VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN NAM
DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG
VỚI CÁCH MẠNG TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤNG
DƯỠNG NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60. 90. 01. 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM HỮU NGHỊ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt luận văn này, lời đầu tiên cho phép tôi được gửi lời cảm
ơn chân thành đến Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Cục Bảo trợ xã hội, Học
viện Khoa học Xã hội, Học viện Xã hội Châu Á, cơ sở học viện tại thành phố Hồ
Chí Minh, các thầy, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, truyền đạt kiến thức
lý thuyết và kỹ năng chuyên môn trong suốt khóa học. Đặc biệt tôi xin cảm ơn là
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Hữu Nghị đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành
luận văn trong thời gian qua.
Đồng thời, tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Trung tâm phụng dưỡng
người có công với cách mạng thành phố Đà Nẵng đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu
thập thông tin, số liệu liên quan về nhu cầu và đặc điểm tâm lý, cũng như các dịch
vụ công tác xã hội của người có công với cách mạng.
Chân thành cảm ơn tập thể lớp thạc sĩ ngành Công tác xã hội khóa 1, chương
trình liên kết với Philippin đã luôn đồng hành, chia sẽ những khó khăn, vất vả trong
suốt quá trình học tập.
Do thời gian và mặc dù bản thân đã rất cố gắng nhưng vẫn không tránh khỏi
những thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được ý kiến phản biện, góp ý của quý thầy
cô giáo. Đó là những ý kiến quý báu giúp tôi có thể rút kinh nghiệm và hoàn thiện
hơn trong các nghiên cứu sau.
Xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Công tác xã hội “Dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách mạng từ
thực tiễn Trung tâm phụng dưỡng người có công với cách mạng thành phố Đà
Nẵng” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng
lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG ...............................................7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của người có công với cách mạng ...............7
1.2. Nhu cầu, khái niệm và các cách tiếp cận dịch vụ công tác xã hội đối với
người có công cách mạng ......................................................................................13
1.3. Nội dung dịch vụ công tác xã hội đối với người có công cách mạng ............19
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với
cách mạng ..............................................................................................................24
1.5. Thể chế dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách mạng ........27
Chương 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI
CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG TẠI TRUNG TÂM PHỤNG DƯỠNG
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................33
2.1. Giới thiệu về Trung tâm phụng dưỡng người có công với cách mạng thành
phố Đà Nẵng ..........................................................................................................33
2.2. Thực trạng và nhu cầu của người có công với cách mạng tại Trung tâm
phụng dưỡng người có công với cách mạng thành phố Đà Nẵng .........................37
2.3. Tình hình thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách
mạng từ thực tiễn Trung tâm phụng dưỡng người có công với cách mạng thành
phố Đà Nẵng. .........................................................................................................45
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN DỊCH
VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TỪ THỰC TIỄN TRUNG TÂM PHỤNG DƯỠNG NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI
CÁCH MẠNG THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................62
3.1. Các định hướng bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với người có
công với cách mạng ...............................................................................................62
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã hội đối với người có
công với cách mạng từ thực tiễn Trung tâm phụng dưỡng người có công với cách
mạng thành phố Đà Nẵng ......................................................................................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................74
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CTXH
Công tác xã hội
DVCTXH
Dịch vụ công tác xã hội
DVXH
Dịch vụ xã hội
GĐCS
Gia đình chính sách
NCC
Người có công
NCCVCM
Người có công với cách mạng
NVCTXH
Nhân viên công tác xã hội
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Phân loại theo trình độ chuyên môn của công chức, viên chức và
người lao động ...................................................................................................35
Bảng 2.2. Phân loại giới tính NCCVCM ...........................................................37
Bảng 2.3. Phân loại theo độ tuổi NCCVCM .....................................................38
Bảng 2.4. Phân loại về sức khỏe NCCVCM .....................................................39
Bảng 2.5. Phân loại về bệnh tật NCCVCM .......................................................39
Bảng 2.6. Số lượng NCCVCM hưởng trợ cấp ..................................................41
Bảng 2.7. Mức độ hài lòng về cuộc sống ..........................................................45
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau những năm tháng tham gia chiến đấu, công tác ở những nơi gian khổ trở
về với cuộc sống đời thường những NCCVCM họ gặp nhiều khó khăn hơn để theo
kịp nhịp sống thay đổi từng ngày. Bởi hầu hết họ tuổi đã cao, sức khỏe suy giảm
nhiều thương tật, bệnh tật, thiếu thốn kinh nghiệm trong làm ăn, không có nguồn
vốn để đầu tư, trình độ tay nghề thấp hoặc không có. Chính vì vậy đời sống của
NCC và gia đình của họ hầu hết còn gặp nhiều khó khăn, mức sống của họ chưa thể
bằng so với mức sống người dân nơi cư trú.
CTXH với NCCVCM là một trong những chính sách được Đảng và Nhà
nước ta rất chú trọng. Những chính sách cho NCCVCM như: chính sách bảo hiểm y
tế, chính sách chăm sóc sức khỏe, chính sách ưu đãi về kính tế, chính sách trợ cấp
đã được ban hành và thực hiện. Hơn nữa, được sự chung tay góp sức của toàn cộng
đồng, những chính sách này trong nhiều năm qua đã đạt được một số thành tựu
đáng khích lệ. Tuy nhiên, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm sóc sức khỏe và
nâng cao đời sống, tinh thần cho NCCVCM vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Chúng
ta vẫn thiếu các nguồn lực để có thể thực hiện một cách tốt nhất công việc này.
Thêm vào đó, những năm qua do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, của thiên tai
hạn hán, lũ lụt thường xuyên nên điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
càng gặp nhiều khó khăn. Vì thế, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, đặt biệt là hoạt
động CTXH đối với NCCVCM vẫn chưa có điều kiện quan tâm, đầu tư đúng mức,
nhiều chương trình, hoạt động còn mang tính hình thức, phòng trào “Đền ơn đáp
nghĩa”, tặng “Sổ tiết kiệm tình nghĩa” còn chậm phát triển, đời sống gia đình
NCCVCM chưa phải đã ổn định vững chắc, việc hỗ trợ cho họ tuy đã có nhiều cố
gắng nhưng vẫn còn hạn chế, nhỏ giọt, chưa đáp ứng được yêu cầu nguyện vọng
của các gia đình NCCVCM. Các chương trình chăm sóc NCCVCM tại địa phương
còn thực hiện theo phong trào, tập trung các ngày lễ, tết đôi khi chỉ để lấy thành
tích, thiếu sự quan tâm thường xuyên.
