại mộc quốc doanh của huyện chưa phát huy được vốn đầu
tư, hiệu quả kinh tế kém, thậm chí còn thua lỗ.
Giao thông vận tải: Huyện Bình Minh nằm dài bên bờ sông Hậu và có nhiều nhánh
sông lớn đi sâu vào mọi vùng của huyện. Vì vậy giao thông và vận tải ở huyện rất thuận lợi.
Huyện đã hình thành hệ thống đường xe khá hợp lý: quốc lộ I đi ngang qua giữa huyện,
tuyến lộ 37 nối liền huyện lỵ với cả 2 vùng tận cùng phía tây bắc và đông nam của huyện.
Bến phà sông Hậu cũng là một đầu mối giao thông quan trọng.
Năm 1984, vận tải hàng hóa được 26.500 tấn, luân chuyển 399.000 T/km (trong đó
đường bộ được 1.500 tấn, đường sông 25.000 tấn), so với năm 1980 lượng hàng hóa luân
chuyển tăng 19 lần. Cũng trong năm 1984 vận chuyển được 760.000 hành khách, luân
chuyển 9.424.000 HK/km, bằng 1,25 lần so với năm 1980.
Đặc biệt, ngành đã tích cực đảm trách phần vận tải hàng hóa nội huyện. Trong vận
chuyển hành khách, đường thủy có khuynh hướng phát triển nhanh hơn đường bộ vì cầu,
đường hư hao, giảm cấp nghiêm trọng nhưng chưa đủ tiền vốn, vật tư sửa chữa. Do cầu,
đường nông thôn chưa được quan tâm xây dựng, nên giao thông nông thôn vẫn còn khó
khăn.
Ngân sách: Từ khi có Nghị quyết 6 của Trung ương (khóa V), huyện Bình Minh đã
nhanh chóng cụ thể hóa thực hiện. Từ chỗ thiếu hụt Trung ương phải chi viện, huyện đã
vươn lên cân đối được ngân sách, làm tròn nghĩa vụ với Trung ương và có kết dư. Tổng thu
ngân sách Nhà nước năm 1985 là 329 triệu, chiếm 1,5% trong GDP, so với năm 1980 tăng
hơn 7,8% (tăng bình quân 1,5%/năm) [29, tr.19].


Trong vòng 5 năm (1981- 1985), tổng huy động lương thực đạt 75.589 tấn, gấp 2,7 lần
so với thời kỳ (1976- 1980). Trong 4 năm liên tục (từ năm 1981 đến năm 1984) huy động đạt
và vượt chỉ tiêu trên giao, chỉ riêng năm 1985, huy động 17.689/22.000 tấn (đạt 80% chỉ
tiêu)[29, tr.19].
1.2.2 Tình hình xã hội
* Giai đoạn 1975 -1980

Ủy Ban nhân dân Huyện có 25 Ban, Ngành trực thuộc, tổng số 1.489 người kể cả khối
y tế và giáo dục. Ủy ban nhân dân được tổ chức đầy đủ ở 7 xã- Thị trấn, tổng số có 185 cán
bộ [29, tr.9]. Nhìn chung hệ thống chính quyền trong thời kỳ này tuy còn non trẻ, ít kinh
nghiệm trong quản lý và điều hành kinh tế- xã hội nhưng đã có nhiều cố gắng, nỗ lực, nổi bật
là hoàn thành nhiệm vụ ổn định tình hình chung, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội, tạo điều kiện cho kinh tế- xã hội phát triển, khắc phục tình trạng thiếu đói, đời sống
nhân dân có nâng lên.
Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn huyện Bình Minh sau giải phóng rất phức tạp,
số ngụy quân, ngụy quyền trốn cải tạo cùng số bất mãn với chính quyền ráo riết hoạt động
chiến tranh tâm lý chống phá ta. Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể cùng với nhân dân trong
huyện đã đấu tranh kiên trì, góp phần, giữ vững tình hình an ninh chính trị. Huyện đã phá
được 20 vụ án với nhiều tổ chức phản cách mạng, bắt 135 tên… thu được 37 súng, 45 lựu
đạn và nhiều tài liệu khác. Về hoạt động chiến tranh tâm lý ta bắt được 18 vụ, 45 tên [29, tr.
8].
Công tác đăng ký quản lý giáo dục, cải tạo cho trên 1 vạn ngụy quân, ngụy quyền nhìn
chung đạt kết quả. Sau cải tạo, đại bộ phận đã có giác ngộ, trở về địa phương an tâm lao
động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Công tác xây dựng, phát triển, tổ chức huấn luyện
nâng cao chất lượng lực lượng công an-quân sự được Đảng-chính quyền quan tâm chỉ đạo,
từng bước lớn mạnh đảm đương được nhiệm vụ. Việc truy quét, bắt hầu hết các tổ chức phản
cách mạng (các tổ chức nhen nhóm âm mưu hoạt động vũ trang cướp chính quyền, các tổ
chức chính trị, tôn giáo phản cách mạng…) góp phần tích cực bảo vệ Đảng, bảo vệ chính
quyền, ổn định tình hình quần chúng nhân dân[29, tr. 9].
Về giáo dục- đào tạo: Hòa bình lập lại, cùng với việc chú trọng khôi phục và phát triển
kinh tế, vấn đề giáo dục được Đảng bộ, chính quyền huyện đặc biệt quan tâm. Thực hiện
quan điểm của Đảng “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà
trường gắn liền với xã hội”, bằng nhiều nỗ lực khác nhau, giáo dục trên địa bàn Huyện từng


