Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn võ thị xuân hà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

LƯU THỊ VÂN

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ XUÂN HÀ
Chuyên ngành : Lí luận văn học
Mã số

: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TÔN THẢO MIÊN

HÀ NỘI, 2015


Lời cảm ơn
Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 dưới
sự hướng dẫn của cô giáo PGS.TS Tôn Thảo Miên. Sự giúp đỡ và hướng
dẫn tận tình, nghiêm túc của cô trong suốt quá trình thực hiện luận văn này đã
giúp tôi trưởng thành hơn rất nhiều trong cách tiếp cận một vấn đề mới. Tôi
xin bày tỏ lòng biết ơn, lòng kính trọng sâu sắc nhất đối với cô.
Tôi xin trân trọng cảm ơn ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà
Nội 2, phòng Sau đại học, các thầy cô trong nhà trường đã giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã giúp đỡ,
dộng viên và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa học Thạc sĩ cũng
như hoàn thành luận văn này.


Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2015
Tác giả

Lưu Thị Vân


Lời cam đoan
Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS Tôn Thảo Miên.
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn tôi đã kế thừa
những thành quả khoa học của các nhà khoa học và đồng nghiệp với sự trân
trọng và biết ơn.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đã
được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2015
Tác giả
Lưu Thị Vân


Mục lục
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….1
2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………..3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………….7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………..8
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………8
6. Cấu trúc luận văn………………………………………………………....9
7. Đóng góp của luận văn……………………………………………………9
NỘI DUNG………………………………………………………………….10

CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC LÍ THUYẾT PHONG CÁCH VÀ SỰ HÌNH
THÀNH PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ XUÂN HÀ………10
1.1. Khái quát về phong cách………………………………………………10
1.1.1. Một số quan niệm về phong cách………………………………………...10
1.1.2. Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách………………………..15
1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách văn xuôi
Võ Thị Xuân Hà…………………………………………………………….16
1.2.1. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách nhà văn
nói chung………………………………………………………………………....…16
1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách văn xuôi
Võ Thị Xuân Hà…………………………………………………………………….18
CHƯƠNG 2: NHÂN VẬT VÀ CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN
VÕ THỊ XUÂN HÀ………………………………………………………...33
2.1. Nhân vật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà……………………….33
2.1.1. Khái niệm nhân vật………………………………………………......33
2.1.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà………………35
2.1.2.1. Nhân vật giàu lòng nhân hậu, vị tha…………………………………....35
2.1.2.2. Nhân vật cô đơn, bất hạnh nhưng đầy nghị lực và khao khát kiếm tìm
tình yêu đã mất, hạnh phúc đời thường…………………………………….…….40
2.1.2.3. Nhân vật tự thú, sám hối……………………………………………….…45
2.1.2.4. Nhân vật bản năng………………………………………………………...48


2.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà……………………..53
2.2.1. Khái niệm cốt truyện……………………………………………………..…53
2.2.2. Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà…………….54
2.2.2.1. Cốt truyện tâm lý…………………………………………………....54
2.2.2.2. Cốt truyện với kết cấu đảo lộn thời gian tuyến tính………………...56
2.2.2.3. Cốt truyện với kết cấu mở…………………………………………...59
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN TRONG

TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ XUÂN HÀ…………………………………..63
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà…..63
3.1.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả hành động……………………….……63
3.1.2. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại…………………………..65
3.1.3. Xây dựng nhân vật qua miêu tả độc thoại nội tâm……………….....69
3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà…….73
3.2.1. Xây dựng cốt truyện qua điểm nhìn trần thuật……………………..….73
3.2.2. Xây dựng cốt truyện qua không gian nghệ thuật……………………79
3.2.3. Xây dựng cốt truyện qua thời gian nghệ thuật……………………...85
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật…………………………………………………..88
3.3.1. Ngôn ngữ trong trẻo, giàu chất thơ………………………………….89
3.3.2. Ngôn ngữ đời thường mang tính bình dân…………………………91
3.3.3. Ngôn ngữ có tính thế tục, giễu nhại, u mua……………………..…93
3.4. Giọng điệu nghệ thuật…………………………………………………95
3.4.1. Giọng điệu trữ tình trong trẻo, tươi vui……………………………...96
3.4.2. Giọng điệu xót xa, ngậm ngùi, tiếc nuối…………….……………....97
3.4.3. Giọng điệu mỉa mai, giễu nhại……………………………………..100
KẾT LUẬN………………………………………………………………..104
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..108


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Phong cách là một trong những vấn đề đã được bàn luận từ thời cổ
đại bởi rất nhiều các triết gia, nhà lý luận, nhà nghiên cứu phê bình nổi tiếng.
Khi đề cập đến văn chương, người ta thường dùng các từ như: lối văn, giọng
văn, đặc tính, tinh thần, sở trường, sở thích... để chỉ đặc tính riêng của tác giả,

tác phẩm. Mấy chục năm gần đây, do ảnh hưởng từ lý luận phương Tây và
Liên Xô cũ, chúng ta mới có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về
phong cách. Nhìn một cách tổng thể phong cách nghệ thuật là một vấn đề có
tính lý luận và thực tiễn quan trọng của ngành Ngữ văn nói chung và Lý luận
văn học nói riêng. Việc nghiên cứu phong cách nghệ thuật sẽ giúp người
nghiên cứu có được một hệ thống những luận điểm quan trọng để đánh giá giá
trị của tác phẩm, khám phá, tìm hiểu những nét độc đáo trong sáng tác của
nhà văn trong một trào lưu hay một nền văn học.
1.2. Văn học luôn là tấm gương soi của thời đại. Văn học Việt Nam từ
sau năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới và mở cửa đã
tạo điều kiện cho các ngành nghệ thuật cũng như văn học phát triển mạnh mẽ.
Quan sát sự vận động của văn học Việt Nam sau 1986, chúng ta dễ dàng nhận
thấy lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật có sự biến đổi thật sự sâu sắc. Những hiện
tượng mới lạ gây dư luận ồn ào và kéo dài, những tranh cãi gay gắt, những
diễn biến phức tạp và bất ngờ của quá trình tiếp nhận văn học... chủ yếu diễn
ra ở văn xuôi. Góp phần không nhỏ vào sự thành công này phải kể đến đội
ngũ ngày càng đông đảo các nhà văn nữ, tiêu biểu như Lê Minh Khuê,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Trần Thùy Mai, Thùy Dương, Võ Thị Hảo, Đỗ
Hoàng Diệu, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Thị Xuân Hà, Lý Lan...
Chính họ là những người đã làm nên những thành công của văn học Việt Nam


