Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tiến Trình Nhận Thức Và Phát Triển Đường Lối Cách Mạng VN Của Đảng Thời Kỳ 1930 1945 <Đảng>

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.5 KB, 31 trang )

CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

Limu
CỏchmngThỏngTỏmlktquvnhcaoca15nmutranhca
tondõntadislónhocang,mtrctiputranhmtrctipl
phong tro gii phúng dõn tc 1939ư 1945. Trong quỏ trình  đó  ,  Đảng  đã  xây 
dựng được một lực lượng chính trị hung hậu; từng bước lực lượng vũ trang nhân 
dân, được nhân dân ni dưỡng và đùm bọc , có chỗ đứng chân ngày càng vững 
chắc trong căn cứ địa cách mạng , giữ vai trị nịng cốt , xung kích , hỗ trợ choa 
qn chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Đảng  Cộng  sản  Đơng  Dương  là  người  tổ  chức  và  lãnh  đạo  cuộc  cách 
mạng  Tháng  Tám.  Đảng  có  đường  lối  cách  mạng  đúng  đắn  ,  dày  dặn  kinh 
nghiệm đấu tranh, bắt rễ sau trong quần chúng , đồn kết và thống nhất , quyết 
tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền . Sự lãnh đạo của Đảng 
là điều kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của Cách Mạng Tháng Tám.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân 
tộc điển hình do Đảng Cộng sản  lãnh đạo , lần đầu tiên giành thắng lợi ở một 
nước thuộc địa . Với thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, nhân dân Việt Nam 
đã đập tan xiềng xích nơ lệ của chủ nghĩa đế quốc trong gần một thập kỉ ttrên đát 
nước ta, chấm dứt sự tồn tại của chế độ qn chủ chun chế ngót nghìn năm , 
lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ, nhà nước do nhân dân lao động 
làm chủ. Nhân dân Việt Nam từ than phận nơ lệ trở thành người dân độc lập, tự 
do, người làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành 
nước độc lập và tự do. Đảng cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật 
khơng  hợp  pháp  trở  thành  một  đảng  cầm  quyền  và  hoạt  động  cơng  khai.  Với 
thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, “ chẳng những giai cấp lao động mà nhân 
dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức 
nơi  khác  cũng  có  thể  tự  hào  rằng  :  lần  này  là  lân  đầu  tiên  trong  lịch  sử  cách 

1



CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

mngcacỏcdõntcthucavnathuca,mtngmi15tuiólnh
ocỏchmngthnhcụng,ónmchớnhquyntonquc.
ThnglicaCỏchmngThỏngTỏmỏnhdubcphỏttrinnhyvt
tronglchstinhoỏcadõntcVitNam,mraknguyờnmicalchs
dõntc,knguyờnclptdo.
TintrỡnhnhnthcvphỏttrinngliCỏchmngVitNamca
ngthikỡ1930ư1945úngvaitrũquantrngtrongthngliCỏchmng
ThỏngTỏm,vlnntngngliphỏttrincangtrthnhutulónh
onhõndõnginhthnglihaicuckhỏngchinchngthcdõnPhỏpv
qucM.

2


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

Nidung


CAO TRO V S PHT TRIN LC LNG CCH

MNGTINTIKHINGHAGINHCHNHQUYN
1ưCaotrocỏchmng1930ư1931vXụvitNghTnh
Phong tro đấu  tranh  của  nhân  dân  ta  trong  những  nǎm  1930­1931  tn 
theo một quy luật chung là ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Đế quốc Pháp 
trút gánh nặng của cuộc khủng hoảng kinh tế lên vai giai cấp cơng nhân, nhân 
dân lao động Pháp và các thuộc địa của Pháp. Đối với nước ta vào những nǎm 

