Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm : Một số phương pháp giúp nắm bắt tâm lý học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.43 KB, 13 trang )

Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

I TÊN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP ĐỂ HIỂU HỌC SINH TIỂU HỌC
HƠN.
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Tầm quan trọng.
Như chúng ta đã biết, học sinh tiểu học nằm trong khoảng 6-11, 12 tuổi. Đây là lứa
tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức lĩnh hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp
thu một hệ thống tri thức về các môn học, trẻ em học cách học, học kĩ năng sống trong
môi trường trường học và môi trường xã hội. Cùng với sự ảnh hưởng khá lớn của môi
trường giáo dục gia đình và quan hệ bạn bè cùng tuổi, cùng lớp và trường học, học sinh
tiểu học lĩnh hội các chuẩn mực quy tắc đạo đức của hành vi. Sự lĩnh hội trên tạo ra
những biến đổi cơ bản trong sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học. Chúng không chỉ
đảm bảo cho các em thích ứng với cuộc sống nhà trường và hoạt động học, mà còn
chuẩn bị cho các em những bước ngoặt quan trọng trong cuộc sống ở tuổi thiếu niênlứa tuổi có xu thế vươn lên làm người lớn. Về việc này, N.X.Leytex đã khắc họa: “ Tuổi
tiểu học là thời kì của sự nhập tâm và tích lũy tri thức, thời kì mà sự lĩnh hội chiếm ưu
thế. Chức năng trên được thực hiện thắng lợi nhờ các đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi
này – sự tuân thủ tuyệt đối vào những người có uy tín với các em (đặc biệt là thầy, cô
giáo), sự mẫn cảm, sự lưu tâm, đặc biệt là thái độ vui chơi ngây thơ đối với các đối
tượng mà các em được tiếp xúc.
Chính vì vậy, việc tiếp xúc, tìm hiểu tâm tư , tình cảm, suy nghĩ của các em là vô
cùng cần thiết nhằm giúp người lớn chúng ta hiểu được các nhu cầu của lứa tuổi các
em. Từ đó đáp ứng một cách thiết thực nhất để tạo động lực cho sự phát triển về thể
chất lẫn tinh thần của học sinh.

1


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

2. Thực trạng ban đầu :


Ở bất kì một cấp học nào, việc lắng nghe, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của thầy cô
giáo đối với học sinh cũng hết sức cần thiết, đặc biệt là học sinh tiểu học. Các em là lứa
tuổi còn non nớt, giống như những mầm xanh vừa mới vươn lên trong cuộc sống xã hội,
cần sự bao bọc, che chở, thương yêu.
Tuy nhiên, thực trạng của nền giáo dục nước ta hiện nay không được như vậy. Vẫn
còn đâu đó hình ảnh nghiêm khắc, uy quyền của người thầy, vẫn còn nhiều tình trạng
“thầy nói trò phải nghe”, học sinh giống như chiếc máy thu âm, nghe, nghe và nghe.
Không hiếm tình trạng trẻ đi học nghe thầy cô quát tháo, đến lúc về nhà thì lại không
muốn tới trường vì sợ. Đó phải chăng là lỗi của các em ? Không, đó là lỗi của người
lớn, những người chưa thực sự hiểu học sinh mình cần gì, thích gì, sợ gì.
Tất nhiên không thể đánh đồng hay đổ lỗi cho các nhà giáo hay nền giáo dục, vì đó
cũng chỉ là một phần, một vùng tối trong toàn bộ mảnh đất giáo dục của chúng ta.
Nhưng chúng ta cũng không vì thế mà bỏ qua mảng tối đó, chúng ta phải biết nhìn
thẳng vào sự thật để thay đổi, để thanh lọc nhằm tạo ra một môi trường học tập tốt nhất
cho học sinh tiểu học bằng việc lắng nghe.
3. Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ thực trang nêu trên, bản thân tôi thấy răng cần phải có sự thay đổi trong
nhận thức và cách tiếp cận, tạo ra một hướng đi mới để gần gũi với học sinh hơn, hiểu
được các em hơn. Đó là lí do tôi chọn đề tài “Một số phương pháp tìm hiểu suy nghĩ,
tâm tư của học sinh tiểu học.”