2

đương đại với những sáng tạo không ngừng từ đề tài, chủ đề đến cách thức
thể hiện.
1.3. Võ Thị Xuân Hà là một trong số những cây bút nữ tiêu biểu của nền
văn học Việt Nam đương đại. Là một phụ nữ có niềm đam mê với sự sống và
sự viết, Võ Thị Xuân Hà đã vượt qua mọi khó khăn thăng trầm để đi tìm ý
nghĩa đích thực trong tình yêu cũng như trong văn chương. Chị đã trải qua

nhiều ngã rẽ, nhiều ngành nghề để đến với văn chương.
Dù mới chỉ xuất hiện trên văn đàn vào cuối những năm tám mươi của thế
kỉ trước, nhưng với niềm đam mê, nhiệt huyết văn chương cháy bỏng và một
năng khiếu thiên phú, Võ Thị Xuân Hà đã trở thành một cây bút nữ sung sức
với hai cuốn tiểu thuyết là Tường thành và Trong nước giá lạnh, một tập
truyện dài: Chuyện ở rừng sồi (NXB Trẻ - 1998, NXB Kim Đồng – 1999);
đặc biệt phải kể đến hàng chục tập truyện ngắn của chị như: Vĩnh biệt giấc mơ
ngọt ngào (NXB Văn học – 1992), Bầy hươu nhảy múa (NXB Văn học 1994);
Kẻ đối đầu (NXB Hội nhà văn – 1998); Truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà (NXB
Phụ nữ - 2002); Thế giới tối đen (NXB Phụ nữ - 2008); Cái vạc vàng có đòn
khiêng bằng kim khí (NXB Hội nhà văn – 2009)... Với thái độ làm việc
nghiêm túc, Võ Thị Xuân Hà xứng đáng được nhận những giải thưởng xuất
sắc.
Võ Thị Xuân Hà chủ yếu sáng tác truyện ngắn và đã gặt hái được nhiều
thành công ở thể loại này. Ngày 29.04.2009, trong chương trình Mùa nước
Pháp tổ chức tại trung tâm văn hóa Pháp (24 Tràng Tiền, Hà Nội), truyện
ngắn Đàn sẻ ri bay ngang rừng của Võ Thị Xuân Hà đã vinh dự được chọn
lọc và trình diễn. Đây là một buổi trình diễn truyện ngắn chính thức đầu tiên
của một tác phẩm đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức... Gần
đây, chúng ta lại thấy Võ Thị Xuân Hà xuất hiện với vai trò là nhân vật chính
trong chương trình “Đường đến thành công”, chương trình nhằm tôn vinh


3

những gương mặt hoạt động xuất sắc trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
Xuất hiện trong chương trình, Ma Văn Kháng đã nhận xét: “Văn chương Võ
Thị Xuân Hà luôn ánh lên giá trị của cái Đẹp trên hai phương diện. Thứ nhất
là chủ đề nhân sinh, Xuân Hà luôn ca ngợi, khắc khoải, day dứt, tìm kiếm,
nâng niu những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Thứ hai là khả năng ngôn ngữ,

câu cú, chữ nghĩa, biểu đạt cảm xúc phong phú, hài hòa, vừa cổ điển, mực
thước vừa cách tân mới mẻ như chính cốt cách con người Xuân Hà”. Ở Xuân
Hà vừa có cái đằm thắm, tinh tế của người phụ nữ gốc Huế, cái nhân hậu của
một người xuất thân giáo viên, vừa có cái sắc sảo của một nhà báo chuyên
nghiệp, tầm bao quát, khả năng tổ chức nghệ thuật của một nhà biên kịch điện
ảnh, cộng với tình yêu nghề nghiệp, tất cả đã tạo nên những trang viết ấn
tượng tạo sự hấp dẫn cho truyện của Võ Thị Xuân Hà. Độc đáo trong văn
chương chị không nằm ở những phá phách, nổi loạn hay cách tân mà ở sự giữ
gìn và phát huy hài hòa hai mạch nguồn văn hóa, văn học truyền thống và
hiện đại. Tất cả đã tạo nên một phong cách Võ Thị Xuân Hà riêng khó lẫn
trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam.
Vì những lí do trên, người viết chọn đề tài Phong cách nghệ thuật trong
truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà với mục đích tìm hiểu những nét đặc sắc trong
nghệ thuật viết đã tạo nên phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị
Xuân Hà, khẳng định những đóng góp của chị đối với truyện ngắn nói riêng
và với nền văn học Việt Nam đương đại nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà chính thức bước vào nghề với tập truyện ngắn
Vĩnh biệt giấc mơ ngọt ngào (NXB Văn học – 1992). Cũng từ đây, dấu ấn
sáng tác của chị trong lòng độc giả ngày càng đậm nét. Có hàng loạt các bài
nghiên cứu, nhận xét, đánh giá về tác phẩm của chị. Theo Văn Giá: “Võ Thị
Xuân Hà là một cây bút trưởng thành thời hậu chiến, nghĩa là sau năm 1975.