1
Hỗ trợ xã hội cho NCCVCM cần sự chung tay của nhiều cơ quan, tổ chức và
cả cộng đồng, tuy nhiên một số hoạt động hỗ trợ vì nguyên nhân các ban ngành đoàn
thể địa phương phối hợp tổ chức thực hiện còn thiếu chặt chẽ. Quá trình thực hiện các
chính sách hỗ trợ cho NCCVCM còn chồng chéo, thủ tục hành chính phức tạp cũng
là một trong những lý do dẫn đến các ưu đãi chưa đến tay người thụ hưởng.
Quá trình thực hiện từ thực tiễn Trung tâm phụng dưỡng NCCVCM thành
phố Đà Nẵng cho thấy dịch vụ CTXH đối với NCCVCM còn nhiều hạn chế, mới
chỉ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của NCC mà chưa chưa thể đáp ứng những nhu cầu
đa dạng khác;chế độ trợ cấp ưu đãi chưa đạt mục tiêu ưu đãi xã hội gắn liền với
tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội; một số quy định của chính sách
không mang tính kế thừa, thiếu tính ổn định, luôn thay đổi, chưa phù hợp với thực
tiễn dẫn đến khó thực hiện. Nhiều chế độ ưu đãi được qui định ở Pháp lệnh ưu đãi
NCCVCM nhưng chưa có qui phạm hướng dẫn, chưa được thực thi trong đời sống.
Phong trào chăm sóc đời sống NCCVCM qua các chương trình tình nghĩa đang có
xu hướng giảm dần. Phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” hoạt động hiệu quả thấp và
chưa mang ý nghĩa xã hội cao cả của nó.
Xuất phát từ những lý do trên, gắn với thực tế công tác của bản thân, tôi chọn
đề tài: “Dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách mạng từ thực tiễn
Trung tâm phụng dưỡng người có công với cách mạng thành phố Đà Nẵng” làm
đề tài nghiên cứu nhằm đưa những khuyến nghị, giải pháp cụ thể để cung ứng các
dịch vụ CTXH đối với NCCVCM đáp ứng nhu cầu và đạt hiệu quả hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
ANN MCDONALD (2010) trong cuốn sách “Social Work with Older
People”, First published by polity presss. Tác giả trình bày các khung lý thuyết có
thể ứng dụng trong thực hành CTXH với người cao tuổi và một số cách tiếp cận
trong thực hành CTXH với người cao tuổi. Những khó khăn, những vấn đề phát
sinh trong làm việc với người cao tuổi.
Chính sách NCCVCM đã được nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu và công
bố các kết quả nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã có điều kiện
2
tiếp cận các công trình như sau:
- Nguyễn Đình Liêu (1996), Luận án Phó tiến sĩ khoa học luật học: “Hoàn
thiện pháp luật ưu đãi NCCVCM ở Việt Nam - Lý luận và thực tiễn”.
- Nguyễn Thị Tuyết Mai (2009), Luận văn thạc sĩ luật học: “Hoàn thiện pháp
luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam”.
Bên cạnh đó có những nghiên cứu, bài viết có nội dung liên quan đến đề tài
luận văn này, như:
- Nguyễn Văn Thành (1994), Luận án tiến sĩ kinh tế: “Đổi mới chính sách
kinh tế - xã hội đối với NCC ở Việt Nam”.
- Đỗ Thị Dung (2010), “Đối tượng hưởng ưu đãi xã hội và một số kiến nghị”,
Tạp chí Luật học, (số 8), tr. 10-17.
- Hoàng Công Thái (2005), “Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với
NCC”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (số 7), tr. 28-31.
- Nguyễn Hiền Phương (2008), “Quan niệm về ASXH trên thế giới và ở Việt
Nam”, Tạp chí Luật học, (số 1), tr. 45-54.
- Lê Thị Hoài Thu (2006), Đề cương bài giảng Pháp luật ASXH Việt Nam chương trình đào tạo sau đại học.
- Vũ Thị Vân Anh (2015), Công tác xã hội đối với thương binh từ thực tiễn
xã Pơng Drang, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk, Luận văn tốt nghiệp thạc sỹ Công
tác xã hội, Học viện Khoa học xã hội.
Nhìn chung các bài viết, công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập nhiều ở góc
độ pháp lý: Phân tích, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật và việc triển khai thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật về ưu đãi đối với NCCVCM.
Luận văn thạc sĩ Công tác xã hội “Công tác xã hội đối với thương binh từ
thực tiễn xã Pơng Drang, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” của Vũ Thị Vân Anh đã
phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách đối với thương binh và các hỗ trợ xã
hội đối với thương binh tại một địa phương nhìn từ góc độ ngành Công tác xã hội.
Kết quả nghiên cứu đề tài này là tài liệu tham khảo tốt đối với tôi trong quá trình
nghiên cứu thực hiện luận văn tốt nghiệp.
3
Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy phần lớn các công trình nghiên cứu đều
triển khai ở phương diện rộng, nghiên cứu cả hệ thống chính sách ASXH hoặc
nghiên cứu ở phương diện quy mô toàn quốc, đã có đề tài nghiên cứu về hỗ trợ xã
hội cho thương binh ở một địa phương cụ thể, chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về
các dịch vụ CTXH đối với NCCVCM.
Đối với thành phố Đà Nẵng, qua tìm hiểu đến nay chưa có những chương trình
cũng như đề tài nghiên cứu về dịch vụ CTXH đối với NCCVCM nhằm đưa ra những
khuyến nghị hợp lý và xác thực để có hướng giúp đỡ NCCVCM. Vì vậy đề tài mà tôi
lựa chọn là không trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn của dịch vụ CTXH đối với
NCCVCM.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Góp phần xây dựng cơ sở lý luận về dịch vụ CTXH đối với NCCVCM.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng NCCVCM.