1924­1929, đế quốc Pháp tǎng cường đầu tư, khai thác và bóc lột. Nên kinh tế 
Việt Nam vốn đã kiệt quệ do chính sách bóc lột thậm tệ của thực dân Pháp, nay 
lại càng kiệt quệ. Đời sống của các tầng lớp nhân dân ta đều bị đe doạ, trong đó 
cơng nhân và nơng dân chịu nhiều tai hoạ nhất. 
Để đánh đổ ách thống trị của đế quốc Pháp và bọn vua quan phong kiến, 
làm cho nước Việt Nam hồn tồn độc lập, Đảng chủ trương phải thu phục cho 
được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân 
chúng". 
Nhiệm vụ của Đảng là "phải lấy những sự nhu yếu hàng ngày làm bước 
đầu mà dắt vơ sản giai cấp và dân cày ra chiến trường cách mạng... để dự bị họ 
về phía võ trang bạo động sau này" 
Theo phương hướng đấu tranh đó, phong trào cơng nơng được dấy lên từ 
cuối nǎm 1929 đến nǎm 1930. Tiếp theo cuộc đấu tranh của cơng nhân đồn điền 
Phú Riềng (Nam Bộ) tháng 2­1930, cuộc bãi cơng của 4.000 cơng nhân nhà máy 
sợi  Nam  Định  kéo  dài  ba  tuần  lễ,  từ  ngày  25  tháng  3  đến  ngày  16  tháng  4  do 
Tỉnh uỷ Nam Định và Đảng uỷ nhà máy tổ chức. Ngay sau đó ngày 19 tháng 4, 
400  cơng  nhân  nhà  máy  diêm  Bến  Thuỷ,  thành  phố  Vinh  đình  cơng  địi  tǎng 
lương  và  cải  thiện  điều  kiện  làm  việc.  Ngồi  những  cuộc  đấu  tranh  của  cơng 
nhân, cịn có những cuộc đấu tranh của nơng dân và các tầng lớp nhân dân lao 

3


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

ngkhỏcnh:cucbiutỡnhcanụngdõnHNam,ThỏiBỡnh,ũigimsu
thunratrongthỏng4ư1930.
Nhngcucutranhlnnúitrờncacụngnhõnvnụngdõnlnhng
"phỏohiu"mucaotrocỏchmngmiVitNam,chngtvaitrũdn
ucaotrolgiaicpcụngnhõnvtiptheolgiaicpnụngdõn.

Trờncsphongtrocụngnụngbcuphỏttrinvthngli,ng
kờu gi qun chỳng tip tc u tranh ũi tng lương,  giảm  giờ  làm  cho  cơng 
nhân, giảm sưu, hỗn thuế cho nơng dân để thiết thực kỷ niệm ngày Quốc tế lao 
động 15­1930. 
Cuộc đấu tranh ngày 1­5­1930 là một bước ngoặt đánh dấu phong trào đấu 
tranh của quần chúng phát triển thành cao trào cách mạng. Ngày đó, từ thành thị 
đến nơng thơn ở nhiều nơi trong cả nước treo cờ Đảng, rải truyền đơn, tổ chức 
mít tinh, biểu tình, tuần hành thị uy, khẩu hiệu đấu tranh địi quyền lợi kinh tế đã 
kết hợp với khẩu hiệu chính trị. Nhiều cuộc bãi cơng, biểu tình đã liên tiếp nổ ra 
từ các xí nghiệp cơng nghiệp ở thành thị đến các vùng nơng thơn ở nhiều tỉnh 
trong cả nước. Sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cuộc bãi cơng của cơng nhân 
các  nhà  máy  với  các  cuộc  biểu  tình  của  nơng  dân  ở  làng  xã,  sự  đồn  kết  đấu 
tranh giữa cơng nhân và nơng dân làm cho đế quốc Pháp lúng túng, bị động, lo 
sợ.
Tháng 9­1930, cao trào tiếp tục phát triển lên đỉnh cao. Những khẩu hiệu 
chính trị được kết hợp chặt chẽ với các u sách về kinh tế trong hàng loạt các 
cuộc đấu tranh ở khắp cả nước. 
Ở Nghệ An, Hà Tĩnh từ cuối tháng 8 đến đâu tháng 9­1930 là thời kỳ "đấu 
tranh kịch liệt", diễn ra nhiều cuộc đấu tranh quy mơ huyện và liên huyện với 
hàng nghìn, hàng vạn dân chúng tham gia. Những cuộc đấu tranh tiêu biểu như 
cuộc biểu tình của 3.000 nơng dân huyện Nam Đàn ngày 30­8, của 20.000 nơng 
dân Thanh Chương ngày 1­9, của 3.000 nơng dân huyện Can Lộc ngày 7­9, của 
8.000 nơng dân huyện Hưng Ngun ngày 12­9­1930. Phần lớn những cuộc biểu 
tình này là những cuộc đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ. Quần chúng phá 
4