4

Chị có một nhóm các cây bút văn xuôi nữ cùng trang lứa: Y Ban, Thùy
Dương, Bích Ngân; trước một chút là Võ Thị Hảo, sau một chút là Nguyễn
Thị Thu Huệ. Mỗi người mỗi vẻ và đều đáng nể. Thí dụ, nếu văn của Hà xao
xuyến trữ tình chập chờn hư thực thì văn Y Ban lại áp sát vào thực tại đời

sống với những biểu đạt can đảm, sắc sảo pha lẫn u – mua. Nhìn rộng ra còn
có thể kể đến một số nam nhà văn thuộc loại cùng trà, tất cả đã làm nên một
vùng văn xuôi vạm vỡ và đa giọng điệu. Trong đội hình các cây bút văn xuôi
đó, Võ Thị Xuân Hà đã xác lập cho mình một nhan sắc, một phong thái văn
chương”.
Cảm nhận về sáng tác của Võ Thị Xuân Hà, Hàn Thủy Giang trong bài
Võ Thị Xuân Hà – Người sống trên đất lặng lẽ (Vietbao.com, 10/02/2003) đã
cho rằng một trong những nguyên nhân quan trọng hấp dẫn độc giả trong tác
phẩm của chị chính là dấu ấn chủ quan của tác giả trong sáng tác: “Nghĩ về
chị tôi cứ nghĩ đến một người sống trên đất mà như đi trên dây, tất nhiên
không phải đang làm xiếc. Nếu đứng lại nhìn ngó xung quanh sẽ ngã lộn cổ.
Bởi vậy chị cứ đi, đi một cách đầy chủ quan, vì nếu chị khách quan - đó sẽ là
một cú ngã. Và có lẽ tôi yêu mến chị, yêu văn chị chính bởi vì nét chủ quan
ấy”. Cũng nhận xét về phong cách sáng tác của Xuân Hà, nhưng đi sâu ở khía
cạnh nội dung, Hàn Thủy Giang khẳng định: “Có một điều, tôi nghĩ, đã giúp
văn cuả chị được người ta chú ý. Đó là chị đã tìm được cách thể hiện tình
nhân ái qua những chi tiết nhỏ, tinh tế, những chi tiết đôi khi nhiều người
không chú ý tới” [7].
Trong bài Võ Thị Xuân Hà: Viết để đỡ đau đớn hơn khi nhìn thực tế
(Vietbao.com, tháng 8, 2003), tác giả Hiền Hòa đã nhấn mạnh trong truyện ngắn
của Xuân Hà có một sự đa dạng với những chiều đối lập: “Những trang viết của
chị cũng lóng lánh y hệt một thứ nhà gương mà người ta có thể nhận diện đủ loại
gương mặt mình, để rồi lúc thì bật cười, lúc lại sợ hãi”. Hiền Hòa còn khẳng định:


5

“Thế giới nhân vật của chị chủ yếu là những người đàn bà (…). Những người đàn
bà của Võ Thị Xuân Hà dù ngoan ngoãn hay vụng trộm, phá phách cũng đều có
một đặc điểm giống nhau: mặc kệ cuộc sống nghèo khó hay sung túc, họ luôn bị

trộn lẫn giữa thực tại và mộng tưởng. Họ xáo trộn giữa cái tốt và cái xấu, đầy
lòng vị tha nhưng cũng ích kỉ, rất tự tin nhưng cũng dễ bị cám dỗ. Bởi họ bị ám
ảnh bởi một quá khứ mông lung, một tương lai đầy bất trắc” [25].
Cũng viết về nhân vật phụ nữ trong sáng tác của Võ Thị Xuân Hà, Hà
Phạm Phú trong bài Ngôi nhà gương của Võ Thị Xuân Hà cho rằng: “Những
người đàn bà của Võ Thị Xuân Hà không có một làng quê chung rõ rệt, kẻ thì
ở miền biển người thì ở miền rừng, người thì trong thành phố... Những người
đàn bà ấy cười nói, đi đứng, yêu đương vụng trộm, sung sướng và căm giận
không hiểu sao lại làm cho lòng ta xáo động, đánh thức nỗi buồn chìm sâu và
ngủ yên trong đáy tim mình từ bao năm, êm ái lan tỏa, thấm dần vào từng
huyết quản”. Và “Thế giới đàn bà của Hà là một thế giới riêng, không lẫn vào
ai. Những người đàn bà của chị hình như cũng là sự xáo trộn giữa cái tốt và
cái xấu... sống yên phận nhưng lại không chịu yên với số phận đã an bài. Một
người phụ nữ là một bí ẩn” [41].
Nhận xét về tập truyện ngắn Cái vạc vàng có đòn khiêng bằng kim khí,
tác giả Thủy Bình nhận thấy ở tập truyện ngắn này “những mảnh ghép đa
chiều về con người và những khía cạnh bí ẩn của đời sống tâm linh” và còn
thấy “16 truyện ngắn in trong tập truyện này là dòng chảy cô đơn trong từng
câu chữ, mang nặng hơi thở tình yêu và những khát khao cháy bỏng thiếu
phụ. Như đất khát khao sinh sôi nảy nở dâng hiến mỡ màu cho cây, người đàn
bà dâng hiến tình yêu. Tình yêu tìm đến người đàn bà như hạt giống tìm về
với đất”. Thủy Bình khi giới thiệu về tập truyện ngắn này còn cho rằng: “Nếu
so với những Tường thành, Trong nước giá lạnh thì Cái vạc vàng có đòn
khiêng bằng kim khí dường như ít đời thường, lạ hơn, ma quái hơn. Ngay cả


6

trong những mẩu chuyện có vẻ bề ngoài rất bình thường, rất đời sống, người
ta vẫn cảm thấy đâu đấy có ý vị liêu trai, kì ảo. Nhiều truyện phảng phất hình