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng dịch vụ CTXH đối với NCCVCM tại
Trung tâm phụng dưỡng NCCVCM thành phố Đà Nẵng.
- Từ thực trạng đưa ra định hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ
CTXH đối với NCCVCM từ thực tiễn Trung tâm phụng dưỡng NCCVCM thành
phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loại hình dịch vụ CTXH đối với
NCCVCM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu các dịch vụ
CTXH đối với NCCVCM đó là dịch vụ hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ tâm lý, kết
nối nguồn lực, hỗ trợ vật chất, tinh thần và vui chơi, giải trí, nơi ăn, chốn ở.
Thời gian thực hiện nghiên cứu: từ tháng 02/2016 đến 6/2016
- Về khách thể nghiên cứu:
4
+ NCCVCM tại Trung tâm phụng dưỡng NCCVCM thành phố Đà Nẵng
+ Nhân viên CTXH trong hỗ trợ dịch vụ CTXH đối với NCCVCM
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Thông qua nghiên cứu, thu thập, xử lý, khái quát hóa những thông tin, những
nghiên cứu thuộc các vấn đề liên quan từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử,
chủ nghĩa duy vật biện chứng, từ đó phân tích, tổng hợp nhằm xây dựng cơ sở lý
luận cho vấn đề nghiên cứu: “Dịch vụ CTXH đối với NCCVCM từ thực tiễn Trung
tâm phụng dưỡng NCCVCM thành phố Đà Nẵng”.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng dịch vụ CTXH hỗ trợ đối với NCCVCM tại Trung tâm
phụng dưỡng NCCVCM thành phố Đà Nẵng như thế nào, đã tương xứng với nhu
cầu thực tế hay chưa? Nhu cầu của NCCVCM gồm những gì? Dùng các phương
pháp sau đây:
5.2.1. Điều tra bằng bảng hỏi
Điều tra bằng bảng hỏi tiến hành phỏng vấn trực tiếp với khách thể nghiên
cứu nhằm thu thập thông tin để làm rõ thực trạng nhu cầu hỗ trợ từ các chính sách,
dịch vụ đối với NCCVCM.
5.2.2. Quan sát
Được tận mắt chứng kiến đời sống tâm lý của NCCVCM thông qua các hoạt
động thường ngày. Song song với quá trình điều tra bằng bảng hỏi, các thông tin thu
thập được trong quá trình quan sát sẽ làm cơ sở bổ sung cho các thông tin liên quan
đến vấn đề cần nghiên cứu.
5.2.3. Phỏng vấn trực tiếp (phỏng vấn sâu)
Phương pháp này nhằm thu thập các thông tin từ ban ngành, địa phương và
những người hỗ trợ NCCVCM về khả năng đáp ứng cũng như tính hiệu quả của các
hoạt động trợ giúp NCCVCM. Đồng thời cũng nhằm kiểm tra lại mức độ tin cậy
của các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu thu thập qua điều tra, quan sát.
5.3. Phương pháp xử lý số liệu
Dùng các phương pháp toán thống kê để tính toán xử lý số liệu thu được qua
nghiên cứu định tính.
5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể bổ sung cho những kiến thức chuyên
ngành về dịch vụ CTXH đối với NCCVCM, góp phần tích cực vào công tác chăm
sóc NCCVCM. Đồng thời, những kiến thức thu được từ thực tiễn được bổ sung sẽ
làm phong phú thêm nguồn tham khảo cho việc tìm hiểu lý luận về NCCVCM ở
khía cạnh dịch vụ CTXH. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu có thể là nguồn tư liệu tham
khảo ý nghĩa cho các nghiên cứu sau trong lĩnh vực này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Là cơ sở để các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong quá trình hoạch định, xây
dựng chính sách có những chính sách phù hợp để hoàn thiện và nâng cao chất lượng
dịch vụ CTXH đối với NCCVCM tại Việt Nam nói chung, tại thành phố Đà Nẵng
nói riêng; đồng thời có thể mở rộng mức độ nghiên cứu dịch vụ CTXH đối với
NCCVCM trên phạm vi lớn hơn.
Từ vấn đề này, mọi người thấy được thực trạng của dịch vụ CTXH đối với
NCCVCM đang ở mức như thế nào, đã tương xứng với nhu cầu thực tế hay chưa
qua đó có cái nhìn tích cực hơn khi xem xét thực trạng này.
Nghiên cứu góp phần cung cấp thông tin với địa phương và các tổ chức xã
hội, đề xuất các phương án cũng như khuyến nghị để có các chính sách hỗ trợ giúp
NCCVCM có cuộc sống tốt hơn và hòa nhập cộng đồng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với
NCCVCM.
Chương 2. Thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với NCCVCM từ thực tiễn
Trung tâm phụng dưỡng NCCVCM thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Định hướng và giải pháp bảo đảm thực hiện dịch vụ công tác xã
hội đối với NCCVCM từ thực tiễn Trung tâm phụng dưỡng NCCVCM thành phố
Đà Nẵng.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của người có công với cách mạng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của người có công với cách mạng
- Về một số khái niệm
Thuật ngữ “cách mạng” được dùng trong nhiều phạm vi, góc độ khác nhau,
tùy từng trường hợp cụ thể, có thể được hiểu là cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và
căn bản, thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một chế độ xã
hội mới, tiến bộ. Ví dụ: Cách mạng xã hội chủ nghĩa, Cách mạng tháng Tám năm
1945. Hoặc được hiểu là cuộc đấu tranh nhằm thực hiện một cuộc cách mạng xã hội,
ví dụ: tham gia cách mạng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Hoặc cách mạng
được hiểu là quá trình thay đổi lớn và căn bản theo hướng tiến bộ trong một lĩnh vực
nào đó, ví dụ: Cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa.
