VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THU TRANG
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI
Chuyên ngành: CÔNG TÁC XÃ HỘI
Mã số: 60.90.01.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS LÊ THỊ HOÀI THU
HÀ NỘI – 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THU TRANG
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
HÀ NỘI – 2016
Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM HỮU NGHỊ
Phản biện 1: ……………………………………………..
Phản biện 2: ……………………………………………..
Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại: Học viện
Khoa học xã hội ………….. giờ …….ngày ………..tháng …… năm ………
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NCCVCM : Người có công với cách mạng
CTXH
: Công tác xã hội
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác xã hội với người có công với cách mạng là một bộ phận cấu
thành trong hệ thống an sinh xã hội ở nước ta, đây là công tác thực hiện chính
sách mang tính đặc thù của Việt Nam được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan
tâm. Nó không chỉ góp phần to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội mà còn
định hướng giá trị cho toàn xã hội, đặc biệt là giáo dục thế hệ trẻ, thế hệ tương
lai trong việc gìn giữ, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước. Sau chiến tranh
hàng triệu người con ra đi và nằm lại vĩnh viễn ở các chiến trường, hơn nữa
triệu người còn may mắn trở về nhưng mang trong mình thương tật, hàng
chục ngàn Bà mẹ Việt Nam anh hùng đã không còn nước mắt để khóc những
đứa con ra đi không bao giờ trở lại ... Nỗi đau này không chỉ riêng ai mà là
nỗi mất mát đau thương của toàn dân tộc. Công tác xã hội trong thực hiện
chính sách không chỉ là vấn đề trước mắt mà còn có ý nghĩa lâu dài, mang tính
nhân văn sâu sắc, góp phần ổn định chính trị - xã hội; thực chất, đúng nghĩa là
đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, là sự “Đền ơn
đáp nghĩa” chứ không phải là việc ban ơn.
Tuy nhiên, từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi cho thấy thực hiện các dịch vụ
công tác xã hội phục vụ chính sách này còn nhiều hạn chế, bất cập, đó là: do
hậu quả chiến tranh để lại hết sức nặng nề, kinh tế xã hội của tỉnh vẫn còn
nhiều khó khăn, nên mặc dù được Đảng và Nhà nước và toàn xã hội hết sức
quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ nhưng cuộc sống của một bộ phận người có công
với cách mạng vẫn còn khó khăn. Chăm lo đời sống vật chất, ổn định đời sống
cho đối tượng là người có công với cách mạng vẫn còn nhiều bất cập như: chưa
có các hoạt động trợ giúp xã hội đúng nghĩa; thực hiện các dịch vụ công tác xã
hội chưa phủ kín; chưa có khoa học nên chưa đạt mục tiêu ưu đãi xã hội gắn
liền tiến bộ và công bằng xã hội; Nhiều chế độ ưu đãi được qui định ở Pháp
lệnh ưu đãi người có công với cách mạng chưa được triển khai đầy đủ. Phong
trào chăm sóc đời sống cho người có công với cách mạng qua các chương trình
tình nghĩa đang có xu hướng giảm dần và còn mang nặng tình hình thức. Quỹ
“Đền ơn đáp nghĩa” hoạt động hiệu quả thấp và chưa mang ý nghĩa của công
tác xã hội cao cả của nó.
Nhằm góp phần nâng cao năng lực cho người có công với cách mạng
và tạo điều kiện cho họ có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ công tác xã hội để tự
thay đổi và phát triển tại cộng đồng, đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu thực trạng về
đối tượng là người có công với cách mạng cũng như các hoạt động trợ giúp đã
triển khai, qua đó đề xuất các giải pháp phù hợp theo đúng định hướng, trợ giúp
cho người có công với cách mạng và gia đình họ sống ổn định, phát huy tiềm
năng bền vững tại cộng đồng.
Xuất phát từ những lý do trên, gắn với thực tế công tác của bản thân,
tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Dịch vụ Công tác xã hội đối với người có công
với cách mạng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” để làm luận văn tốt nghiệp khoá
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng đã được nhiều tác
giả quan tâm, nghiên cứu và công bố các kết quả nghiên cứu. Song đề tài
dịch vụ công tác xã hội cho người có công với cách mạng vẫn chưa được
nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả
đã có điều kiện tiếp cận các công trình như sau:
- Nguyễn Đình Liêu (1996), Luận án Phó tiến sĩ khoa học luật học:
“Hoàn thiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở Việt Nam - Lý
luận và thực tiễn”. [15]
Bên cạnh đó có những nghiên cứu, bài viết có nội dung liên quan đến
đề tài luận văn này, như:
- Nguyễn Văn Thành (1994), Luận án tiến sĩ kinh tế: “Đổi mới chính
sách kinh tế - xã hội đối với người có công ở Việt Nam”. [24]
- Đỗ Thị Dung (2010), “Đối tượng hưởng ưu đãi xã hội và một số
kiến nghị”, Tạp chí Luật học, (số 8), [4, tr. 10-17].