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

huyn ng, t giy t, phỏ nh giam, phỏ xing gơng,  giải  phóng  những 

người bị bắt. Trước khí thế đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, bọn thực dân, 
phong  kiến  hoảng  sợ,  nhiều  tên  tri  huyện,  lý  trưởng  nộp  lại  ấn  tín  hoặc  chạy 
trốn, nhiều nơi chính quyền địch tan rã. Trong tình hình đó, Xơ viết Nghệ Tĩnh, 
một hình thức chính quyền đâu tiên của cơng nơng trong lịch sử cách mạng Việt 
Nam xuất hiện. 
Xây dựng được đội qn chủ lực của cách mạng, thực hiện được liên minh 
cơng nơng là một thành tích nổi bật của Đảng ta trong cao trào cách mạng 1930­
1931 và Xơ viết Nghệ Tĩnh. 
Thực tế lịch sử cho thấy, trong cao trào cách mạng 1930­1931 và Xơ viết 
Nghệ Tĩnh, cơng nơng thể hiện một nghị lực cách mạng Phi thường và sức mạnh 
to lớn. Hàng triệu nơng dân đã đứng lên cùng với giai cấp cơng nhân phối hợp 
đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.
Đó  là  nhờ  Cương  lĩnh  đầu  tiên  của  Đảng  đúng,  gắn  nhiệm  vụ  chống  đế 
quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện giải phóng dân tộc và ruộng đất 
cho dân cày, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của cơng nơng. 
Nhưng  nếu  chỉ,  thấy  lực  lượng  cách  mạng  có  hai  giai  cấp  cơng  nhân  và 
nơng dân thì sẽ dẫn đến cơ độc, hẹp hịi, hạn chế việc mở rộng lực lượng cách 
mạng. Trong chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh Đơng Dương ra ngày 18­
11­1930, Thường vụ Trung ương Đảng đã phân tích, chỉ rõ tính "biệt phái" của 
phong  trào,  thiếu  một  tổ  chức  thật  quảng  đại  quần  chúng  để  lôi  cuốn  các  tầng 
lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, địa chủ có đầu óc ốn ghét đế quốc Pháp, 
mong  muốn  quốc  gia  độc  lập.  Đó  là  nhận  thức  mới,  cách  nhìn  mới,  đánh  giá 
đúng các tầng lớp, giai cấp trong dân tộc của Đảng. Chỉ có như vậy mới tập hợp 
được lực lượng của cả dân tộc. Vì "Cách mạng tư sản dân quyền ở Đơng Dương 
mà khơng tổ chức được tồn dân lại thành một lực lượng thật rộng, thật kín thì 
cuộc cách mạng cũng khó thành cơng". 
Đội  qn  chính  trị  quần  chúng  có  tính  quyết  định  là  cơng  nơng,  nhưng 
muốn đánh đổ kẻ thù lớn mạnh, đạt tới thắng lợi nhanh nhất và giảm bớt tổn thất 
5



CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

chocỏchmng,iquõnchớnhtrykhụngthchcúcụngnụng,mphibao
gmhtthycỏcgiaicpvtnglpcúkhnngchngqucvphongkin.
2.Caotrovnngdõnch1938ư1939
Vo cui nm 1931, cỏch mng Vit Nam bc vo thời  kỳ  thối  trào. 
Thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp khủng bố rất tàn bạo, nhất là đối với 
nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh.
Cơ  quan  trung  ương,  các  xứ  uỷ  Nam  Kỳ,  Trung  Kỳ,  Bắc  Kỳ,  nhiều  cơ 
quan tỉnh, huyện, xã bị phá vỡ hầu hết. Kẻ địch định dìm phong trào cách mạng 
của quần chúng trong biển máu, tình hình đen tối tưởng như khơng có đường ra. 
Cách mạng đứng trước thử thách lớn. 
Do tinh thần u nước, thiết tha với độc lập, tự do của nhân dân ta và lịng 
trung  thành,  ý  chí  đấu  tranh  kiên  cường  của  cán  bộ,  đảng  viên,  cách  mạng  đã 
nhanh chóng ra khỏi thời kỳ thối trào, tiến lên một cao trào mới, cao trào vận 
động dân chủ 1936­1939. 
Cách  mạng  Việt  Nam  những  nǎm  1936­1939  diễn  ra  trong  bối  cảnh  thế 
giới có những diễn biến phức tạp. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện, nguy cơ của một 
cuộc  chiến  tranh  thế  giới  đang  đến  gần.  Nhân  loại  đứng  bên  bờ  vực  của  thảm 
hoạ chiến tranh. 
Chủ nghĩa phát xít là kẻ thù xấu xa, tàn bạo nhất của nhân dân thế giới. 
Trước tình hình ấy, Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ VII đã họp tại Mátxcơva 
(7­1935), tham gia Đại hội có 65 đồn đại biểu của các Đảng cộng sản trên thế 
giới.  Đồn  đại  biểu  Đảng  cộng  sản  Đơng  Dương  có  các  đồng  chí  Lê  Hơng 
Phong,  Nguyễn  Thị  Minh  Khai,  Hồng  Vǎn  Nọn  do  đồng  chí  Lê  Hơng  Phong 
làm trưởng đồn. Đồng chí Hồ Chí Minh, lúc này đang học tập và nghiên cứu tại 
trường Quốc tế Lênin ở Mátxcơva cũng được mời dự. Đại hội xác định kẻ thù 
trước mắt của giai cấp cơng nhân, nhân dân thế giới là chủ nghĩa phátxít, nhiệm 
vụ đấu tranh trước mắt là chống phátxít, chống chiến tranh, địi dân chủ, gìn giữ 

hồ bình. Đại hội quyết định thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi trên thế giới 
chống chủ nghĩa phátxít, địi tự do, dân chủ và hồ bình. ở Pháp, vào đầu nǎm 
6


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

1936,MttrnnhõndõnPhỏpvChớnhphphỏitphirasclnhõnxỏchớnh
trphmụngDng,thnhlpubaniutratỡnhhỡnhthucaBcPhi
vụngDng,cúmtsthayivchlaongivicụngnhõn.
VndngnghquytihiQuctcngsnlnthVII,phõntớchtỡnh
hỡnhthgii,trongnc,ngxỏcnhkthựchyutrcmtcanhõndõn
ụngDnglbnphnngthucavbốltaysaicachỳng,mctiờu
utranhtrcmtlchngbnphnngthuca,chngphỏtxớtvchin
tranh,ũitdo,dõnch,cmỏo,hobỡnh.Mctiờuúkhụngchthngnht
vimctiờuutranhcanhõndõnthgii,tranhthcsngtỡnhng
hquct,mcũnỏpngyờucu,nguynvngbcthitcanhõndõnta,cú
sccvvtphplclngmtcỏchrngln,thuhỳtchtthycỏcgiai
cp,tnglpthamgiaphongtrodõnchbngnhiuhỡnhthcphongphỳ,sỏt
hp.
Mttrndõnch,mthỡnhthcmttrnthớchhpnhtlỳcúóthay
thMttrndõntcthngnhtphn.
Thnh phn tham gia Mt trn dõn ch rng hn Mật  trận  phản  đế.  Mặt 
trận dân chủ khơng chỉ có các lực lượng tiên tiến, kiên quyết chống đế quốc mà 
gồm cả những thành phần chỉ có u cầu cải cách, khơng chỉ có quần chúng cơ 
bản là cơng nhân, nơng dân mà cịn có cả những tầng lớp tư sản, địa chủ, các 
đảng phái cải lương ít nhiều tiến bộ, các thủ lĩnh dân tộc, tơn giáo đấu tranh cho 
dân chủ, tự do cơm áo, hồ bình. 
Mặt  trận  khơng  chỉ  bao  gồm  những  người  tán  thành  dân  chủ  thuộc  ba 
nước  Đông  Dương,  mà  còn  thu  hút  cả  những  ngoại  kiều  như  Hoa  kiều,  Pháp 

kiều tán thành mục tiêu này. Để tập hợp đồng đảo quần chúng, trong chính sách 
mặt trận, Đảng coi trọng liên minh các tầng lớp, giai cấp cơ bản, vừa thực hiện 
liên minh các tầng lớp, giai cấp cơ bản, vừa thực hiện liên minh với các tầng lớp 
trên, lấy liên minh cơng nơng làm nền tảng. 
Các nghị quyết của Đảng thời kỳ này vạch rõ tình hình mới địi hỏi Đảng 
phải có đường lối chính trị mới và có phương pháp hoạt động mới. Phương pháp 
7