ảnh nhà chùa, sư thầy và triết lí Phật giáo như Ngàn xanh và gió, Cái vạc
vàng có đòn khiêng bằng kim khí... Có những truyện nhưng nhức trước những
mảnh đời thương tâm như Ngọa sinh, Mây giăng... Có truyện đi sâu vào đời
sống tâm linh nhưng cũng có những mẩu ghi chép lại sự nhạt nhẽo của đời
sống tinh thần con người trong thời đại thống trị của vật chất như Xin lỗi em,
Mùa xuân nghiêng” ().
Nhà phê bình sân khấu Trần Minh Phượng lại ấn tượng với “chất Huế”
trong truyện của Xuân Hà. Theo Trần Minh Phượng, đặc điểm này được thể
hiện rõ rệt qua truyện Chuyện của con gái người hát rong. Trần Minh Phượng
cho rằng: “Khi đọc ba truyện ngắn này, người đọc nhận ra những tinh tế rất
Huế trong văn chị. Huế từ nếp nhà, đường phố, từ những cơn mưa dầm, từ lối
nói... Nhưng điển hình nhất là chị đã phát hiện ra chất nghệ sĩ dân gian trong
hình ảnh cha và con người hát rong. Câu chuyện nhân tình thế thái đằm sâu,
dữ dội, khiến người đọc như thực sự đắm mình trong không gian đa chiều mà
chị đã lột tả qua những hình ảnh nhân vật và số phận bi thương của họ”.
Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã từng khẳng định: “Trẻ thì phải có tính khai
phá, thử nghiệm” (Thể thao và văn hóa, 16.10.2009). Võ Thị Xuân Hà luôn
hừng hực với nhiệt huyết sáng tác không ngừng nghỉ. Khi đề cập đến truyện
Cà phê yêu dấu của chị, Hạnh Đỗ có nói: “Truyện ngắn này cũng mở đầu cho
một giai đoạn sáng tác mới của Võ Thị Xuân Hà: lời văn dễ thương, những
câu chuyện nhẹ nhõm, đời thường và lâng lâng những mối tình tưởng chỉ
chạm nhẹ tay là vỡ. Tuy nhiên cũng là một giai đoạn sống và sáng tác kiệt lực
với những tác phẩm đa chiều về lối viết và có ma lực hấp dẫn người đọc, đôi
truyện đến độ kì ảo, hấp dẫn đến rùng mình” [5].
Trên cơ sở tổng hợp những truyện ngắn của Võ Thị Xuân Hà, tác giả


7

Thiên Sơn chỉ ra: “Sáng tác của Võ Thị Xuân Hà theo ba hướng chính: đi vào

những bí ẩn nội tâm, với bút pháp phân tích tâm lí sắc sảo; đi vào hiện thực
xã hội với những vấn đề bức xúc và những phận người bất hạnh; đi vào tâm
linh với những huyền bí của tiền kiếp, của luân hồi, những dự cảm về nhân
quả kiếp người. Và càng ngày chị càng tiếp tục mở rộng đề tài, không ngại
thể nghiệm những hình thức mới, dấn sâu vào tâm linh và tiềm thức”.
Bên cạnh những bài viết mang tính chất phê bình hoặc những bài tổng
hợp ngắn gọn từ một số tác phẩm, nghiên cứu về Võ Thị Xuân Hà hiện nay
còn có thể kể đến các luận văn Thạc sĩ như: “Thế giới nghệ thuật trong truyện
ngắn Võ Thị Xuân Hà” của Bùi Tuấn Ninh (2011), “Đặc trưng truyện ngắn
Võ Thị Xuân Hà” và “Nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà”
của trường Đại học Vinh. Những chuyên luận này đã khai thác một số phương
diện nội dung và nghệ thuật, đã bước đầu phác họa được đặc điểm truyện
ngắn Võ Thị Xuân Hà.
Như vậy, ở chuyên ngành Lý luận văn học, nghiên cứu chuyên sâu về
mảng truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà chưa nhiều. Đặc biệt, phương diện phong
cách nghệ thuật truyện ngắn hầu như chưa được chú trọng một cách thấu đáo.
Dựa trên thành công nhiều mặt của các đề tài khoa học đi trước, chúng
tôi hi vọng “Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà” sẽ
góp phần đánh giá và chỉ ra nét đặc sắc, riêng biệt trong những sáng tác độc
đáo của Võ Thị Xuân Hà ở thể loại truyện ngắn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của chúng tôi là hệ thống lại và đưa ra quan niệm về phong
cách nghệ thuật. Dựa trên cơ sở đó nhận diện phong cách nghệ thuật Võ Thị
Xuân Hà ở thể loại truyện ngắn, tiến đến khẳng định sự thành công của chị ở
thể loại này.
Nhiệm vụ: Tìm hiểu về lí thuyết phong cách nghệ thuật, sự thể hiện của


8


phong cách nghệ thuật nhằm vận dụng nghiên cứu phong cách truyện ngắn
Võ Thị Xuân Hà. Khảo sát truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà trong phạm vi tư liệu
giới hạn, làm rõ một số phương diện chính của phong cách nghệ thuật trong
truyện ngắn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính là Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn
Võ Thị Xuân Hà với các vấn đề cơ bản: Khái niệm phong cách nghệ thuật và
các nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách nhà văn Võ Thị Xuân Hà,
nhân vật và cốt truyện và một số phương thức biểu hiện trong truyện ngắn Võ
Thị Xuân Hà.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. Tuy
nhiên trong khuôn khổ của chuyên luận, chúng tôi xin tập trung vào một số tập
truyện sau:
Tập truyện ngắn Kẻ đối đầu (NXB Hội Nhà văn – 1998).
Tập Truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà (NXB Phụ nữ - 2002).
Tập truyện ngắn Chuyện của con gái người hát rong (NXB Hội Nhà văn
-2004).
Tập truyện ngắn Thế giới tối đen (NXB Hội Nhà văn – 2011).
Tập truyện ngắn Cái vạc vàng có đòn khiêng bằng kim khí (NXB Hội
Nhà văn – 2011).
Tập truyện ngắn Vàng son thạch thủy khí (NXB Hội Nhà văn – 2012).
5. Phương pháp nghiên cứu
Hướng tới các mục đích, nhiệm vụ trên, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu tác giả.
Phương pháp phân tích, tổng hợp những nét chung và riêng trong truyện


9


ngắn để thiết lập một hệ thống luận điểm.
Phương pháp thống kê, phân loại để tìm hiểu, phân loại các kiểu nhân
vật, cốt truyện, giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn.
Phương pháp so sánh, đối chiếu để thấy được những nét chung và nét
riêng độc đáo tạo nên phong cách truyện ngắn nhà văn Võ Thị Xuân Hà so
với các nhà văn cũng thời, ngoài ra chúng tôi cũng tiếp cận thi pháp học để
tìm ra những nét đặc sắc của nghệ thuật truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, mục lục,
luận văn của chúng tôi được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Khái lược lí thuyết phong cách và sự hình thành phong cách
truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà.
Chương 2: Nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà.
Chương 3: Một số phương thức biểu hiện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà.
7. Đóng góp của luận văn
Với đề tài Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà,
luận văn đi vào tìm hiểu các phương diện cơ bản của phong cách truyện ngắn
nhà văn, qua đó thấy được giá trị và những thành công trong lĩnh vực truyện
ngắn của Võ Thị Xuân Hà, góp phần khẳng định vị thế của nhà văn trong văn
học Việt Nam đương đại.