- Hoàng Công Thái (2005), “Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối
với người có công”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 7), [23,tr. 28-31].
- Nguyễn Hiền Phương (2008), “Quan niệm về an sinh xã hội trên thế
giới và ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (số 1), [20, tr. 45-54].
- Nguyễn Tiệp và Nhóm biên soạn (2011), Giáo trình “Các vấn đề
chung về chính sách xã hội”, Trường Đại học Lao động – Xã hội [27].
- Lê Thị Hoài Thu (2006), Đề cương bài giảng Pháp luật an sinh xã
hội Việt Nam - chương trình đào tạo sau đại học [25].
- Phạm Hữu Nghị, (2015) Giáo trình bài giảng Công tác xã hội với
người có công với cách mạng, chương trình đào tạo sau đại học [19].
Đối với tỉnh Quảng Ngãi, qua tìm hiểu đến nay chưa có những
chương trình cũng như đề tài nghiên cứu về dịch vụ công tác xã hội đối với
người có công với cách mạng nhằm đưa ra những khuyến nghị hợp lý và xác
thực để có hướng trợ giúp nhóm đối tượng này. Vì vậy đề tài mà tôi lựa chọn
là hoàn toàn không bị trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chung của đề tài nghiên cứu: “Dịch vụ công tác xã hội đối
với người có công với cách mạng” cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Trên cơ sở đó đề tài đánh giá dịch vụ công tác xã hội về sự chuyển tải chính
sách của nhà nước đối với người có công với cách mạng và giải pháp phát
triển dịch vụ công tác xã hội cho người có công với cách mạng trong thời
gian tới, góp phần thực hiện công bằng xã hội đồng thời hoàn thiện, nâng cao
năng lực nghề Công tác xã hội chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Mục đích cụ thể của đề tài: đánh giá về thực trạng dịch vụ công tác
xã hội và thực thi dịch vụ công tác xã hội trong chính sách ưu đãi đối với
người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2011 2015. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao dịch vụ công tác xã
hội trong việc chuyển tải chính sách của nhà nước đối với người có công với
cách mạng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thời gian đến; đồng thời hoàn thiện,
nâng cao năng lực nghề Công tác xã hội chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi, đảm bảo người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi được tiếp cận đầy đủ, tốt nhất với các dịch vụ công tác xã hội chuyên
nghiệp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa, phân tích, đánh giá hệ thống chính sách người có
công với cách mạng và việc tổ chức thực thi các dịch vụ công tác xã hội đối
với người có công với cách mạng ở tỉnh Quảng Ngãi.
- Làm rõ những hạn chế, bất cập của Dịch vụ công tác xã hội trong
việc thực thi chính sách đối với người có công với cách mạng từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ngãi.
- Đề xuất một số định hướng và các giải pháp để hoàn thiện các dịch
vụ công tác xã hội trong việc tổ chức chuyển tải chính sách của nhà nước đối
với người có công với cách mạng ngày càng hoàn thiện, hiệu quả và đúng
nghĩa hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các loại hình dịch vụ công tác xã hội đối với người
có công với cách mạng.
- Người có công với cách mạng được quy định tại Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng đang sinh sống và hưởng trợ cấp xã hội tại tỉnh
Quảng Ngãi.
- Nhân viên công tác xã hội và tổ chức làm công tác trong lĩnh vực
chăm sóc người có công tại tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi đối tượng: nghiên cứu lý luận và thực trạng về dịch vụ công
tác xã hội đối với người có công với cách mạng từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ngãi, cụ thể là các dịch vụ: hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, tham vấn – tư vấn tâm
lý, hỗ trợ sinh kế, dịch vụ trợ giúp kết nối và dịch vụ hỗ trợ tiếp cận chính
sách đối với người có công với cách mạng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi về khách thể: 100 người có công với cách mạng trên tổng số
hơn 50 ngàn người có công với cách mạng đang sinh sống và hưởng trợ cấp
xã hội tại tỉnh Quảng Ngãi.