Đối với thuật ngữ “NCC” thì mặc dù chính sách ưu đãi NCCVCM đã được
thực hiện từ lâu, nhưng cho đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào nêu rõ khái
niệm “NCC”. Tuy nhiên, căn cứ các tiêu chuẩn đối với từng đối tượng là NCC mà
Nhà nước đã quy định, trong một số công trình đã nêu khái niệm “NCC” theo 2
nghĩa sau:
Theo nghĩa rộng: “NCC là những người không phân biệt tôn giáo, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ,
có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước và kiến thiết
đất nước. Họ là người có những thành tích đóng góp hoặc những cống hiến xuất
sắc phục vụ vì lợi ích của đất nước, của dân tộc được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền công nhận theo qui định của pháp luật”. Ở đây có thể thấy rõ những tiêu chí
cơ bản của NCC, đó là phải có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì lợi ích của dân
tộc. Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc
lập, tự do cho Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước [18, tr.18-19].
7
Theo nghĩa hẹp: “NCC là những người không phân biệt tôn giáo, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc
trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến
giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền
công nhận theo qui định của pháp luật”. Ở khái niệm này, NCC bao gồm người
tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời mình hoặc một phần
thân thể hoặc có thành tích đóng góp cho sự nghiệp cách mạng [18, tr.19].
Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của NCC như sau:
Thứ nhất, NCC bao gồm người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy
sinh cả cuộc đời mình hoặc một phần thân thể hoặc có thành tích đóng góp cho sự
nghiệp cách mạng.
Thứ hai, NCC là người có thành tích đóng góp hoặc cống hiến xuất sắc và vì
lợi ích của dân tộc, những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc
kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc và cũng có thể là trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Thứ ba, phạm trù NCC rất rộng, trong phạm vi hẹp, đối tượng NCC là những
NCC trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở
thời kỳ cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Hơn nữa, chính
sách NCCVCM chủ yếu điều chỉnh đối tượng này.
Ở nước ta trong Pháp lệnh Ưu đãi NCCVCM có quy định: NCCVCM bao gồm:
- Là những NCCVCM được quy định tại Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM, cụ
thể:
+ Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 là người
được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng
trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 [33, tr.3].
+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi
nghĩa tháng 8 năm 1945 là người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đứng
đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly hoạt động cách mạng kể từ
ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 [33, tr.4].
8
+ Liệt sĩ là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân
được Nhà nước truy tặng Bằng “Tổ quốc ghi công” thuộc một trong các trường hợp
pháp luật quy định [33, tr.5].
Quy định về thân nhân liệt sĩ được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp
“Giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ” và được hưởng chế độ ưu đãi.
+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng là những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế và pháp luật
đã liệt kê những trường hợp quy định những người là Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
+ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động trong kháng
chiến là người được Nhà nước tặng hoặc truy tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng
vũ trang nhân dân”; người được Nhà nước tuyên dương Anh hùng Lao động trong
thời kỳ kháng chiến vì có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sản xuất phục
vụ kháng chiến.
+ Thương binh, người được hưởng chính sách như thương binh:
Thương binh là quân nhân, công an nhân dân bị thương làm suy giảm khả
năng lao động từ 21% trở lên, được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền cấp “Giấy
chứng nhận thương binh” và “Huy hiệu thương binh” thuộc một trong các trường
hợp theo quy định tại mục 12, khoản 1, Điều 19 được sửa đổi bổ sung của Pháp lệnh
số 04/2012/UBTVQH13 [33, tr.8].
Người hưởng chính sách như thương binh là người không phải là quân nhân,
công an nhân dân, bị thương làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên thuộc
một trong các trường hợp quy định tại mục 12, khoản 1, Điều 19 được sửa đổi bổ
sung của Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13, được cơ quan có thẩm quyền cấp
“Giấy chứng nhận người hưởng chính sách như thương binh” [33, tr.8].
+ Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị có thẩm
quyền cấp “Giấy chứng nhận bệnh binh” thuộc một trong các trường hợp theo quy
9
định tại mục 15, khoản 1, Điều 23 được sửa đổi bổ sung của Pháp lệnh số
04/2012/UBTVQH13 [33, tr.10].
+ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học là người được cơ
quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu
từ tháng 8 năm 1961 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại các vùng mà quân đội Mỹ
sử dụng chất độc hoá học và do nhiễm chất độc hoá học dẫn đến một trong các
trường hợp: mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên; vô sinh; sinh
con dị dạng, dị tật [33, tr.11-12].
+ Người hoạt động cách mạng hoặc hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù,
đày là người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong thời
gian bị tù, đày không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến, không làm
tay sai cho địch [31, tr.12].
+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế là người tham gia kháng chiến được tặng Huân chương kháng
chiến, Huy chương kháng chiến [31, tr.12].
+ NCC giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ cách mạng
trong lúc khó khăn, nguy hiểm, bao gồm: Người được tặng Kỷ niệm chương “Tổ
quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước”; người trong gia đình được tặng Kỷ
niệm chương “Tổ quốc ghi công” hoặc Bằng “Có công với nước” trước cách mạng
tháng Tám năm 1945; người được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy chương
kháng chiến; người trong gia đình được tặng Huân chương kháng chiến hoặc Huy
chương kháng chiến [31, tr.13].
- Một số đặc điểm của NCCVCM:
NCC cách mạng hầu hết họ tuổi đã cao, sức khỏe suy giảm nhiều thương tật,
bệnh tật, họ có nhiều công lao, đóng góp cho cách mạng, cho đất nước và thời bình
tiếp tục đóng góp xây dựng đất nước, luôn trăn trở trước vận mệnh của đất nước.
NCCVCM hầu hết đều trải qua chiến tranh, bom đạn, họ luôn nhớ về những
người cùng hoạt động cách mạng vào sinh ra tử trước kẻ thù, những đồng đội đã hy
sinh nằm lại chiến trường xưa chưa tìm được hài cốt; họ tình nguyện tham gia vào
10
các hoạt động đi tìm đồng đội và gắn kết nhau trong các ban liên lạc đồng ngũ, cùng
bị tù đày, cùng chiến trường...