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

phirtlinhhotnhmonktngoqunchỳngtrongmtmttrnthng
nht chng phn ng thuc a, chng phỏtxớt v chin tranh,  địi  tự  do,  dân 
chủ. 
Đảng  chủ  trương  chuyển  hình  thức  hoạt  động  bí  mật,  khơng  hợp  pháp 
sang các hình thức cơng khai, hợp pháp và nửa cơng khai, hợp pháp, nhằm tập 
hợp và hướng dẫn đơng đảo quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, qua đó giáo 
dục, phát triển lực lượng cách mạng. 
Các cuộc đấu tranh cơng khai, hợp pháp và nửa hợp pháp đã diễn ra sơi 
nổi ở cả ba nước Đơng Dương nhất là ba xứ Nam, Trung, Bắc thuộc Việt Nam. 
Đó là phong trào Đơng Dương đại hội, phong trào đấu tranh địi quyền dân sinh, 
dân chủ, phong trào báo chí, truyền bá quốc ngữ, đấu tranh nghị trường, những 
cuộc  mít  tinh  nhân  ngày  quốc  tế  lao  động  1­5,  những  cuộc  đón  tiếp  Gơđa  và 
Brêviê, các "vị quan to của nhà nước bảo hộ Pháp". Nhứng cuộc đấu tranh đó đã 
thu  hút  được  hàng  nghìn,  hàng  vạn  quần  chúng.  Đảng  và  quần  chúng  trưởng 
thành nhanh chóng qua thực tiễn đấu tranh, đồng thời càng thấy rõ sức mạnh to 
lớn của nhân dân cùng những kinh nghiệm giác ngộ, tổ chức quần chúng thành 
những lực lượng cách mạng tự giác. 
Thực  tiễn  thời  kỳ  1936­1939,  Đảng  nhận  thức  rõ  hơn  mối  quan  hệ  giữa 
mục tiêu với các hình thức tổ chức đấu tranh. 

Hình thức tổ chức đấu tranh phải phục tùng mục tiêu đấu tranh, phải huy 
động được nhiều lực lượng tham gia đấu tranh bằng nhiều hình thức thích hợp. 
Đảng đặt vấn đề phải biết tranh thủ những điều kiện hợp pháp, khơng ảo 
tưởng về con đường hợp pháp giành chính quyền, mà chính là để mở rộng việc 
giáo dục và tập hợp quần chúng, phát triển rộng rãi ảnh hưởng của cách mạng. 
Từ  những  hội  ái  hữu,  nghiệp  đồn,  đưa  nguyện  vọng  địi  mở  Đại  hội  Đơng 
Dương, đón phái đồn điều tra, truyền bá quốc ngữ, hoạt động báo chí đến việc 
lợi dụng Viện dân biểu, Hội đồng quản hạt, u cầu cải cách hương chính v.v., 
Đảng và quần chúng đã sáng tạo ra hàng loạt hình thức hoạt động, tổ chức và 