10

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC LÍ THUYẾT PHONG CÁCH
VÀ SỰ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN
VÕ THỊ XUÂN HÀ
1.1. Khái quát về phong cách

1.1.1. Một số quan niệm về phong cách
Khái niệm phong cách có nguồn gốc từ “stylos” (Hy Lạp), “stylus” (La
Mã), “style” (Pháp). Nó được coi như một thuật ngữ của ngôn ngữ học, nghệ
thuật và văn học (với nghĩa khởi đầu là “nét chữ, bút pháp”).
Có nhiều định nghĩa về phong cách – những định nghĩa này xòe ra như
cái quạt giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù thẩm mỹ rộng nhất,
bao quát và sự thừa nhận nó như những đặc điểm của một tác phẩm văn học
riêng lẻ (theo M.B. Khravchenko).
Chúng tôi tạm chia thành hai khu vực:
1- Quan niệm của các nhà nghiên cứu nước ngoài (chủ yếu là Liên Xô cũ)
2- Quan niệm của các nhà nghiên cứu trong nước.
1.1.1.1. Quan niệm của các nhà nghiên cứu nước ngoài.
Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại với các đại biểu xuất sắc như Platon,
Aristore, khái niệm phong cách ngày càng được quan tâm sâu sắc.
Do điều kiện bài viết có hạn, ở đây chúng tôi nghiên cứu chủ yếu dựa trên
các định nghĩa khác nhau về phong cách của các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ.
Đ. Likhachev đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của phong cách nhà văn
trong việc tái tạo hiện thực đời sống bằng các phương tiện nghệ thuật, đồng
thời nhìn nhận phong cách với hai tư cách: “phong cách như là hiện tượng
ngôn ngữ văn học và phong cách như là một hệ thống hình thức và nội dung


11

nhất định”. Còn Ar. Grigorian nêu lên mối quan hệ gắn bó giữa phong cách
với phương pháp, thế giới quan, bút pháp của cá nhân nghệ sĩ: “phong cách là
sự thống nhất cao nhất của tất cả các phạm trù đó”.
V. Kovakev coi “phong cách- đó là một sự thống nhất chỉnh thể của nhà
văn (...) đó là những liên hệ qua lại giữa những yếu tố trong hệ thống nghệ
thuật của nhà văn, là sự quy định lẫn nhau của những yếu tố đó”.

L. Novichenco cho rằng phong cách và cá tính của người nghệ sĩ là hai
khái niệm gần gũi, tính cộng dồng có ảnh hưởng tới phong cách của hàng loạt
nhà văn nhưng xét cho cùng phong cách vẫn là cái đặc thù; vẻ đặc thù này
được quy định bởi những quan điểm chung về cuộc sống và thể hiện trong
những đặc điểm có tính chất đặc trưng về nội dung và hình thức của những
tác phẩm ấy.
V. Đneprov và Ya. Elxberg lại đưa ra một định nghĩa khác tương đối
hoàn chỉnh về phong cách: “phong cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình thức
có tính nội dung được hình thành trong sự phát triển, trong tác động qua lại
và trong sự tổng hợp các yếu tố của hình thức nghệ thuật, dưới ảnh hưởng
của đối tượng và nội dung tác phẩm, của thế giới quan của nhà văn và của
phương pháp của anh ta vốn thống nhất với thế giới quan. Phong cách được
hình thành từ tất cả những yếu tố ấy, nảy sinh từ chúng mà ra. Phong cách –
đó là sự thống trị của hình thức nghệ thuật, là sức mạnh tổ chức của nó”.
Trong “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học”, M. B.
Khravchenko đã dành một dung lượng tương đối lớn để bàn về phong cách.
Tác giả đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về phong cách của các nhà
nghiên cứu Liên Xô cũ để khẳng định sự phong phú và tính đa dạng trong
quan niệm về phong cách. Tuy không có sự thống nhất chung nhưng về cơ
bản các nhà nghiên cứu đã nhất trí coi phong cách là “biểu hiện những đặc
điểm của cá tính sáng tạo nhà văn, sự hoàn chỉnh của nhận thức nhà văn về


12

cuộc sống, của cách nhìn đối với thế giới” [27]. Phong cách cá nhân được
hình thành dần trong quá trình sáng tạo, trong việc nắm bắt và xử lý các vấn
đề của cuộc sống; bằng các thủ pháp nghệ thuật, các phương thức kết cấu tác
phẩm, các yếu tố ngôn ngữ, đề tài, tư tưởng, nhân vật... Với tất cả các yếu tố
nội dung và hình thức mang tính đặc thù của tác phẩm, nhà văn sẽ tạo lập cho

mình một phong cách riêng. Bên cạnh tính ổn định, nhà văn cần tránh lặp lại
mình bằng cách đi tìm những phương thức thể hiện mới.
Như vậy, xung quanh khái niệm phong cách có rất nhiều ý kiến, quan
điểm khác nhau nhưng tựu chung lại có hai luồng ý kiến cơ bản: một nhấn
mạnh sự thống nhất của những yếu tố nội dung và yếu tố hình thức của tác
phẩm; một cho rằng phong cách được coi như là hình thức toàn vẹn có tính
nội dung.
Tuy nhiên, vẫn có thể nhận ra sự thống nhất bởi các tác giả đều đặc biệt
quan tâm đến hai yếu tố: thứ nhất là nội dung và hình thức nghệ thuật của tác
phẩm văn chương; thứ hai là tài năng độc đáo của cá nhân người nghệ sĩ.
1.1.1.2. Quan niệm của các nhà nghiên cứu trong nước
Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ
văn học đưa ra khái niệm: “Phong cách sáng tác (phong cách nghệ thuật) là
một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình
tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo
trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn
học hay văn học dân tộc” [8].
Trong nghĩa rộng: “Phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây
dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể
cảm nhận được, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất” [8, tr255 - 256].