- Phạm vi về địa bàn: Nghiên cứu tại 04 huyện Ba Tơ, Trà Bồng đại
diện cho 6 huyện miền núi và Mộ Đức, Bình Sơn đại diện cho 6 huyện đồng
bằng - tỉnh Quảng Ngãi.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Thông qua nghiên cứu, thu thập, xử lý, khái quát hóa những thông tin,
những nghiên cứu thuộc các vấn đề liên quan đến đề tài theo Chủ nghĩa duy
vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng từ đó phân tích, tổng hợp nhằm
xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu: “Dịch vụ CTXH đối với người
có công với cách mạng từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” .
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng dịch vụ dịch vụ công tác xã hội trợ giúp đối với
người có công với cách mạng tại tỉnh Quảng Ngãi như thế nào, đã tương
xứng với nhu cầu thực tế hay chưa? Thực trạng đời sống kinh tế, xã hội của
người có công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi; Nhu cầu của
người có công với cách mạng gồm những gì? Dùng các phương pháp sau
đây:
Điều tra bằng bảng hỏi: Điều tra bằng bảng hỏi tiến hành phỏng vấn
trực tiếp với 100 người có công với cách mạng được lựa chọn ngẫu nhiên,
mỗi huyện 25 người được lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách người có công
đang nhận trợ cấp tại huyện. Nhằm thu thập thông tin để làm rõ thực trạng
nhu cầu hỗ trợ từ các chính sách, dịch vụ công tác xã hội đối với người có
công với cách mạng.
Quan sát thực tế: Được tận mắt chứng kiến đời sống tâm lý của người
có công với cách mạng thông qua các hoạt động vãng gia. Song song với quá
trình điều tra bằng bảng hỏi, các thông tin thu thập được trong quá trình quan
sát sẽ làm cơ sở bổ sung cho các thông tin liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu.
Phỏng vấn trực tiếp (phỏng vấn sâu): Chọn ngẫu nhiên một số người
đã được điều tra bằng bảng hỏi, tiến hành phỏng vấn sâu để thu thập thêm
thông tin định tính liên quan.
5.3. Phương pháp thống kê toán học (Xử lý số liệu)
Dùng các phương pháp toán thống kê để tính toán xử lý số liệu thu
được qua nghiên cứu định tính.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Các đóng góp của luận văn góp phần bổ sung, làm phong phú thêm hệ
thống cơ sở dữ liệu cho việc phân tích, hệ thống hoá những vấn đề lý luận
chung về nghề Công tác xã hội và các dịch vụ công tác xã hội đối với người có
công với cách mạng, nhằm có những kế hoạch, chương trình và quy phạm hóa
các dịch vụ công tác xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
- Đề tài luận văn là kết quả nghiên cứu thực tế, đánh giá đúng thực
trạng Dịch vụ công tác xã hội và quản lý Công tác xã hội đối với người có công
với cách mạng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Qua đó, nêu ra những hạn chế, bất
cập trong việc thực hành nghề Công tác xã hội ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng cả
nước nói chúng trong giai đoạn nghề Công tác xã hội mới hình thành.
- Nêu quan điểm, định hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện các Dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách mạng trong
thời gian tới.
- Giúp các nhà quản lý, cơ quan ban hành chính sách, các nhà hoạt
động xã hội, nhân viên công tác xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tham
khảo để bổ sung, hoàn thiện và vận dụng vào tình hình thực tế của địa
phương, đơn vị.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Lận văn
gồm những nội dung sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Dịch vụ công tác xã hội đối với
người có công với cách mạng.
Chương 2: Thực trạng về Dịch vụ công tác xã hội đối với người có
công với cách mạng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp tổ chức hoạt động cung
cấp dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách mạng từ thực tiễn
tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm về người có công với cách mạng
1.1.1.1. Định nghĩa
Theo nghĩa rộng: Người có công là những người không phân biệt tôn
giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài
năng, trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp dựng nước, giữ
nước và kiến thiết đất nước. Họ là người có những thành tích đóng góp hoặc
những cống hiến xuất sắc phục vụ vì lợi ích của đất nước, của dân tộc được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo qui định của pháp luật. Ở đây có
thể thấy rõ những tiêu chí cơ bản của người có công, đó là phải có đóng góp,
cống hiến xuất sắc và vì lợi ích của dân tộc. Những đóng góp, cống hiến của họ
có thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và cũng có
thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Theo nghĩa hẹp: Người có công là những người không phân biệt tôn giáo,
tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác có những đóng góp, những cống hiến xuất
sắc trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng
chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền công nhận theo qui định của pháp luật. Ở khái niệm này, người có công
bao gồm người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời
mình hoặc một phần thân thể hoặc có thành tích đóng góp cho sự nghiệp cách
mạng.
Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của người có công như
sau:
Thứ nhất, người có công bao gồm người tham gia hoặc giúp đỡ cách
mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời mình hoặc một phần thân thể hoặc có thành
tích đóng góp cho sự nghiệp cách mạng.
Thứ hai, người có công là người có thành tích đóng góp hoặc cống hiến
xuất sắc và vì lợi ích của dân tộc, những đóng góp, cống hiến của họ có thể là
trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc và cũng có
thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ ba, phạm trù người có công rất rộng, trong phạm vi hẹp, đối tượng
người có công là những người có công trong các cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở thời kỳ cách mạng dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Hơn nữa, chính sách người có công với cách mạng
chủ yếu điều chỉnh đối tượng này.
Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2015 (sửa đổi năm
2012) có quy định: Người có công với cách mạng [35] bao gồm:
- Là những người có công với cách mạng được quy định tại Pháp lệnh ưu
đãi người có công với cách mạng, cụ thể:
+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 là
người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức
cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945.
+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày
khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 là người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
công nhận đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly
hoạt động cách mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945.
+ Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân
dân được Nhà nước truy tặng Bằng “Tổ quốc ghi công” thuộc một trong các
trường hợp pháp luật quy định.
Quy định về thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp
“Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ” và được hưởng chế độ ưu đãi.
+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng là những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy
sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc
tế và pháp luật đã liệt kê những trường hợp quy định những người là Bà mẹ
Việt Nam anh hùng.
+ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong
kháng chiến là người được Nhà nước tặng hoặc truy tặng danh hiệu “Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân”; người được Nhà nước tuyên dương Anh hùng
Lao động trong thời kỳ kháng chiến vì có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao
động, sản xuất phục vụ kháng chiến.
+ Thương binh, người được hưởng chính sách như thương binh:
Thương binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm
khả năng lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp
“Giấy chứng nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh” thuộc một trong
các trường hợp theo quy định tại khoản 12, Điều 1 của Pháp lệnh số
04/2012/UBTVQH13;
Người hưởng chính sách như thương binh là người không phải là quân
nhân, công an nhân dân, bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở
lên thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 12, Điều 1 của Pháp
lệnh số 04/2012/UBTVQH13, được cơ quan có thẩm quyền cấp “Giấy chứng
nhận người hưởng chính sách như thương binh”.
+ Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị có
thẩm quyền cấp “Giấy chứng nhận bệnh binh” thuộc một trong các trường hợp
theo quy định tại khoản 15, Điều 1 của Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13.
+ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học là người
được cơ quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục
vụ chiến đấu từ tháng 8 năm 1961 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại các vùng
mà quân đội Mỹ sử dụng chất độc hoá học và do nhiễm chất độc hoá học dẫn
đến một trong các trường hợp: mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động từ
21% trở lên; vô sinh; sinh con dị dạng, dị tật.
+ Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt
tù, đày là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong
thời gian bị tù, đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến,
không làm tay sai cho địch.
+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và
làm nghĩa vụ quốc tế là người tham gia kháng chiến được tặng Huân chương
kháng chiến, Huy chương kháng chiến.
+ Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ
cách mạng trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm: Người được tặng Kỷ niệm
chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”; người trong gia
đình được tặng Kỷ niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với
nước” trước cách mạng tháng Tám năm 1945; người được tặng Huân chương
kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến; người trong gia đình được tặng
Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương kháng chiến.
Từ những quy định của nhà nước và những quan niệm trên có thể khái
niệm người có công với cách mạng, như sau:
Người có công với cách mạng là những người không phân biệt tôn
giáo, dân tộc, nam nữ, tuổi tác trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng, làm
nghĩa vụ quốc tế hoặc đóng góp giúp đỡ cách mạng bằng nhiều hình thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, bản thân họ đã hy sinh, bị
thương, bị bệnh, bị nhiễm chất độc hóa học bản thân và di chứng cho con,
người bị tù đày trong chiến tranh, người có con độc nhất hy sinh, có 2 người
con hy sinh hoặc có chồng và con hy sinh (Bà Mẹ Việt Nam anh hùng) và
những người có hành động dũng cảm hy sinh để cứu người trong thời bình
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
1.1.1.2. Đặc điểm tâm lý, nhu cầu của người có công với cách mạng
* Đặc điểm tâm lý của người có công với cách mạng
Người có công với cách mạng họ luôn có ý thức tự hào về quá khứ
cống hiến của mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, có tinh thần trách
nhiệm giữ gìn những phẩm chất và truyền thống cách mạng của nhân dân ta,
quân đội ta. Đại bộ phận người có công với cách mạng luôn gương mẫu trong
đời sống và công tác, trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa mà bản thân họ
đã không ngại hy sinh, gian khổ để chiến đấu và bảo vệ.