2


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

4. Giới hạn của đề tài
Suy nghĩ, tâm tư của bất kỳ cấp học nào cũng cần phải tìm hiểu, lắng nghe. Nhưng
do thời gian và đặc thù công tác nên tôi chỉ giới hạn trong phạm vi “Một số phương
pháp tìm hiểu suy nghĩ, tâm tư của học sinh tiểu học.”

III. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học, công nghệ. Đất nước ta đứng trước cơ hội lớn
những cũng không ít thách thức, đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực vừa hồng vừa
chuyên để phục vụ đất nước. Và thực tế, giáo dục đã được Đảng và Nhà nước ta đặt lên
hàng đầu.
Đối với giáo dục tiểu học, đây là bước nhằm “giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển dúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và
các kĩ năng cơ bản”. Từ những yêu cầu đó, chúng ta thấy rằng cần phải xây dựng cho
các em một môi trường học tập thân thiện, tích cực và lành mạnh, mà việc lắng nghe,
hiểu được các em cũng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Chạy theo những yêu cấp thiết của cuốc sống, nhiều lúc chúng ta quên mất có những
tâm hồn cần được bao bọc, yêu thương. Nhiều gia đình, cha mẹ lo làm ăn để tích cóp
cho con nhưng lại quên mất con mình phải một mình đối diện với những khó khăn
trong buổi đầu bước ra với cuộc sống. Hay có những thầy cô giáo thương học trò nhưng
chưa biết cách lắng nghe, khi các em mắc lỗi thì quát tháo, thậm chí là dùng thước để
phát các em. Ông bà ta có câu “thương cho roi cho vọt”, nhưng tâm hồn trẻ con giống
như tờ giấy trắng, một khi đã bị chúng ta làm nhàu đi thì thế nào cũng sẽ còn lại những
đường nét xấu xí đó cho đến tận mai sau.

3


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

Thực tế tại địa phương tôi đang công tác, bố mẹ các em hầu hết là công nhân. Chính
thời gian eo hẹp như vậy nên không thể nào đi sau, đi sát với các em để lắng nghe
những tâm tư nguyện vọng của con cái, từ đó khiến nhiều em cảm thấy cuộc sống
không còn vui vẻ. Vậy tại sao người thầy không thể là người xoa dịu những vết thương
cho các em, hay chỉ đơn giản là tránh gây những vết thương mới cho tâm hồn các em ?

Chính vì câu hỏi đó mà tôi đã cố gắng hết sức để mình được làm bạn với các em học
sinh của mình để nghe và hiểu các em hơn.
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Bác Hồ đã từng nói :
Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan.
Chúng ta, những người thầy giáo, cô giáo phải là những người đồng hành với các em
trên quãng đường quan trọng này. Để làm được điều đó, chúng ta phải gần gũi, lắng
nghe, thấu hiểu bằng nhiều kênh, nhiều phương pháp và thực hiện thường xuyên liên
tục. Và đây cũng là nội dung chính trong sáng kiến kinh nghiệm này của tôi.
1. Lắng nghe học sinh.
Đối với người lớn chúng ta, khi ý kiến của mình đưa ra bị người khác quay lưng,
không chấp nhận thì chắc chắn sẽ cảm thấy thất vọng, khó chịu. Học sinh cũng vậy, lứa
tuổi tiểu học là lứa tuổi các em đang muốn được chấp nhận, chấp nhận cả về hành động
lẫn ý thức, cảm xúc. Và thật khó khăn cho các em chừng nào khi chúng ta bỏ qua những
mong muốn của trẻ thông qua việc bày tỏ ý kiến cá nhân. Chỉ một lần quay lưng thôi là
đủ để các em mất tự tin và không dám bày tỏ thêm lần khác.