Khi hòa bình lập lại, họ đi tiên phong trong đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng; là tấm gương, biểu tượng cho dòng họ, gia đình và con cháu noi
theo. Một bộ phận NCCVCM còn khó khăn về đời sống; có tâm lý cho rằng con
cháu, thế hệ trẻ không hiểu mình; có khoảng cách về thế hệ, bị con cháu cho là nói
nhiều, kể công; một số ít có biểu hiện công thần, và một bộ phận trở về sau chiến
tranh khó trở lại với cuộc sống xây dựng trong hòa bình, kỹ năng sản xuất, kinh
doanh kém; chán nản với cuộc sống, có nhiều tâm tư, nguyên vọng; khó tiếp cận với
các thông tin, nguồn vốn và quyền sử dụng đất.
1.1.2. Nhu cầu của người có công với cách mạng
Là con người xã hội, mỗi người cần có những nhu cầu, như nhu cầu về vật
chất và nhu cầu về tinh thần. Các nhu cầu của con người thường rất đa dạng, phong
phú và phát triển. Nhu cầu con người phản ánh mong muốn chủ quan hoặc khách
quan tùy theo hoàn cảnh sống, yếu tố văn hóa, nhận thức và vị trí xã hội của họ.
Để tồn tại, con người cần phải được đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cơ bản
cần cho sự sống như ăn mặc, nhà ở, chăm sóc y tế… để phát triển con người cần
được đáp ứng các nhu cầu cao hơn, như: nhu cầu được an toàn, được học hành,
được yêu thương, được tôn trọng và khẳng định. Xét cho cùng sự vận động và phát
triển của xã hội loài người nhằm mục đích đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của con
người. Việc đáp ứng các nhu cầu con người chính là động cơ thúc đẩy con người
tham gia hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội.
Theo quan điểm của A.Maslow thì nhu cầu của con người được chia thành
năm nhu cầu theo thứ tự nấc thang đó là: nhu cầu sống, nhu cầu an toàn, nhu cầu
thuộc về một nhóm nào đó, nhu cầu được tôn trọng và cuối cùng là nhu cầu hoàn
thiện.
Vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu tác giả tìm hiểu
nhu cầu của những NCCVCM theo năm bậc thang về nhu cầu. Từ đó xem xét các
nhu cầu nào đã được đảm bảo, nhu cầu nào chưa được đảm bảo, đảm bảo ở mức độ
11
nào, có ưu tiên đáp ứng nhu cầu nào trước, nhu cầu nào sau hay theo trình tự các
bậc nhu cầu của nhà tâm lý học A.Maslow.
Dựa theo thang nhu cầu của Maslow thì theo tác giả Vũ Thị Vân Anh nhận
thấy hiện nay NCCVCM đang có những nhu cầu như sau:
- Đầu tiên là về nhu cầu sống thì sau những năm tháng tham gia chiến đấu,
công tác ở những nơi gian khổ trở về với cuộc sống đời thường những NCCVCM
họ gặp nhiều khó khăn hơn để theo kịp nhịp sống thay đổi từng ngày. Bởi hầu hết
họ tuổi đã cao, sức khỏe suy giảm nhiều vì thương tật, thiếu thốn kinh nghiệm trong
làm ăn, không có nguồn vốn để đầu tư, trình độ tay nghề thấp hoặc không có, chính
vì vậy đời sống của họ hầu hết còn gặp nhiều khó khăn, mức sống của họ đa phần
chưa thể bằng so với mức sống người dân nơi cư trú. Cuộc sống của bản thân và gia
đình chỉ có thể trông chờ vào khoản trợ cấp hàng tháng ít ỏi so với những khoản chi
tiêu hàng ngày. Hơn thế nữa một số NCC đang còn phải sống trong những căn nhà
tạm bợ, dột nát… [2, tr.18-19].
- Nhu cầu an toàn: hơn ai hết, những NCCVCM luôn là người hiểu được sự tàn
khốc, mất mát do chiến tranh gây ra, vậy nên bây giờ họ luôn mong muốn được sống
trong khung cảnh hòa bình, được gia đình, người thân và cộng đồng đùm bọc, yêu
thương, quan tâm, chăm sóc và chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng họ. Và bên cạnh
đó họ còn muốn được khám chữa bệnh, được cung cấp các trang thiết bị y tế phù hợp với
thương tật của họ để giúp cho vấn đề sinh hoạt hàng ngày được tốt hơn [2, tr.18-19].
- Nhu cầu thuộc về một nhóm nào đó: NCCVCM phần lớn là những người
tuổi đã cao vì vậy họ luôn có nhu cầu giao tiếp, nhu cầu về sự yêu thương chia sẻ,
họ không muốn sự cô đơn, bị bỏ ra ngoài lề xã hội, họ mong muốn có hạnh phúc gia
đình, được tham gia và thuộc vào một nhóm, một hội nào đó như là Hội Cựu chiến
binh, Hội Người cao tuổi…[2, tr.18-19].
- Nhu cầu được tôn trọng: đối với NCCVCM thì đây là một nhu cầu cực kì
quan trọng bởi lẽ họ là những người có nhiều công lao, đóng góp cho cách mạng,
cho tổ quốc vì vậy họ luôn muốn được cộng đồng mà đặc biệt là thế hệ trẻ tôn vinh,
12
kính trọng, xem họ là tấm gương để noi theo và thừa nhận những giá trị mà họ đã
làm nên cho lịch sử nước nhà [2, tr.18-19].
- Nhu cầu hoàn thiện: Trong cuộc sống những NCCVCM cũng mong muốn
tự khẳng định mình và được xã hội tạo điều kiện để hoàn thiện và phát triển cá
nhân. Cụ thể họ muốn được nói lên tiếng nói của họ, được tham gia vào xây dựng
Đảng, tham gia quản lý nhà nước, tham gia vào các hoạt động xã hội…[2, tr.18-19].