Người có công với cách mạng rất mong được mọi người quan tâm,
chăm sóc hơn những người bình thường. Do tâm trạng cảm thấy thua thiệt
trong cuộc sống và công việc… Những người có công với cách mạng thuộc đối
tượng là người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 hoặc
người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945 hiện nay còn sống rất ít và tuổi đã cao nên họ có nếp sống
khiêm tốn, giản dị, ít đòi hỏi quyền lợi cá nhân về đời sống vật chất nhưng về
đời sống tinh thần, nhất là thông tin thời sự, chính trị khá cao, thích tìm hiểu
bình luận tình hình trong nước và thế giới, muốn có bạn bè để ôn lại những kỷ
niệm xưa…
Những người có công với cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
cứu nước đa số ở tuổi trung niên và bước vào tuổi cao, có trình độ văn hóa
và chính trị, nhạy cảm với chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước, nhất là
những vấn đề liên quan tới họ, họ có ý thức tự chủ, tự kiềm chế, đúng đắn,
hăng hái nhiệt tình tham gia các hoạt động xã hội. Bên cạnh đó, có một số
trường hợp cá biệt có biểu hiện tư tưởng công thần, đòi hỏi, lợi dụng các
chính sách để làm các việc sai trái…
Những người có công với cách mạng thời kỳ 1975 trở lại đây đa số tuổi
còn trẻ, trình độ học vấn cao. Họ có ý thức giữ gìn phẩm chất, truyền thống của
quân đội, chấp hành chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, còn
một số ít người vẫn nặng về tâm lý thấy mình thua thiệt anh em, bạn bè cùng lứa,
dẫn đến có cách nhìn phiến diện, thấy mình thua thiệt, sinh hoài nghi thiếu tin
tưởng.
* Đặc điểm về nhu cầu của người có công với cách mạng
Cũng như mọi người, người có công với cách mạng rất cần có cuộc
sống vật chất, tinh thần đầy đủ và hạnh phúc bên gia đình, mặt khác họ có nhiều
cống hiến hy sinh cho đất nước, chịu nhiều thiệt thòi mất mát vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, do đó họ rất cần được mọi người
tôn trọng, quan tâm chăm sóc, chia sẻ và động viên để họ vơi đi nỗi đau mất
mát người thân và quên đi bệnh tật do hậu quả của chiến tranh để lại. Tất cả bản
thân người có công với cách mạng đều mong muốn được các cấp chính quyền
cũng như các ban ngành đoàn thể quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần,
như: thăm hỏi, tặng quà, tham quan, nghỉ dưỡng; chi trả trợ cấp phụ cấp kịp
thời, đầy đủ… Vì đây là đối tượng đặc biệt, họ hy sinh cả tuổi xuân, tính mạng
của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Do vậy, nhà nước và cộng đồng xã
hội phải có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần đối với họ để thể
hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc Việt
Nam.
1.1.2. Khái niệm dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách
mạng.
1.1.2.1. Dịch vụ công tác xã hội
Dịch vụ: Theo Từ điển Tiếng Việt Dịch vụ là công việc phục vụ trực
tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công
(Từ điển Tiếng Việt 2004, NXB Đà Nẵng, trang 256).
Theo khái niệm trên chúng ta hiểu rằng: dịch vụ là công việc hay
công tác phục vụ cho số đông những người có nhu cầu nhất định, có tổ chức
và được trả công.
Dịch vụ xã hội: Dịch vụ xã hội là các hoạt động cụ thể được xây
dựng trên cơ sở chính sách xã hội được triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu cá
nhân, gia đình, cộng đồng, nhằm giải quyết những vấn đề xã hội. Các dịch
vụ xã hội là các hoạt động của nhân viên xã hội và những nhà chuyên nghiệp
khác nhằm nâng cao sức khỏe và chất lượng sống của con người và giúp đỡ
con người không phụ thuộc; củng cố các mối quan hệ gia đình; khôi phục
chức năng xã hội đối với các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng [17].
Từ những khái niệm trên có thể rút ra khái niệm Dịch vụ công tác xã
hội như sau:
Dịch vụ công tác xã hội là cung cấp các hoạt động công tác xã hội
chuyên nghiệp, theo triết lý, giá trị, nguyên tắc và phương pháp nghề công
tác xã hội nhằm can thiệp, hỗ trợ các cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và
hệ thống xã hội đạt được sự thay đổi trong chức năng xã hội, giải quyết
những vấn đề xã hội, thúc đẩy phúc lợi xã hội và công bằng xã hội, phát
triển nghề công tác xã hội.