bước có sự chuyển biến rõ rệt. Trong 2 năm 1976- 1977 huyện tập trung chỉ đạo chiến dịch
xóa dốt đạt kết quả, tạo thành phong trào rộng lớn và ý thức tự giác trong cán bộ, trong nhân

dân. Các lớp bổ túc văn hóa tập trung và tại chức của Huyện đã thu hút khá đông học viên,
phong trào phát triển khá tốt, đã góp phần nâng cao trình độ học vấn cho cán bộ, viên chức
và số con em, thân nhân cán bộ. Chỉ đạo xóa mù chữ đạt kết quả khá, năm 1976 điều tra
bước đầu toàn Huyện có 7.095 người, xóa được 4.543/7.059 (đạt 64%). Sang năm 1977, chỉ
đạo dứt điểm cơ bản chiến dịch xóa dốt (đạt gần 97%) [29, tr. 7].
Hệ thống giáo dục phổ thông các cấp không ngừng phát triển, năm 1976 có: 19.098
học sinh, 419 lớp học, 514 giáo viên. Đến năm 1980 có: 21.928 học sinh (tăng hơn 14.8%),
512 lớp học (tăng hơn 22%), 520 giáo viên (tăng hơn 1.2%). Giáo dục phổ thông qui mô phát
triển về số lượng nói chung khá mạnh nhưng chất lượng công tác dạy và học chưa tốt, tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp của 3 cấp tăng không đều. Năm 1976: cấp I tốt nghiệp 96%, cấp II tốt
nghiệp 88%, cấp III tốt nghiệp 86%. Năm 1980: cấp I tốt nghiệp 94.6% (giảm 1.4%), cấp II
tốt nghiệp 89.1% (tăng 1.1%), cấp III tốt nghiệp 78% (giảm 8%) [29, tr. 6].
Sau giải phóng trong điều kiện, phương tiện phục vụ có được, ngành Y tế của huyện
Bình Minh cơ bản hoàn thành nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, từng bước
qui mô, trang thiết bị y tế được đầu tư, phát triển, tạo điều kiện thực hiện khá tốt các chương
trình y tế quốc gia. Năm 1976: Tổng số có 14 giường bệnh, 48 cán bộ y tế. Năm 1980: có 63
giường bệnh, tăng gấp 3 lần (tăng bình quân 70%/năm), có 58 cán bộ y tế, tăng 20% (tăng
bình quân 4%/năm) [29, tr. 7].
Những năm đầu sau giải phóng, phong trào sinh đẻ kế hoạch chưa được phát động,
nhân dân chưa có ý thức, nên tỷ lệ phát triển dân số tăng. Năm 1976: dân số tự nhiên là
119.837 người, tỷ lệ tăng dân số là 2,29%. Năm 1980: dân số tự nhiên là 132.370 người
(tăng 12.533 người, bình quân 2.500/năm), tỷ lệ tăng dân số 2,45%.
Thực hiện chính sách đền ơn đáp nghĩa, đặc biệt đối với gia đình thuộc đối tượng
chính sách, có công với cách mạng… những nhiệm vụ cụ thể như điều tra, thống kê, lập hồ
sơ công nhận thương binh, liệt sĩ… đã được lãnh đạo huyện chỉ đạo tích cực. Những năm
đầu sau giải phóng, kết quả thu được tuy chưa đầy đủ nhưng đã giải quyết về cơ bản chế độ
chính sách cho các đối tượng.
Về trợ cấp xã hội, trong 3 năm 1976,1977,1978 nông dân ở các vùng sâu của huyện
chỉ sản xuất được 1 vụ lúa, đời sống hết sức khó khăn và số người trong chính sách di dân
(phường 2, phường 8 Vĩnh Long về kinh tế mới Hai Quí) đã được Nhà nước trợ cấp (hơn



×