1.2. Nhu cầu, khái niệm và các cách tiếp cận dịch vụ công tác xã hội đối
với người có công cách mạng
1.2.1. Nhu cầu dịch vụ công tác xã hội đối với người có công cách mạng
Theo thống kê, cả nước hiện có trên 8,8 triệu NCC, chiếm gần 10% dân số,
trong đó có 1.146.250 liệt sĩ, 49.609 Mẹ VNAH, 781.021 thương binh và người
hưởng chính sách như thương binh, 185.000 thương binh B, 1.253 Anh hùng Lực
lượng Vũ trang, Anh hùng Lao động trong kháng chiến, 101.138 NCC giúp đỡ cách
mạng… Trên 1,47 triệu đối tượng NCC đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng của
Nhà nước. NCCVCM luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và có chính sách tôn
vinh, ưu đãi đối với NCC, bảo đảm cho gia đình NCC có mức sống bằng hoặc cao
hơn mức sống trung bình ở địa phương, không để NCC lâm vào nghèo đói.
Cũng như mọi người, những NCC rất cần có một cuộc sống vật chất và tinh
thần đầy đủ, no ấm và hạnh phúc, họ có nhu cầu được cải thiện chỗ ở, được tạo
công ăn việc làm và được tiếp cận các nguồn vốn, tiếp cận quyền sử dụng đất. Mặt
khác họ đã có nhiều cống hiến hy sinh, chịu nhiều thiệt thòi mất mát vì sự nghiệp
chung của dân tộc, do đó họ cần được mọi người tôn vinh, kính trọng, quan tâm
chăm sóc, chia sẻ, được lắng nghe, thấu hiểu, động viên; được nghỉ ngơi, chăm sóc
sức khỏe; được học tập, cung cấp thông tin nhiều hơn để họ vơi đi nỗi đau mất mát,
quên đi bệnh tật và mất người thân.
Để đảm bảo sự sinh tồn phát triển mỗi con người đều có những nhu cầu cần
được đáp ứng với những cách thức khác nhau, mỗi cá nhân tự đáp ứng các nhu cầu
đó. Tuy nhiên với NCCVCM họ không thể tự mình đáp ứng những nhu cầu ấy ngay
cả những nhu cầu tối thiểu nhất mà cần phải có sự chung tay, góp sức, giúp đỡ của
13
cộng động và xã hội. NCC cách mạng trước hết cũng như bao con người bình
thường khác, họ sống trong xã hội và đều có những nhu cầu cơ bản nhất bao gồm cả
vật chất, tình thần để có thể tồn tại và phát triển.
NCC cách mạng hầu hết tuổi đã cao, sức khỏe giảm sút do chiến tranh, tuổi
già do đó nhu cầu được thăm khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe thường xuyên là
điều tất yếu. Đối với thương binh, mất mát một phần trong cơ thể, nhiều người
không còn được lành lặn như trước đây, họ có nhu cầu được trang thiết bị chân tay
giả, mắt giả để trợ giúp trong sinh hoạt hằng ngày...
1.2.2. Khái niệm dịch vụ công tác xã hội đối với người có công cách mạng
Theo Mạng CTXH Việt Nam: Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp
ứng nhu cầu nào đó của con người. Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng
sản phẩm cụ thể (hữu hình) như hàng hoá nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất
định của xã hội.
Một số quan điểm cho rằng dịch vụ xã hội là những hình thức cụ thể hoá của
các chính sách xã hội. Nên hiểu khái niệm dịch vụ xã hội như là những phương thức
nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, đặc biệt là các nhóm đối tượng yếu thế mà nhà nước
và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ (NGO) thực hiện và cung cấp [social
networks].
Và dịch vụ xã hội được Liên hợp quốc định nghĩa như sau: Dịch vụ xã hội cơ
bản là các hoạt động dịch vụ cung cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp
ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống (UN – Africa Spending Less on Basic
Social Services).
Như vậy: Dịch vụ xã hội cơ bản là hệ thống cung cấp dịch vụ nhằm đáp ứng
những nhu cầu cơ bản. Nếu như dịch vụ là một khái niệm đơn lẻ thì dịch vụ xã hội
lại là một khái niệm kép. Thuật ngữ “xã hội” trong khái niệm này có thể được hiểu
theo hai nghĩa.
Thứ nhất là tính mục tiêu, nghĩa là dịch vụ hướng tới phát triển xã hội (theo
nghĩa này thì bất kỳ dịch vụ nào đóng góp vào mục tiêu phát triển xã hội đều được
coi là dịch vụ xã hội).
14
Thứ hai là về chuẩn mực hay tính xã hội, nghĩa là dịch vụ để bảo đảm các giá
trị, chuẩn mực xã hội. Theo nghĩa này thì dịch vụ xã hội cung cấp những hỗ trợ cho
các thành viên trong xã hội được (i) chủ động phòng ngừa khả năng xảy ra rủi ro để
dẫn đến không bảo đảm giá trị và chuẩn mực xã hội; (ii) chủ động tiếp cận hạn chế
ảnh hưởng của rủi ro dẫn đến không bảo đảm giá trị và chuẩn mực xã hội; (iii) khắc
phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng/xã hội trên cơ sở các giá trị, chuẩn mực xã hội.
Trong bài viết này, quan niệm về dịch vụ xã hội (social services) có thể được
hiểu như sau:
Dịch vụ xã hội là hoạt động cung cấp, đáp ứng nhu cầu cho các cá nhân,
nhóm người nhất định nhằm bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội. Với nhóm
yếu thế, DVXH là các hoạt động có chủ đích của con người nhằm phòng ngừa, hạn
chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ bản và thúc đẩy khả
năng hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế.
Theo Liên đoàn CTXH chuyên nghiệp quốc tế (họp ở Canada vào năm 2004)
cho rằng “CTXH là hoạt động chuyên nghiệp nhằm tạo ra sự thay đổi của xã hội
bằng sự tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề xã hội (vấn đề nảy sinh trong
mối quan hệ xã hội) vào quá trình tăng cường năng lực và giải phóng tiềm năng
của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng. CTXH đã giúp cho con người phát triển
đầy đủ và hài hòa hơn và đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho mọi người dân”.