1.1.2.2. Khái niệm dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với
cách mạng
Dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách mạng là
cung cấp các hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp nhằm chuyển tải
chính sách ưu đãi của nhà nước và sự tôn vinh của xã hội đến với người có
công với cách mạng, trên cơ sở triết lý, giá trị, nguyên tắc và phương pháp
nghề công tác xã hội để đạt được sự thay đổi đời sống và chức năng xã hội
của người có công với cách mạng; mặt khác dịch vụ công tác xã hội đối với
người có công với cách mạng còn phản hồi và hoàn thiện chính sách, thúc
đẩy an sinh xã hội và phát triển nghề công tác xã hội tại Việt Nam.
1.1.2.3. Ý nghĩa của dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với
cách mạng
Với đặc điểm lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử với
những cuộc đấu tranh giành nước và giữ nước nên những NCCVCM là
những người đã tham gia vào những cuộc chiến đấu cực kỳ ác liệt, họ đã
chịu nhiều hy sinh, gian khổ, mất mát cả thể chất lẫn tinh thần để phục vụ
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nước Việt
Nam độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, non sông thu về một mối, nhân dân được
xóa bỏ ách nô lệ của thực dân, đế quốc. Vì vậy, NCCVCM xứng đáng được
hưởng những chính sách ưu tiên của nhà nước và được tôn vinh của toàn xã
hội; dịch vụ CTXH đối với NCCVCM có ý nghĩa đặc biệt cao cả, đó là:
Thứ nhất, đảm bảo lợi ích cao nhất cho người có công với cách
mạng
Trên cơ sở đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
mà trọng tâm là nâng cao, chuyển tải các chính sách ưu đãi của nhà nước đã
ban hành đối với NCCVCM được thực thi một cách chính xác, đầy đủ; sử
dụng có hiệu quả nguồn lực kinh tế, tài chính của nhà nước đến với
NCCVCM mà không bị bớt xén hoặc lãng phí. Áp dụng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức cho từng đối tượng cụ thể để đảm bảo rằng sử dụng nguồn lực theo
chính sách là không thiếu, không thừa. Trong điều kiện nguồn lực của đất
nước ta hiện nay là chưa đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho các chương trình an
sinh xã hội nên dịch vụ CTXH đối với NCCVCM là nhằm nâng cao hiệu quả
sử dụng nguồn ngân sách nhà nước và các nguồn lực xã hội dành cho việc
chi trả các chế độ theo chính sách là cực kỳ quan trọng; mặt khác CTXH có
ý nghĩa tác động đến việc chi tiêu của từng cá nhân và gia đình hợp lý hơn,
sử dụng đồng tiền có hiệu quả hơn, từ đó phát huy tác dụng nâng cao mức
sống vật chất và tinh thần của NCCVCM.
Dịch vụ CTXH đối với NCCVCM còn có ý nghĩa phát hiện, thu thập
những bất hợp lý trong chính sách của nhà nước đối với NCCVCM để góp ý,
phản hồi cho các cơ quan nhà nước sửa đổi, ban hành chính sách cho đối
tượng thụ hưởng ngày càng hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu thiết thực cho
từng hoàn cảnh cụ thể của bản thân và gia đình NCCVCM, như: chi tiêu cho
việc phát triển kinh tế, nhà ở, học hành, các phương tiện phục hồi chức năng
lao động, phương tiện đi lại, phương tiện nghe nhìn, chi phí cho chữa bệnh...