13

Phương Lựu định nghĩa: “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng
như nghệ thuật, có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của những nhà
văn ưu tú” [29, tr89].
Hoài Thanh từng viết về phong cách trong phê bình văn học: “Chớ vội đi
tìm cái gọi là phong cách. Hãy cứ nghiên cứu thật sâu, thật kĩ, gắng phát hiện
những vấn đề ẩn khuất bằng cả tâm hồn và trí tuệ của mình, kỳ thật chín. Sau

đó hãy cầm bút. Và hãy cố biểu đạt sao cho chính xác nhất, gọn nhất ý tưởng
của mình. Lúc này, phong cách tự nó sẽ đến. Không phải mất công tìm kiếm
gì cả. Bởi vì phong cách chính là tổng thể quá trình sáng tác đó”.
Phan Ngọc cũng là một trong những người đầu tiên phê bình phong cách
học ở Việt Nam với công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều. Công trình này là một nghiên cứu mới về phong cách học khi bộ môn
này ở Việt Nam còn thiếu một lí luận nhất quán để khẳng định như một khoa
học thực sự. Phan Ngọc đã tiến hành xây dựng lại các khái niệm của môn
phong cách học, khám phá mối quan hệ nội dung và hình thức với tần suất lặp
lại của một hiện tượng sau đó kiểm chứng trên trục lịch sử và thời đại. Theo Phan
Ngọc, mỗi kí hiệu ngôn ngữ có hai mặt, mặt thông báo và mặt biểu cảm. Phong
cách học là khoa học nghiên cứu mặt biểu cảm của ngôn ngữ. Ông cũng chỉ rõ
bản chất của phong cách là các kiểu lựa chọn riêng: “Phong cách là một cấu trúc
hữu cơ tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử, và chứa
đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại,
một tác phẩm hay một tác giả”. “Các kiểu lựa chọn” là sự lựa chọn lặp lại với tần
số cao tạo thành quy luật, thành một yếu tố ổn định bền vững, chịu sự chi phối của
một quan niệm nghệ thuật nhất định. Một kiểu lựa chọn có giá trị thẩm mỹ trước
hết phải được chuẩn bị về ngữ cảnh, môi trường sống cho nó và của nó. Đánh giá
một hiện tượng phong cách học chính là nhận xét xem nó có phù hợp với ngữ
cảnh hay không. Như vậy, phong cách nghệ thuật cũng là một phạm trù thẩm mỹ


14

chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng và phương tiện tổ
chức văn bản nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo của một nhà văn.
Sau khi đã trình bày quan điểm của mình về phong cách và phong cách
học, Phan Ngọc đi sâu vào tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều. Ông đã thực hiện một loạt những đối lập Truyện Kiều với tất cả những

gì liên quan đến Truyện Kiều trước đó để tìm ra cái đổi mới của Nguyễn Du.
Như vậy phong cách học của Phan Ngọc không còn là phong cách học hình
thức, mà đã gắn chặt với nội dung, điều kiện lịch sử và khu biệt với phong
cách thời đại.
Đỗ Đức Hiểu trong “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn
học Việt Nam” đã xem những phong cách lớn như là tiêu chí phân kỳ văn
học. Đó là tiêu chí dựa trên những biến động, những thay đổi của bản thân
văn học trong quy luật phát triển của nó. Khi một thời kỳ văn học có những
thay đổi, những phá vỡ, những sáng tạo, những bước ngoặt, chúng ta có thể
xác định bước chuyển mình của nó sang một thời kì khác. Theo đó, Đỗ Đức
Hiểu chủ trương phân chia văn học sử Việt Nam thành hai thời đại lớn: thời
đại thứ nhất (thế kỉ X- XIX) với phong cách được đặc trưng bởi các sáng tác
tiêu biểu nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu XIX; thời đại thứ hai (đầu thế ki
XX trở về sau) với phong cách mang đậm dấu ấn sáng tác của Hồ Chí Minh –
mỗi thời đại được đánh dấu bằng một phong cách lớn. Ông định nghĩa phong
cách lớn: “phong cách này phủ định một số nhân tố của văn học trước nó,
hoặc tiếp thu và phát triển; mặt khác nó sáng tạo những nhân tố mới, những
phương thức nghệ thuật mới, để biểu hiện những tình cảm, những tư duy,
những khát vọng mới” [22].
Như vậy, xung quanh vấn đề phong cách nghệ thuật có rất nhiều ý kiến,
quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung các nhà nghiên cứu đều nhấn
mạnh đến cá tính sáng tạo độc đáo mang tính thẩm mỹ của nhà văn, cụ thể


15

hóa các yếu tố tạo phong cách nghệ thuật tác giả. Nhà văn muốn có phong
cách riêng trước hết phải có tư tưởng độc đáo, có cách cảm nhận thế giới độc
đáo qua cảm hứng và hệ thống phương thức riêng, lẽ dĩ nhiên phải là “tính
độc đáo chân chính” (Heeghen). Cái khó và cần thiết trong nghiên cứu phong

cách cá nhân nhà văn là ở việc tìm sự thống nhất trong nhiều biểu hiện đa
dạng, phức tạp của toàn bộ tiến trình tư tưởng – thẩm mỹ, trong toàn bộ sáng
tác của nhà văn.
Phê bình phong cách học đã và vẫn đang được nghiên cứu, khai phá. Qua
những ý kiến về phong cách của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể
rút ra những nhận xét cơ bản nhất về phong cách: Phong cách là những biểu hiện
độc đáo của tài năng sáng tạo nghệ thuật, có tính thống nhất và tương đối ổn
định, được lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà văn, thể hiện cái nhìn và sự
chiếm lĩnh nghệ thuật độc đáo của nhà văn đối với thế giới và con người.
Văn học cần có sự đa dạng, độc đáo của những cá tính sáng tạo. Văn học
tồn tại và phát triển phải gắn liền với phong cách. Không phái tác giả nào cũng
có phong cách riêng nổi bật. Chỉ có những tác giả có tài năng, để lại dấu ấn riêng
rõ nét mới có phong cách nghệ thuật, còn lại đa số chỉ mang “tính chất phong
cách” mà thôi. Phong cách - đó là kết quả sáng tạo không ngừng của các nghệ sĩ
và “tương lai chỉ thuộc về những ai nắm được phong cách” (V. Hugo).
1.1.2. Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về các khuynh hướng nghiên cứu
phong cách. Trong luận văn này, chúng tôi dựa theo quan niệm của nhà
nghiên cứu Tôn Thảo Miên.
Theo Tôn Thảo Miên, có bốn nhóm khuynh hướng nghiên cứu phong cách:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về phong cách.
- Nghiên cứu phong cách tác giả.
- Nghiên cứu phong cách tác phẩm.