4


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

Bây giờ nếu có câu hỏi : Bà dì ghẻ trong truyện Tấm Cám có phải là người xấu hay
không ? Chắc hẵn chúng ta sẽ trả lời là có. Thế nhưng, học sinh của tôi có em phát biểu
thế này : Bà dì ghẻ là người xấu, nhưng cũng có điểm tốt, đó là thương con. Bà chỉ
không thương con của người khác như thuong con mình mà thôi. Đó, nếu chúng ta
không khuyến khích các em thì liệu có được nghe một câu trả lời hay, một sự bày tỏ
chính kiến rất già dặn như vậy hay không ?
Chúng ta - những người làm giáo dục - luôn muốn đem đến cho học sinh mình

những gì tốt đẹp nhất. Vậy tại sao chúng ta không bắt đầu từ những điều giản dị và gần
gũi nhất : Lắng nghe và học cách lắng nghe.
1.1 Lắng nghe trong giờ học.
Trong những giờ học, với học sinh là cả một khoảng trời mới và nhiều điều thú vị.
Thông qua sự truyền đạt, hướng dẫn của giáo viên, các say mê khám phá, tìm hiểu và
đưa ra ý kiến cá nhân đối với vấn đề đang học. Và giáo viên phải là người lắng nghe ý
kiến của các em. Tất nhiên, không phải ý kiến nào các em đưa ra cũng đúng, cũng hay
và sát với vấn đề. Điều quan trọng là chúng ta luôn phải lắng nghe các ý kiến đó với tất
cả sự chăm chú của mình, để học sinh biết rằng mình có quan tâm tới ý kiến các em.
Với cá nhân tôi, không có ý kiến nào của học sinh là sai cả, chỉ đơn giản là chưa đúng.
Và trách nhiệm của chúng ta không phải đi bác bỏ những ý kiến đó mà phải định hướng
cho nó dần trở nên đúng, từ đó khơi dậy sự ham học hỏi, khám phá cũng như tư duy ở
các em, giúp chúng ta trở nên gần gũi với các em hơn.
2. Lắng nghe ngoài giờ học.
Ngoài giờ học, chắc chắn sẽ không giáo viên nào tránh khỏi cảnh học sinh của mình
nô đùa quá mức dẫn đến thương tích, thậm chí gây gỗ đánh nhau hoặc buồn rầu, xa lánh
bạn bè. Thay vì ngay lập tức phán xét hành vi của các em, sao chúng ta không tìm hiểu

5


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

nguyên nhân dẫn đến hành vi của các em để có cách giải quyết ổn thỏa ? Đó là lí do
chúng ta phải lắng nghe các em.
Những lúc các em vui, buồn hay tức giận, sợ hãi,…là những lúc các em mong được
lắng nghe nhiều nhất. Hãy thử tưởng tượng, khi chúng ta đang tức giận một ai đó, lại có
một người khác đứng bên cạnh yêu cầu chúng ta phải làm thế này, làm thế kia thì tâm
trạng của chúng ta sẽ như thế nào và phản ứng ra sao ? Và chúng ta cũng phải đặt mình
vào vị trí của học sinh để hiểu rằng : các em cũng giống như chúng ta.

Ví dụ : Trong giờ giải lao, nếu có một học sinh nào của lớp đánh nhau với bạn khác
thì chúng ta sẽ làm gì ? Đa số chọn giải pháp trách phạt, viết kiểm điểm,…bản thân tôi
cũng từng chọn giải pháp này. Tuy nhiên, thay vì trách phạt ngay lập tức, tại sao chúng
ta không nhẹ nhàng hơn với trẻ ?
Cá nhân tôi đã thử làm với một vài trường hợp và thấy có kết quả tốt hơn là việc
trách phạt các em. Bây giờ nếu gặp trường hợp như ví dụ, tôi sẽ ngồi riêng với em đó,
và thật nhẹ nhàng ( để các em bình tĩnh ) hỏi nguyên nhân của cuộc đánh nhau. Lúc
này, các em sẽ kể cho tôi nghe tất cả diễn biến sự việc. Thật ra, tôi không đi tìm nguyên
nhận sự việc để xem ai đúng ai sai mà chủ yếu giúp cho học sinh suy nghĩ lại bản thân.
Bởi khi trẻ kể lại sự việc một cách rõ ràng, chính các em cũng đang suy xét lại sự việc
vừa xảy ra một cách cụ thể hơn, từ đó nhận ra những ứng xử chưa đúng của bản thân.
Và thật ngạc nhiên, một số em còn đưa ra những hướng giải quyết tích cực cho sự việc
xảy ra.
Và còn một điều nữ, khi lắng nghe học sinh bày tỏ cảm xúc của mình, chúng ta cần
phải tỏ ra tôn trọng cảm xúc của các em bằng cách dùng những thán từ như à, ừ, uhm,
…để cho các em thấy rằng chúng ta đang đồng ý với những cảm xúc của các em, để các
em cảm thấy gần gũi và muốn chia sẽ nhiều hơn với chúng ta.