8


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

utranhvụcựngphongphỳ,linhhot,tthpncao.Chtrongmtthigian
ngnótphpciquõnchớnhtrqunchỳngrngln.
ngviờnhngtriuqunchỳngvomttrnutranh,baogmcụng
nhõn,nụngdõn,trớthc,ththcụng,nhngngibuụnbỏnnhmhỡnhthnh
iquõnchớnhtrquónchỳngrngln,thcslbcphỏttrinmitrongxõy
dnglclngcỏchmng,lmttrongnhngthnhqunibttrongcaotro
cỏchmng1936ư1939.
Trong cuc tng din tp ln th nht (1930ư1931) lc lượng  đấu  tranh 
chủ  yếu  là  cơng  ­  nơng,  thì  trong  cuộc  tổng  diễn  tập  tân  thứ  hai  (1936­1939) 
ngồi cơng ­ nơng là nịng cốt cịn có đồng đảo các tâng lớp, giai cấp tập hợp 
trong Mặt trận dân chủ. 
Trên  cơ  sở  phong  trào  quần  chúng  rộng  rãi,  nòng  cốt  là  khối  liên  minh 
cơng ­ nơng đã hình thành trên thực tế từ cao trào 1930­1931, Đảng xây dựng 
Mặt  trận  dân  tộc  thống  nhất.  Đó  là  bước  tiến  mới  trong  nhận  thức  và  chỉ  đạo 
thực tiễn của Đảng về xây dựng lực lượng cách mạng. 

3. Cao trào giải phóng dân tộc 1939­1945 
Tình hình thế giới vào những nǎm 1939­1945, nổi bật là cuộc Chiến tranh 
thế giới tân thứ hai bùng nổ, chi phối đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các 
nước. Chiến tranh gây tổn thất, đau thương cho nhân dân, đồng thời đẩy nhanh 
q  trình  "cách  mạng  hoá  quần  chúng".  Đảng  cách  mạng  của  giai  cấp  vơ  sản 
nhân  cơ  hội  đó  tập  hợp  lực  lượng,  đẩy  nhanh  q  trình  phát  triển  phong  trào 
cách mạng tiến lên từng bước vững chắc.
Chính phủ phản động Pháp là một trong những bên gây ra chiến tranh. Sau 
khi tham chiến, chúng thi hành chính sách phátxít, giải tán Đảng cộng sản và các 
tổ chức dân chủ tiến bộ ở nước Pháp cũng như các thuộc địa của Pháp. Tại Đơng 
Dương, chúng thi hành chính sách cai trị thời chiến trên tất cả các mặt đời sống 
xã hội, ra lệnh tổng động viên, bắt lính, bắt phu, tǎng cường áp bức, bót lột. 
Nhận rõ những biến động to lớn của tình hình thế giới và trong nước, tiền 
đề  của  cách  mạng  thế  giới  và  cách  mạng  Đông  Dương,  Đảng  ta  quyết  định 
9


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

chuynhngchochinlc:gingcaohnnangncgiiphúngdõn
tc,tnhimvchngquc,giiphúngdõntccaohnnhimvchng
phong kin, ginh rung t cho nụng dõn, coi nhim vụ  trung  tâm  của  cách 
mạng là chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. 
Đảng  ta  hiểu  rằng,  thắng  lợi  của  cách  mạng  khơng  tự  đến  mà  phải  chủ 
động chuẩn bị giành lấy và giữ vững. Muốn vậy phải có lực lượng, có sức mạnh 
tồn dân đồn kết. 
Mặt  trận  Việt  Nam  độc  lập  đồng  minh  (gọi  tắt  là  Việt  Minh)  ra  đời  chủ 
trương  đoàn  kết  hết  thảy  các  giới  đồng  bào  u  nước,  khơng  phân  biệt  giàu, 
nghèo, già trẻ, trai gái, khơng phân biệt tơn giáo và xu hướng chính trị nhằm 
đấu tranh giải phóng dân tộc. 

Mặt trận Việt Minh ra đời đã thu hút ngày càng nhiều các tầng lớp nhân 
dân. Từ cuối nǎm 1941 đến đâu nǎm 1942, các hội Cơng nhân cứu quốc, Nơng 
dân  cứu  quốc,  Phụ  nữ  cứu  quốc,  Thanh  niên  cứu  quốc,  đội  tự  vệ  cứu  quốc  đã 
được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và các thành phố 
Hà Nội, Hải Phịng, Mặt trận Việt Minh thực sự đã đánh thức được tinh thần dân 
tộc xưa nay trong nhân dân. 
Đặt vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền là nhiệm vụ trung tâm, địi hỏi 
Đảng ta phải xây dựng lực lượng về mọi mặt, vừa có lực lượng chính trị, vừa có 
lực lượng vũ trang. 
Tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang, đẩy hình thức đấu tranh vũ trang 
lên khi cần thiết, kết hợp xây dựng lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang, 
chú ý xây dựng, bố trí lực lượng trên các địa bàn chiến lược, ở cả nơng thơn và 
thành thị là nội dung mới về xây dựng lực lượng cách mạng của thời kỳ 1939­
1945. 
Q trình xây dựng lực lượng cách mạng đồng thời là q trình phát triển 
cao trào đánh Pháp đuổi Nhật. Mặt khác, qua đấu tranh, lực lượng khơng ngừng 
lớn mạnh. 