để họ xây dựng cuộc sống bền vững tại cộng đồng và để góp phần thực hiện
công bằng xã hội
Thứ hai, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của người có công với cách
mạng
Như chúng ta đã biết mọi người đều có nhu cầu chung trước hết nhu
cầu về sinh lý, bao gồm nhu cầu ăn uống, nhu cầu về nhà ở, phương tiện đi
lại, sinh hoạt hàng ngày... tiếp đến là nhu cầu được chăm sóc sức khỏe, môi
trường an toàn... Đến nhu cầu hôn nhân, giao tiếp, hòa nhập... Cao hơn nhu
cầu được tôn trọng, bình đẳng và cao nhất là nhu cầu khẳng định mình, lao
động, học tập, thành quả... Do đặc điểm của NCCVCM là họ đã đóng góp rất
lớn cho quốc gia, dân tộc và cộng đồng và đã chịu nhiều thiệt thòi trong
kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước, họ đã bị thương tật hoặc
tổn thương thể chất, tinh thần nên họ thiếu khả năng tự đáp ứng các nhu cầu,
nhà nước và xã hội có chính sách ưu đãi và trợ giúp theo nhu cầu thiết yếu
phục vụ đồi sống cho NCCVCM. Đây là nét đặc thù trong chính sách an sinh
xã hội ở Việt Nam. Từ đó chúng ta có thể thấy rằng NCCVCM họ có những
nhu cầu, nguyện vọng trong cuộc sống, như: nhu cầu được tôn vinh kính
trọng; nhu cầu về nhà ở, làm việc, phát triển kinh tế; nhu cầu học tập, nhu
cầu chăm sóc sức khỏe, vui chơi, giải trí; nhu cầu thăm lại chiến trường xưa,
thăm lại nơi bị tù đày; nhu cầu giúp đỡ đồng đội xưa; nhu cầu tham gia ý
kiến xây dựng Đảng và bộ máy nhà nước; giáo dục, bồi dưỡng truyền thống
cách mạng cho thế hệ trẻ.... Vì vậy, dịch vụ CTXH có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong việc đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần cho
NCCVCM, đó là: cung cấp thông tin chính xác, cụ thể, phù hợp vói từng vấn
đề nhu cầu của đối tượng, tìm kiếm, biện hộ, kết nối với những nguồn lực
vật chất; tham vấn tâm lý cho những người có khủng hoảng về tinh thần lúc
tuổi già, tổ chức kết nối giao lưu giữa các đối tượng để đáp ứng nhu cầu tinh
thần; đồng thời góp phần hoàn thiện chính sách ưu đãi xã hội cũng như
truyền thông đẩy mạnh công tác xã hóa chăm sóc, phụng dưỡng người có
công với cách mạng để đáp ứng phần nào nguyện vọng, mong muốn của
NCCVCM.
Thứ ba, khuyến khích sự tham gia của người có công với cách mạng
NCCVCM tự giải quyết những khó khăn bản thân họ gặp phải như
thương tật, neo đơn, tuổi già hoặc những khủng hoảng, sang chấn khác về tâm lý.
Vì đặc điểm của NCCVCM là qua quá trình chiến đấu, lao động
đóng góp cho cách mạng họ đã bị thương tật hoặc tuổi cao, thiếu tự tin, thiếu
kinh nghiệm làm ăn... cho nên dịch vụ CTXH với NCCVCM có ý nghĩa
khuyến khích sự tham gia để họ tự giải quyết những khó khăn trong cuộc
sống như quá trình thay đổi đặc điểm tâm, sinh lý, cảm xúc và suy giảm khả
năng giao tiếp. Có tác động của dịch vụ CTXH có ý nghĩa quyết định trong
sự tham gia của đối tượng phát huy thế mạnh, khắc phục sự neo đơn, thương
tật của bản thân, lập kế hoạch sử dụng hợp lý các nguồn lực làm ăn phát triển
kinh tế... Tham vấn, lập kế hoạch và thực hiện giải quyết vấn đề gặp phải
làm cho NCCVCM tự tin, thay đổi, khắc phục những khó khăn cản trở như
thương tật, neo đơn và những khó khăn khi tuổi già, khắc phục những san
chấn, khủng hoảng về tâm lý để tiếp tục xây dựng cuộc sống có ích cho xã
hội, tăng cường mối quan hệ xã hội, giao lưu xã hội và đóng góp xã hội.
1.1.3. Cách tiếp cận dịch vụ công tác xã hội đối với người có công
cách mạng.
1.1.3.1. Tiếp cận dựa trên quyền
Như ta đã biết mọi con người sinh ra đều có quyền trên tất cả các
phương diện như: quyền được sống, quyền được học hành, làm việc và được
hưởng thụ những thành quả mà họ đã tạo ra. Đối với NCCVCM là những
người đã công hiến cuộc đời mình cho Tổ quốc, đã hy sinh một phần thân
thể hoặc đã đóng góp sức lực của mình trong các cuộc kháng chiến và xây
dựng đất nước. Họ xứng đáng được xã hội tôn vinh, kính trọng và được
hưởng quyền lợi về đời sống vật chất và tinh thần. Đó là:
Ở cấp độ vĩ mô, cách tiếp cận dựa trên quyền là nhà nước ban hành
các chính sách, pháp luật chứa đựng quyền và nghĩa vụ của NCCVCM. Trong
đó Nhà nước và xã hội chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người có
công với cách mạng; dựa trên quyền nhằm hướng đến việc cải thiện hoàn cảnh
của con người, tập trung vào nhu cầu, vấn đề và tiềm năng của họ, gắn liền
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và nguồn lực của chính phủ.