6


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

2. Giáo viên phải là một người bạn tin cậy của các em.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta gặp không ít khó khăn, trở ngại. Và những lúc
như thế, ta luôn cần đến một người bạn để chia sẻ, giúp vơi bớt những ức chế về mặt
tâm lý. Trẻ cũng vậy, các em cũng có nhu cầu chia sẻ, và không ai tốt hơn một người
bạn tin cậy. Đối với chúng ta, những việc của các em là những việc bình thường, nhưng
đối với các em thì đó là những sự việc rất to tát, nghiêm trọng. Biết được như vậy,
chúng ta vừa phải là người thầy, người cô mẫu mực, đồng thời vừa phải làm một người

bạn đáng tin cậy để các em mạnh dạn chia sẻ, để chúng ta hiểu các em hơn.
Có những lúc chúng ta thấy một em học sinh nào đó buồn rầu hoặc hay giận dữ vô
cớ, hay cáu gắt,…Đó là biểu hiện tâm lý không bình thường của trẻ. Để hiểu được
nguyên nhân, chúng ta phải làm cho trẻ chia sẻ với chúng ta. Nhưng làm cách nào ?
Làm cho trẻ hiểu được chúng ta là một người bạn - người bạn đáng tin cậy.
Thực tế cho thấy, đa số học sinh tiểu học có xu hướng làm thân, thích gần gũi với
giáo viên. Bởi vì điều này giúp các em cảm thấy hãnh diện với bạn bè vì được nói
chuyện với thầy, cô - điều mà các em cho là rất to tát. Hiểu được tâm lý này, giáo viên
chúng ta không khó để tiếp cận một cách thân mật với các em. Chỉ cần vài câu hỏi về
gia đình, bản thân với một sự quan tâm chân thành, từ đó giúp các em chuyển từ chia sẻ
thụ động dần dần sang thành nhu cầu cần chia sẻ.
Một điều rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến việc chúng ta có “được làm bạn” với
các em hay không chính là mức độ gần gũi giữa chúng ta với học sinh trong sinh hoạt
hằng ngày. Lấy ví dụ đơn giản : Bản thân tôi là giáo viên chủ nhiệm lớp 3, nhưng hằng
ngày trong giờ giải lao hoặc giờ ăn bán trú, tôi luôn trò chuyện, vui đùa cùng các em
lớp 1, lớp 2. Từ đó, các em lớp 1, lớp 2 luôn muốn kết thân với tôi, kể hết những
chuyện ở nhà của các em. Bây giờ thì các em đã xem tôi như một kênh chia sẻ những

7


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

chuyện xảy ra xung quanh mình, hay đã xem tôi như một người bạn ( mặc dù chính bản
thân các em chưa ý thức được điều này).
Làm bạn với các em, gần gũi với các em đôi lúc chúng ta phải chấp nhận một điều
rằng : Nhiều khi các em gần gũi với mình quá lại sinh ra hội chứng “lờn mặt”. Tức là có
nhiều lúc không cảm thấy sợ thầy cô của mình, hay đúng hơn là quên mất mối quan hệ
thầy - trò mà chỉ nghĩ trong đầu mối quan hệ bạn bè. Điều này không phải lỗi của các
em. Mà chúng ta phải vừa là bạn, vừa là thầy, lắng nghe các em nhưng cũng phải luôn