10


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

Tronghainm1943ư1944,thchinNghquytcaBanthngvtrungng
ngthỏng2ư1943,huhtcỏcngbaphngvựngngbngBcB,
saunhngtchngkhngb,óymnhvicxõydngvcngccỏcon
thVitMinhnụngthụnvthnhth.
HNi,tchcVitMinhcphỏttrinmnhtrongnhiunhmỏy,
trnghc.cỏctnhngbngvvenbinminTrung,nhiutchccs
cangvVitMinhóivoqunchỳngcụngnhõn,nụngdõn,dõnnghốo,

ngthiphỏttrinvocỏctnglptiutsn,trớthcthnhth.
NamB,cựngvisphchimtscscụnghi,tchcVitMinh
cxõydngSiGũn,Gianh,TõyNinhvmtstnhkhỏc.Hotng
cacỏcituyờntruynxungphongvvtrangnhiuthnhph,thxóó
gõythanhthchoVitMinh,thỳcyvicphỏttrincỏconthcuquc.
vựngrngnỳivtrungduBcB,cúnhngduhiucacaotrocỏchmng.
CaoBng,hthngVitMinhcxõydngkhpcỏccstrongtnh.i
t v v trang v du kớch c thnh lp ở  các  xã,  các  huyện.  Các  lớp  huấn 
luyện chính trị, qn sự mở ra liên tiếp. Phong trào chuẩn bị khởi nghĩa sục sơi 
trong tồn tỉnh. Khơng khí chuẩn bị khởi nghĩa dâng lên mạnh mẽ ở Lạng Sơn, 
Bắc  Cạn,  Thái  Ngun,  Tun  Quang,  Hà  Giang,  Phú  Thọ,  Bắc  Ninh,  Bắc 
Giang, Vĩnh n, Việt Trì. 
Trong khi đó mâu thuẫn Nhật ­ Pháp ngày càng phát triển gay gắt. Đúng 
như dự đốn của Đảng, đêm 9­3­1945, Nhật đã nổ súng đánh Pháp cùng một lúc 
trên tồn cõi Đơng Dương.
Ngay đềm 9­3­1945, giữa lúc Nhật nổ súng đánh Pháp, Hội nghị mở rộng 
của Ban thường vụ trung ương Đảng họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) 
do đồng chí Trường ­ Chinh chủ trì. Hội nghị quyết định phát động một cao trào 
kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. 
Giữa lúc ấy, nạn đói ở các tỉnh miền Bắc diễn ra rất nghiêm trọng. Chính sách 
11


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

vvột,búcltcaphỏtxớtNhtvthcdõnPhỏpólmchohnhaitriudõn
tachtúi.Trctỡnhhỡnhú,ngnờukhuhiu:"Phỏkhothúc,giiquyt
nnúi"Chtrngúcangóỏpngnguynvngcpbỏchnhtca
qunchỳng,ódylờnmtcaotrnutranhrnglnnụngthụnBcB.
CaotrokhỏngNhtcunccngdõnglờnmnhmkhictinthngli