Thể hiện qua các văn bản Luật, pháp lệnh... để quy định quyền và nghĩa vụ
của NCCVCM. Trách nhiệm và nghĩa vụ của các cá nhân, cơ quan nhà nước
trong thực thi chính sách đối với NCCVCM; trách nhiệm của đoàn thể, cộng
đồng xã hội trong hoạt động chăm sóc đối tượng được hưởng các quyền ưu
đãi, như:
Đối với các quyền: Quyền được bảo đảm về đời sống vật chất, thông
qua trợ cấp bằng tiền và các giúp đỡ vật chất khác; quyền được làm việc; quyền
được trợ cấp phương tiện trợ giúp dụng cụ chỉnh hình theo yêu cầu của thương
tật, bệnh tật; quyền được chăm sóc sức khỏe; quyền được ưu tiên trong giáo dục
đào tạo, ưu tiên trong sản xuất kinh doanh dịch vụ...
Cùng với các quyền lợi nêu trên, cần quy định trách nhiệm và nghĩa vụ
của NCCVCM, như: phát huy vai trò tích cực là hạt nhân trong cộng đồng và
xã hội; nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật, không lạm dụng
hoặc lợi dụng danh nghĩa là NCCVCM để làm trái pháp luật; góp phần vào việc
thực hiện sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện công bằng và
tiến bộ xã hội.
Trên cơ sở thực thi Hiến pháp và các văn bản luật để hoàn thiện và quy
định các chi tiết về tiêu chuẩn, thước đo, chuẩn mực hoặc mặt bằng chung của
đời sống kinh tế, tinh thần của người dân trong vùng để có giải pháp thực hiện
quyền và nghĩa vụ của NCCVCM. Mặt khác, khơi dậy phong trào đến ơn, đáp
nghĩa, huy động nguồn lực trong xã hội để trợ giúp cho người NCCVCM một
cách tốt nhất.
Ở cấp độ vi mô, tiếp cận quyền trên cơ sở chính sách của nhà nước,
đánh giá, phận loại, phân tích nhu cầu, lập kế hoạch trợ giúp cụ thể cho từng
người, từng đối tượng đúng theo quy định của nhà nước. Mặt khác khơi dậy
tình làng, nghĩa xóm giúp đỡ về vật chất, tinh thần; tạo điều kiện cho người
có công với cách mạng tự vươn lên làm ăn phát triển kinh tế, cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của NCCVCM
trong cộng đồng dân cư.
1.1.3.2. Tiếp cận theo nhu cầu
Tiếp cận theo nhu cầu của NCCVCM là cách tiếp cận dựa trên việc
đáp ứng tốt nhất các dịch vụ CTXH đối với các nhu cầu của NCCVCM. Việc
tiếp cận theo nhu cầu sẽ giúp cho việc hỗ trợ hợp lý, đạt hiệu quả, không
thừa, không thiếu. Việc tiếp cận theo nhu cầu phải theo hai hướng là nhu cầu
cần và nhu cầu cảm. Nhu cầu cần là những nhu cầu cơ bản của người có
công với cách mạng, còn nhu cầu cảm là nhu cầu mà nhân viên CTXH thấy
là cần cho đối tượng. Nhu cầu cần được bảo vệ an toàn, ngăn ngừa những
nguy cơ gây tổn thương cho người có công với cách mạng cả về thể chất,
tinh thần, tình cảm. Nhu cầu vui chơi, giải trí, học tập. Thông qua những
hoạt động này, người có công với cách mạng sẽ được phát triển, hòa nhập
với cộng đồng và dần dần sẽ tự khẳng định mình. Nhu cầu được tôn trọng,
giao lưu, kết nối đồng đội, thăm lại chiến trường xưa, nơi bị tù đày, tìm hài
cốt đồng đội đã hy sinh nơi chiến trường. Nhu cầu việc làm, cải thiện nhà ở.
Nhu cầu cao nhất của người có công với cách mạng là tự khẳng định mình,
chứng minh rằng mình có năng lực, mình có thể làm được mọi việc. Do bản
thân từng tham gia chiến đấu, bỏ lại một phần thân thể nơi chiến trường nên
hầu hết họ đều có nhu cầu, mong muốn thể hiện mình có khả năng, không
phải là gánh nặng cho gia đình, người thân và xã hội.
Tiếp cận dựa trên nhu cầu có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ
NCCVCM. Đó là:
NCCVCM vẫn còn thiếu thốn các nguồn lực để đáp ứng nhu cầu của
cá nhân và gia đình. Trong đó, có những người đặc biệt khó khăn không có
khả năng tự bảo đảm cuộc sống của cá nhân từ việc lo ăn, lo mặc đến chữa
bệnh, học hành và có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cuộc sống. Những người
này rất cần được sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.