- Theo Hiệp hội Quốc gia các nhân viên xã hội Mỹ – NAW (năm 1970)
thì CTXH là hoạt động mang tính chuyên môn nhằm giúp đỡ những cá nhân, các
nhóm hoặc cộng đồng tăng cường hoặc khôi phục năng lực thực hiện chức năng xã
hội của họ và tạo ra những điều kiện thích hợp nhằm đạt được những mục tiêu ấy.
- Theo Hiệp hội cán bộ Xã hội quốc tế và Hiệp Hội các trường đào tạo CTXH
quốc tế định nghĩa:“Nghề CTXH thúc đẩy sự phát triển xã hội, giải quyết các vấn đề
trong các mối quan hệ, tạo khả năng và giải phóng con người nhằm thúc đẩy phúc
lợi. Sử dụng các học thuyết về hành vi con người và các hệ thống xã hội, CTXH can
thiệp vào những thời điểm khi con người tương tác với các môi trường của mình.
Nhân quyền và công lý trong xã hội là những nguyên tắc nền tảng của CTXH”.
15
Dịch vụ CTXH được hiểu là các dịch vụ cụ thể hóa các luật pháp, chính sách
của Nhà nước về các lĩnh vực phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, pháp lý nhằm trợ giúp
các cá nhân, nhóm, cộng đồng.
Từ những khái niệm, quan điểm về CTXH và DVXH, có thể hiểu dịch vụ
CTXH ở Việt Nam như sau: DVCTXH là hoạt động chuyên nghiệp CTXH cung cấp
các hoạt động hỗ trợ về tinh thần hay vật chất cho những người gặp hoàn cảnh khó
khăn, hoặc những người có nhu cầu hỗ trợ về mặt tâm lý- xã hội, trợ giúp xã hội
nhằm giảm thiểu những rào cản, những bất công và bất bình đẳng trong xã hội.
Từ khái niệm dịch vụ công tác xã hội, chúng ta có thể hiểu nêu ra khái niệm
dịch vụ công tác xã hội đối với người có công với cách mạng là hoạt động chuyên
nghiệp của CTXH nhằm trợ giúp NCCVCM giải quyết các vấn đề khó khăn mà họ
đang gặp phải từ đó giúp họ phục hồi, phòng ngừa hay nâng cao năng lực để tăng
cường chức năng xã hội, tạo ra những thay đổi về vai trò, vị trí của họ để giúp họ
hòa nhập xã hội, đồng thời thúc đẩy các điều kiện xã hội để họ tiếp cận được với
chính sách, nguồn lực và dịch vụ xã hội nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản và
quyền của họ để góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
1.2.3. Các cách tiếp cận dịch vụ công tác xã hội đối với người có công cách
mạng
1.2.3.1. Tiếp cận dựa trên quyền
Tiếp cận dựa trên quyền con người là một khung lý thuyết có chứa đựng các
nguyên tắc, tiêu chuẩn và mục tiêu của hệ thống quyền con người trong quá trình
lập kế hoạch và tiến trình thực hiện hoạt động CTXH.
Cách tiếp cận này lấy nền tảng cơ bản chính là hệ thống quyền con người đã
được pháp luật quốc tế bảo vệ. Nhân viên xã hội cần dựa trên hệ thống quyền con
người để xây dựng các phương pháp và hoạt động của những mô hình phát triển xã
hội. Cách tiếp cận này luôn đưa ra đối tượng tác động cụ thể, đó chính là con người
với quyền cơ bản của mình.
Trên phương diện vĩ mô, cách tiếp cận dựa trên quyền có bàn đến tầm quan
trọng của Nhà nước và Chính phủ trong mối quan hệ tương quan với công dân của
16
họ về mặt quyền và nghĩa vụ. Cách tiếp cận theo quyền lôi kéo sự chú ý của Nhà
nước về mặt chăm lo đời sống của người dễ bị tổn thương.
Tiếp cận dựa trên quyền nhằm hướng đến việc cải thiện hoàn cảnh của con
người, tập trung vào nhu cầu, vấn đề và tiềm năng của họ, nói trên quyền con người
là nói đến nghĩa vụ và trách nhiệm.
Cũng giống như cách tiếp cận khác, tiếp cận quyền con người nhằm hướng
đến việc cải thiện hoàn cảnh của con người, tập trung vào nhu cầu, vấn đề và tiềm
năng của họ. Theo cách này, cách tiếp cận dựa trên quyền có đề cập đến những vấn
đề luôn được coi là trọng yếu đối với sự phát triển, như là thực phẩm, nước, nhà ở, y
tế. Vì vậy, quyền con người vượt lên trên ý niệm về nhu cầu cơ bản mà chứa đựng
một cái nhìn nhân đạo hơn về con người, về khía cạnh công dân, chính trị, xã hội,
kinh tế và vai trò văn hóa. Đồng thời, nhắc đến quyền con người là nói đến nghĩa vụ
và trách nhiệm, trong khi đó cách tiếp cận theo nhu cầu sẽ không đề cập đến.
Tiếp cận quyền con người là cách tiếp cận mang tính nhân văn. Coi trọng
con người với những quyền mà họ được hưởng, đó là quan điểm hướng tới giá trị
nhân văn cao đẹp về con người. Với cách tiếp cận này, đối tượng dù đang gặp phải
vấn đề khó khăn cũng được tôn trọng như là một con người với đầy đủ các giá trị.
Tiếp cận dựa trên quyền con người là trung tâm, tập trung vào nhu cầu và tiềm năng
của họ để đi tới giải quyết vấn đề. Tiếp cận dựa trên quyền con người giúp nhân
viên xã hội hướng đến các giải pháp mang tính bền vững.
Và như vậy theo cách tiếp cận này thì NCCVCM cần phải có quyền được
chăm sóc về thể chất, về tinh thần, có quyền được được phát triển, quyền được tham
gia xây dựng Đảng, Nhà nước; tham gia các hoạt động xã hội.