16

- Nghiên cứu phong cách tác giả và tác phẩm.
Luận văn vận dụng cả bốn nhóm khuynh hướng trên, nhưng chủ yếu tìm
hiểu theo nhóm khuynh hướng thứ tư là nghiên cứu phong cách tác phẩm và

tác giả Võ Thị Xuân Hà.
Căn cứ để khẳng định phong cách tác giả là những đặc điểm nổi bật về
nội dung và hình thức trong tác phẩm văn học, tạo nên tính độc đáo và giá trị
của một nhà văn, một hiện tượng văn học. Theo chúng tôi, những biểu hiện
độc đáo và giá trị thể hiện tài năng sáng tạo ấy, đều được chi phối từ tư tưởng
nghệ thuật của tác giả biểu hiện cụ thể qua cảm hứng sáng tác, thế giới hình
tượng, giọng điệu và ngôn ngữ...
Văn chương là sản phẩm tinh thần của con người, một sản phẩm đặc thù
mang dấu ấn độc đáo của cá tính sáng tạo. Sáng tạo nghệ thuật là hoạt động
tất yếu của người nghệ sĩ. Nhưng người nghệ sĩ chỉ có thể tồn sinh khi tạo cho
mình được một phong cách, một cá tính riêng trong hoạt động sáng tạo. Vấn
đề này phải được xem như một chuẩn làm nên sự hiện hữu của nhà văn trong
tâm thức bạn đọc. Sự định hình phong cách của mỗi nhà văn không chỉ là quá
trính rèn luyện mà còn thể hiện tài năng của họ.
1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách văn xuôi Võ
Thị Xuân Hà
1.2.1. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách nhà văn
nói chung
Có rất nhiều nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách của nhà văn,
như tư chất, bối cảnh xã hội, môi trường, hoàn cảnh sống, truyền thống gia đình…
Mỗi người sinh ra và lớn lên đều có trong mình một khí chất, năng lực
và kinh nghiệm sống riêng. Quá trình đó dần hình thành trong mỗi chúng ta
một cá tính đặc biệt gọi là phong cách. Trong cùng một hoàn cảnh, phong
cách của mỗi nhà văn là không hoàn toàn giống nhau.


17

Trong “Nhà văn Việt Nam hiện đại: Chân dung và phong cách”, Nguyễn
Đăng Mạnh rất coi trọng yếu tố tác giả. Coi cá tính tạo nên diện mạo, phong

cách văn chương nhà văn, Nguyễn Đăng Mạnh xác định: “Văn chương là một
hình thái ý thức xã hội có đặc trưng riêng. Đây là lĩnh vực cần đến năng khiếu
và tài nghệ, cần cá tính và phong cách” (Nhà văn, tư tưởng và phong cách).
Quan niệm phong cách của ông đã chịu ảnh hưởng bởi định nghĩa
Buyphông. Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng có sự thống nhất con người xã hội
và chủ thể sáng tạo. “Con người là một hiện tượng rất phong phú và phức tạp.
Vì thế đối với nhà văn, con người trong tác phẩm và con người ngoài đời
không đồng nhất. Văn tức là người, ý kiến ấy không nên quan niệm một cách
đơn giản, máy móc. Tuy nhiên, không đồng nhất không có nghĩa là không
thống nhất. Vì thế sự đối chiếu tư tưởng nhà văn trong nghệ thuật với con
người trong đời sống của ông ta vẫn rất có ý nghĩa” [31].
Để có thể tìm hiểu chủ thể sáng tạo qua con người xã hội, Đỗ Lai Thúy
cho rằng: con người xã hội bao giờ cũng là nhân vật hóa trang, nên muốn thấy
được bộ mặt thực của họ phải biết nhòm qua chỗ hở của mặt nạ. Đó là cá tính.
Nguyễn Đăng Mạnh chú ý nhiều đến cá tính, tính tình và tác phong sinh
hoạt của nhà văn là vì như vậy. Ông coi phong cách “phụ thuộc vào những
thói quen tâm lý và những sở trường riêng của nhà văn”. Như Xuân Diệu sợ
cô đơn, trọng thời gian, chu đáo với bạn bè; Nguyễn Tuân khó tính, ham học,
không ham viết nhiều, góc cạnh, cá tính; Nguyên Hồng xuề xòa, dễ xúc
động... Từ đó, dựng nên phong cách nhà văn như Nguyễn Tuân ngông,
Nguyên Hồng thành thực trong sự rung động cực điểm của tâm hồn...
Nghiên cứu phong cách trong mối quan hệ với nhân thân nhà văn, thực
chất là nghiên cứu tư tưởng của nhà văn đó. Tầm cỡ một nhà văn phụ thuộc
vào tầm cỡ tư tưởng của ông ta. Nguyễn Đăng Mạnh đã gọi tư tưởng của nhà
văn là tư tưởng nghệ thuật (thuật ngữ mượn của Belinski): “nhận thức bằng