nhắc nhở các em về nhiệm vụ học tập, về tình thầy trò để các em không quên những
nhiệm vụ trước mắt.
Giả sử, một em học sinh nào đó kể với chúng ta về một người bạn vừa không chơi
với em nữa ( đối với trẻ thì việc này to tát như chúng ta bị người yêu chia tay vậy). Lúc
này, chúng ta giống như một người bạn để trẻ chia sẻ những cảm xúc giận dữ, hụt hẫng,
thất vọng,…và chúng ta phải lắng nghe với sự thông cảm tuyệt đối, dần dà sẽ xoa dịu
cảm xúc của trẻ. Khi đã thổ lộ xong những suy nghĩ của mình với chúng ta, thấy có một
người khác sẵn sàng ngồi nghe mình nói và cảm thông với mình thì trẻ sẽ hiểu ra rằng
đó là một việc bình thường, vì ở đâu trẻ cũng có những người bạn để sẻ chia.
Mặt khác, người giáo viên cũng cần phải giúp cho học sinh của mình hiểu rằng : Các
em là thành viên của một đại gia đình, và đều có tầm quan trọng đối với nhau. Từ đó
giúp các em tụ tin trong giao tiếp, hòa đồng với nhau trong sinh hoạt, đoàn kết hơn
trong học tập. Và quan trọng nhất, đối với các em, người thầy là một người bạn lớn mà
các em có thể chia sẻ bất cứ lúc nào. Trẻ con là vậy.
3. Bảo đảm và tạo cảm giác an toàn cho học sinh.
Trẻ em, đặc biệt là lứa tuổi tiểu học có nhu cầu khám phá, tìm hiểu và chia sẻ. Và
giáo viên phải là người hướng dẫn các em khám phá, đồng thời lắng nghe những suy
nghĩ, tâm tư của các em để hiểu được các em biết gì, cần gì. Và để cho học sinh mạnh
8


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

dạn chia sẻ, chúng ta phải cho trẻ cảm giác an toàn, để trẻ tự tin nêu lên ý kiến cá nhân
với chúng ta.
Đôi khi, cuộc sống gia đình không trọn vẹn như bố mẹ li dị, bố mẹ hay cáu gắt, bố
mẹ hay đánh đập,…sẽ làm cho trẻ có xu hướng sợ hãi, thậm chí là thái độ tự vệ với môi
trường xung quanh như hay cáu bẩn, gây sự, hoặc bất tuân lệnh của giáo viên, một số
khác chọn cách im lặng, sống thu mình , tự ti so với các bạn trong lớp. Với những
trường hợp này, giáo viên chúng ta phải là người xoa dịu những vết thương trong tâm

hồn các em, giúp các em hòa đồng với lớp hơn, bớt mặc cảm tự ti hơn. Quan trọng nhất
là phải tạo cho các em cảm giác an toàn và bình yên. Chưa chắc các em buồn, chúng ta
hỏi han mà các em chịu thổ lộ ngay, vì cảm giác không an toàn, các em không biết nói
ra rồi có bị phạt hay la mắng gì không. Lúc này, người thầy phải mở lời trước, có thể kể
cho các em nghe một câu chuyện của mình ngày nhỏ, cũng có lúc giống như em bây giờ
và cần người chia sẻ,…để em thấy được việc chia sẻ tình cảm, tâm tư với chúng ta là
hoàn toàn vô hại với các em, giúp các em bước ra khỏi vỏ ốc của mình để mở lòng hơn
với chúng ta, và chúng ta thì hiểu được các em hơn.
Nếu trong việc lắng nghe các em, chúng ta là bạn, thì bây giờ, để xoa dịu các em
chúng ta phải là cha, là mẹ, là gia đình thứ hai để các em tìm được sự nương tựa trong
tâm hồn. Cách đây không lâu, trong lúc rảnh rỗi tôi có nói chuyện với học sinh mình.
Tôi hỏi các em về một đoạn quảng cáo tết của Neptune, một đoạn quảng cáo xúc động
về tình cảm thiêng liêng của gia đình. Đa số các em đều trả lời là đã xem rồi, và GẦN
NHƯ KHÓC. Đơn giản như vậy thôi, nhưng tôi hạnh phúc biết bao khi học sinh mình
đã biết yêu thương, và mạnh dạn chia sẻ những tình cảm đó không dấu giếm với mình.
Tình cảm của học sinh tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền với các sự
vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,...Lúc này khả năng kiềm chế cảm xúc của trẻ còn non
nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh
cười, rất hồn nhiên vô tư...
9


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

Vì thế có thể nói tình cảm của trẻ chưa bền vững, dễ thay đổi (tuy vậy so với tuổi
mầm non thì tình cảm của trẻ tiểu học đã "người lớn" hơn rất nhiều.
Người thầy, người cô phải là người đồng hành, lắng nghe các em để hiểu các em,
mang lại cho các em môi trường tốt nhất, an toàn nhất để tạo sự phát triển bền vững
trong những năm tiếp theo, xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước.
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.