Vận dụng cách tiếp cận này, tác giả sẽ đóng vai trò là người biện hộ, người
tập huấn để trợ giúp NCCVCM nâng cao nhận thức, giúp họ tự nhận ra và quyết
định việc tham gia của họ với vai trò là chủ động vào quá trình tìm kiếm sự công
bằng cho bản thân và cho nhóm những người cùng hoàn cảnh với họ, để họ nhận
thức rõ được quyền và lợi ích hợp pháp mà họ lẽ ra phải được hưởng. Đồng thời
giúp họ nói lên tiếng nói của mình đối với những cấp chính quyền cao hơn.
17
1.2.3.2. Tiếp cận theo nhu cầu
Tiếp cận theo nhu cầu của NCCVCM là cách tiếp cận dựa trên việc đáp ứng
tốt nhất các dịch vụ CTXH đối với các nhu cầu của NCCVCM. Việc tiếp cận theo
nhu cầu sẽ giúp cho việc hỗ trợ hợp lý, đạt hiệu quả, không thừa, không thiếu. Việc
tiếp cận theo nhu cầu phải theo hai hướng là nhu cầu cần và nhu cầu cảm. Nhu cầu
cần là những nhu cầu cơ bản của NCCVCM, còn nhu cầu cảm là nhu cầu mà nhân
viên xã hội thấy là cần cho NCCVCM.
Tiếp theo là nhu cầu cần được bảo vệ an toàn, ngăn ngừa những nguy cơ gây
tổn thương cho NCCVCM cả về thể chất, tinh thần, tình cảm. Nhu cầu vui chơi, giải
trí, học tập. Thông qua những hoạt động này, NCCVCM sẽ được phát triển, hòa
nhập với cộng đồng và dần dần sẽ tự khẳng định mình. Nhu cầu được tôn trọng,
giao lưu, kết nối đồng đội, thăm lại chiến trường xưa, nơi bị tù đày, tìm hài cốt đồng
đội đã hy sinh nơi chiến trường. Nhu cầu việc làm, cải thiện nhà ở. Nhu cầu cao
nhất của NCCVCM đó là tự khẳng định mình, chứng minh rằng mình có năng lực,
mình có thể làm được mọi việc. Do bản thân từng tham gia chiến đấu, bỏ lại một
phần thân thể nơi chiến trường nên hầu hết NCCVCM đều có nhu cầu, mong muốn
thể hiện mình có khả năng, không phải là gánh nặng cho gia đình, người thân.
Cách tiếp cận dựa trên nhu cầu có ý nghĩa quan trọng trong việc hỗ trợ
NCCVCM.
Thứ nhất, vẫn luôn có những NCCVCM thiếu thốn các nguồn lực để đáp ứng
nhu cầu của cá nhân và gia đình. Trong đó, có những người đặc biệt khó khăn
không có khả năng tự bảo đảm cuộc sống của cá nhân từ việc lo ăn, lo mặc đến
chữa bệnh, học hành và có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cuộc sống. Những người
này rất cần được sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.
Thứ hai, việc đáp ứng các nhu cầu cho NCCVCM chính là động cơ thúc đẩy
họ tham gia hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội. Nếu không đáp ứng nhu cầu thì họ
mất dần động cơ tham gia đóng góp cho xã hội, thay vào đó là các hành vi bất mãn.
Thứ ba, tiếp cận theo nhu cầu sẽ giúp các hỗ trợ xã hội giảm kinh phí và tăng
hiệu quả khi tránh được sự dư thừa hay không đầy đủ khi hỗ trợ.
18
1.2.3.3. Tiếp cận vì lợi ích tốt nhất cho người có công vơi cách mạng
Tiếp cận theo tôn chỉ đem lại lợi ích tốt nhất cho NCC là cách tiếp cận với
việc cung cấp các dịch vụ bảo đảm lợi ích tốt nhất cho NCCVCM. Tiếp cận theo
nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất có ý nghĩa ở việc dù ở bất cứ tình huống nào, lợi ích
của NCCVCM luôn được đặt lên hàng đầu, luôn hưởng những dịch vụ tốt nhất.
1.3. Nội dung dịch vụ công tác xã hội đối với người có công cách mạng
1.3.1. Hỗ trợ chăm sóc sức khỏe
Công tác chăm sóc sức khỏe cho NCCVCM là một tất yếu cần được quan tâm
hàng đầu. Họ mang trên mình những vết thương của chiến tranh, khi trái gió trở trời
vết thương lại bùng phát ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và làm ảnh hưởng
trực tiếp đến đời sống của họ. Đa số họ phải trải qua những gian khổ vì thế mà sức
khỏe của họ không còn đủ để đảm bảo phục vụ cho cuộc sống thường ngày của mình.
Công tác tổ chức thăm hỏi chăm sóc theo phương châm “đoàn kết, bình
đẳng, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển” đã tạo điều kiện cho gia đình
NCCVCM vươn lên phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống.
Sức khỏe thương binh, bệnh binh nhìn chung đã suy giảm nhiều do thương
tật, bệnh tật hay tuổi tác, những vết thương của chiến tranh đã và đang giày xéo về
thể xác lẫn tinh thần đối với mỗi thương binh, bệnh binh. Bộ phận những thương
binh, bệnh binh khác mặc dù thương tật, bệnh tật nhẹ hơn nhưng sức khỏe của họ
cũng bị giảm sút do tuổi cao, sức đã yếu lại còn tình trạng thương tật, bệnh tật do
hậu quả của chiến tranh để lại nên họ thường xuyên phải chịu những cơn đau mỗi
khi trái gió, trở trời. Bởi vậy, để chăm sóc tốt hơn đời sống cho thương binh, bệnh
binh cần phải chú ý đến công tác chăm sóc sức khỏe, tổ chức khám bệnh định kỳ để
họ ổn định sức khỏe, ổn định cuộc sống. Việc quan tâm chăm sóc đời sống, cũng
như tinh thần, đặc biệt là sức khỏe của thương binh, bệnh binh là việc làm đòi hỏi
sự chung tay, góp sức của Nhà nước và cả cộng đồng.
Việc cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí luôn được quan tâm thực hiện. Hiện nay
toàn bộ NCCVCM đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí tạo điều kiện cho
NCCVCM được khám chữa bệnh và cấp thuốc kịp thời, đảm bảo sức khỏe cho
19