18

toàn bộ con người tinh thần với tất cả nội dung phong phú và tính tổng thể

toàn vẹn của nó”. Nguyễn Đăng Mạnh coi tính chủ thể là quan trọng hơn, có
tính quyết định, bởi người nhận thức ở đây là nghệ sĩ, là những cá nhân với
những cá tính độc đáo. Từ đó, tư tưởng nghệ thuật mới là của riêng của mỗi
mình nhà văn.
Trong quá trình nghiên cứu, Nguyễn Đăng Mạnh đặt mỗi tác phẩm vào
“hoàn cảnh lớn”, “hoàn cảnh nhỏ”, tìm sự thống nhất và mối liên hệ giữa các
tác phẩm, thậm chí giữa các tình tiết rải rác trong nhiều tác phẩm, tìm sự phát
triển cuả các yếu tố qua các chặng đường sáng tác của từng tác giả rồi mới
dựng lên bộ ba vấn đề. Đó là quan điểm sáng tác – quá trình sáng tác – phong
cách nghệ thuật để thâu tóm toàn vẹn sự nghiệp của mỗi người.
Như vậy, tính cách nhà văn được tạo nên từ hoàn cảnh sống, môi trường
sống. Và chính điều đó giúp lí giải quan điểm sáng tác trong suốt quá trình sáng
tạo cũng như phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Dựa trên những nhận định
ấy của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, chúng tôi tìm hiểu những nhân tố
tác động đến sự hình thành phong cách nhà văn Võ Thị Xuân Hà.
1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách nhà văn
Võ Thị Xuân Hà
1.2.2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội những năm cuối thế kỉ XX – đầu thế kỉ XXI
Đại thắng 1975 thống nhất hai miền Nam – Bắc. Khát vọng cháy bỏng
của cả dân tộc về một nền tự do, độc lập trải qua ngót nửa thế kỉ chiến đấu
kiên cường đã trở thành hiện thực. Chiến tranh khốc liệt đã qua đi, đất nước
phấn khởi, hào hứng bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, ngay sau đó, cả dân tộc ta phải đối mặt với các khó khăn
chồng chất. Đó là thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về kinh tế, xã hội. Nhiều nhu
cầu chính đáng tối thiểu của nhân dân về cả vật chất lẫn văn hóa tinh thần
chưa được đảm bảo. Mặt khác, nảy sinh rất nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã


19


hội, những hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ chưa được xử
lí đúng đắn và kịp thời, công bằng xã hội bị vi phạm.
Thực trạng này đã lay động dữ dội niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân.
Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải: “Chiến tranh ồn ào, náo động
mà lại có cái yên tĩnh giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà lại
chứa chấp những sóng ngầm, những gió xoáy bên trong”.
Thập niên 1980, Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng Đổi mới – một
chương trình cải cách toàn diện các mặt của đời sống xã hội. Chính sách Đổi
mới được chính thức thực hiện từ Đại hội Đảng VI, năm 1986.
Đổi mới được thực hiện trên các mặt: kinh tế, xã hội, tư duy, chính trị,
văn hóa... Quan điểm đổi mới đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực
hiện. Về kinh tế: chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường,
có sự quản lí của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Về chính trị:
chuyển từ việc lãnh đạo kinh tế chủ quan, duy ý chí sang tôn trọng quy luật
khách quan của thị trường. Đổi mới văn hóa bắt đầu cùng với đổi mới kinh tế.
Đầu thế kỉ XXI, dân tộc Việt Nam đối đầu với những thử thách khó khăn
mới. Trước mắt chúng ta là thời đại của một thế giới toàn cầu hóa, một nền
kinh tế - khoa học mà sự phát triển đích thực phụ thuộc trực tiếp vào khả năng
sáng tạo của con người. Ngày nay, chúng ta đối đầu với làn sóng toàn cầu hóa
ra sao? Hòa nhập như thế nào để không hòa tan trong làn sóng ấy của lịch sử?
Làm sao để nhịp sống đương đại mang một phần hơi thở của chúng ta.
Hội nhập với thế giới có nghĩa là đi tìm cơ hội cho dân tộc mình ở phạm vi
toàn cầu. Để làm được điều đó, Việt Nam cần lắm một “tinh thần toàn cầu” –
không phải là vong bản để trở thành “thế giới” – mà là ý thức xây dựng danh dự
cho dân tộc thông qua những đóng góp của mình cho nhân loại chung.
Có thể nói, bối cảnh lịch sử xã hội đất nước trong những năm cuối thế kỉ


20


XX – đầu thế kỉ XXI có nhiều biến chuyển phức tạp. Điều này có tác động
không nhỏ đến đời sống văn hóa nước nhà.
1.2.2.2. Bối cảnh văn học Việt Nam những năm cuối thế kỉ XX – đầu thế kỉ XXI
 Vài nét về sự đổi mới tư duy và quan niệm nghệ thuật trong văn học
Việt Nam đương đại.
Sau 1975, đất nước ta từ chiến tranh chuyển sang hòa bình, từ đời sống
bất bình thường của “ngày có giặc” (Hữu Thỉnh) chuyển sang đời sống bình
thường. Những chuyện hôm qua văn học chưa kịp nói đến, chưa đề cập hết,
còn ở dưới cái nhìn phiến diện thì nay có điều kiện đề cập và nhìn lại... Nó
đòi hỏi văn học phải thay đổi và có những chuyển biến mới để theo kịp thời
đại, phù hợp với hiện thực mới của xã hội.
Quan sát sự vận động của văn học Việt Nam từ sau 1975, chúng ta dễ
dàng nhận thấy lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật có sự biến đổi thật sự mạnh mẽ
và sâu sắc. Những hiện tượng mới lạ gây dư luận ồn ào và kéo dài, những
diễn biến phức tạp và bất ngờ của quá trình tiếp nhận văn học... chủ yếu diễn
ra ở văn xuôi. Văn xuôi chuyển từ tính thống nhất, một khuynh hướng cảm
hứng sang tính nhiều khuynh hướng, từ chịu ảnh hưởng của các quy luật thời
chiến sang chịu tác động của các quy luật thời bình, nhất là quy luật của kinh
tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa. Tinh thần sử thi vốn bao trùm giai đoạn
văn học chiến tranh giờ chuyển mạnh sang nhãn quan thế sự - đời tư – phong
hóa. Sự giao lưu văn hóa đa chiều, đa phương đã góp phần thúc đẩy thêm khát
vọng tìm tòi, khám phá làm mới, làm khác của nghệ sĩ... Tất cả những yếu tố
đó ảnh hưởng đến kinh nghiệm và thị hiếu văn chương thời đại khiến cho đời
sống văn học trở nên hấp dẫn, sôi nổi. Tuy nhiên, dẫu ở thời đại nào, văn học
cũng không xa rời tiêu chí tối thượng Chân – Thiện – Mĩ của nó. Cắt nghĩa
phong cách nghệ thuật của nhà văn dưới góc độ thi pháp học là một phương



×