Qua quá trình nghiên cứu, áp dụng với các học sinh mà trường tôi đang công tác, tôi
thấy đã có sự tiến bộ rất nhiều trong nhận thức của các em. Quan trọng nhất là tôi thấy
mình đã hiểu các em hơn, hiểu được lúc nào thì các em cần gì, và mình với vai trò
người thầy thì mình phải làm gì để đáp ứng những mong muốn của các em. Đặc biệt,
không chỉ học sinh trong lớp chủ nhiệm mà cả học sinh ngoài lớp chủ nhiệm, các em đã
trở nên gần gũi với giáo viên hơn rất nhiều, chia sẻ với giáo viên những điều mình nghĩ
( có những điều đúng hoặc chưa đúng), giúp giáo viên có định hướng đúng đắn trong
việc giáo dục và giảng dạy các em.
VII. KẾT LUẬN.
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường nhà
trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh dạn...Sau 5
năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những đặc
điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên,
trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý nghĩ
của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách của các em lúc
này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các em còn chưa được bộc lộ rõ
rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách
10


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

của các em còn mang tính đang hình thành, việc hình thành nhân cách không thể diễn ra
một sớm một chiều, với học sinh tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện
về mọi mặt vì thế mà nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình
phát triển của mình.
Hiểu được những điều này, thầy cô giáo tuyệt đối không nên "chụp mũ" nhân cách
của trẻ, trái lại phải dùng những lời lẽ nhẹ nhàng mang tính gợi mở và chờ đợi, phải
hướng trẻ đến với những hình mẫu nhân cách tốt đẹp mà không đâu xa, chính cha mẹ và

thầy cô là những hình mẫu nhân cách ấy.
VIII. ĐỀ NGHỊ.
Trên đây là những kinh nghiệm cá nhân tôi đức rút được từ quá trình công tác và
giảng dạy. Việc ghi lại không thể nào lột hết những ý kiến cá nhân cũng như không thể
tránh được sai sót, mong Ban giám hiệu nhà trường cùng các bạn đồng nghiệp quan
tâm, góp ý để tôi có những điều chỉnh tích cực hơn trong công tác giáo dục học sinh,
thực sự là tấm gương sáng để các em học tập và noi theo.

11


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

IX. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Tìm hiểu Trẻ em, tập II, Nhà Xuất bản Phụ nữ, 1985 - Nguyễn Khắc Viện.
2. “Một số vấn đề về dạy học tiểu học”- Nhà xuất bản Hà Nội.
3. Violet.vn.
4. Wikipedia.
5. Indiaparenting.

12


Một số phương pháp để hiểu học sinh tiểu hơn.

X. MỤC LỤC
I Tên đề tài ……………………………………………………………………………………...….1
II. Đặt vấn đề: ………………………………………………………………………………...……1
1. Tầm quan trọng………………………………………………………………………………....1
2. Thực trạng ban đầu :…………………………………………………………………...……….2

3. Lí do chọn đề tài……………………………………………………………….......…………….2
4. Giới hạn của đề tài…………………………………………………………………....…………3
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN……………………………………………………………….……......……3
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN………………………………………………………………………..…3
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU…………………………………………………………....………4
1. Lắng nghe học sinh……………………………………………………………...........…………4
1.1 Lắng nghe trong giờ học………………………………………………………………….……5
2. Lắng nghe ngoài giờ học……………………………………………………………………...…5
2. Giáo viên phải là một người bạn tin cậy của các em…………………………………...……..7
3. Bảo đảm và tạo cảm giác an toàn cho học sinh…………………………………………......…8
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU……………………………………………………………….…..10
VII. KẾT LUẬN………………………………………………………………………………..…10
VIII. ĐỀ NGHỊ……………………………………………………………………………..……..11
IX. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………...…………………12
X.MỤC LỤC………………………………………………………………………………………13

13



×