caHngquõnLiờnXụvphỏtxớtNhtuhngvụiukin.
Trongtỡnhhỡnhvụcựngkhncp,Hinghtonquccanghpt
ngy13nngy15ư8ưl.945,tipsauúngy16ư8ư1945ihiqucdõnhp
ti Tõn Tro (Tuyờn Quang), quyt nh phỏt ng ton dân  tổng  khởi  nghĩa. 
Nhân  dân  cả  nước,  triệu  người  như  một  đã  nhất  tế  đứng  lên  khởi  nghĩa  giành 
chính quyền từ tay phátxít Nhật và chính quyền tay sai. Chỉ trong vịng 12 ngày, 
từ ngày 14 đến ngày 25­8­1945, nhân dân ta đã giành được chính quyền trong cả 
nước. 
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi "chẳng những giai cấp lao động và nhân dân 
Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi 
khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của 
các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách 
mạng thành cơng, đã nắm chính quyền tồn quốc. 
Cách  mạng  Tháng  Tám  nổ  ra  và  thắng  lợi  là  kết  quả  hợp  thành  của  các 
nhân tố chủ quan và khách quan, trong và ngồi nước. Nhưng quyết định trực 
tiếp, trước hết là các nhân tố chủ quan bên trong. Đó là sự lãnh đạo đúng đắn 
của Đảng và tinh thần quật khởi mạnh mẽ của tồn dân ta. 
Trong suốt 15 nǎm, kể từ khi ra đời đến Cách mạng Tháng Tám 1945, qua 
ba cao trào, Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng về mọi mặt. Nhờ 
có lực lượng tồn dân đồn kết được xây dựng rộng khắp, có tổ chức chặt chẽ 
nên cách mạng Tháng Tám đã diễn ra nhanh, ít đổ máu và thắng lợi vẻ vang. 
II­ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG 
12


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

1.Tngthik,ngnhramctiờu,nhimvcthsỏtỳng
tphpqunchỳng,xõydnglclngcỏchmng
T khi ra i, ng ó xỏc nh trong Cng lĩnh  của  mình  con  đường 

phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam: trước làm cách mạng dân tộc dân 
chủ,  sau  đó  tiến  lên  chủ  nghĩa  xã  hội,  bỏ  qua  giai  đoạn  phát  triển  tư  bản  chủ 
nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ, hai nhiệm vụ chống đế quốc 
và  chống  phong  kiến  được  kết  hợp  một  cách  khǎng  khít,  nhằm  thực  hiện  mục 
tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng. 
Phương hướng và mục tiêu cơ bản đó đáp ứng u cầu, nguyện vọng thiết 
tha  nhất  của  tồn  dân  tộc,  trước  hết  là  công  nhân,  nông  dân  và  nhân  dân  lao 
động.  Đường  lối  chiến  lược  đúng  là  ngọn  cờ  hiệu  triệu,  tập  hợp  lực  lượng. 
Nhưng cách mạng muốn thắng lợi, muốn đạt tới mục tiêu chiến lược phải có sự 
chỉ đạo chiến lược đúng.
Kinh  nghiệm  cho  thấy,  đề  ra  mục  tiêu  chiến  lược  và  kiên  định  mục  tiêu 
chiến lược đó đã khó, thì việc đề ra mục tiêu trước mắt sát hợp với từng thời kỳ, 
kết hợp đúng đắn mục tiêu trước mắt với mục tiêu lâu dài cịn khó khǎn, phức 
tạp hơn. ở đây, có thể phạm sai lầm "hữu khuynh" hoặc "tả khuynh". Nóng vội, 
chủ quan hay do dự, bảo thủ cũng dễ bị tổn thất. Phải kết hợp nhiệt tình cách 
mạng với tri thức khoa học, phải có quan điểm lịch sử cụ thể mới xác định được 
mục tiêu trước mắt sát đúng và do đó mới tập hợp và xây dựng được lực lượng 
cách  mạng  đồng  đảo,  vững  mạnh.  Đồng  chí  Đỗ  Mười,  Tổng  bí  thư  đã  nói: 
"Trong việc xác định mục tiêu, tuy có chú ý tính tồn diện, nhưng cần tập trung 
vào những trọng điểm và thể hiện tính khả thi, khơng đề ra cao q, vì sẽ khơng 
có khả nǎng thực hiện, gây nghi ngờ trong quần chúng, cũng khơng hạ thấp vì sẽ 
kìm hãm phong trào cách mạng của nhân dân. Phải đặc biệt tính tốn các giải 
pháp, phương tiện để thực hiện mục tiêu". 
Thực tiễn lịch sử chứng tỏ, Đảng ta từng bước bổ sung, cụ thể hố đường 
lối  cách  mạng  dân  tộc  dân  chủ  nhân  dân,  nhận  thức  và  giải  quyết  ngày  càng 
đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. 
13


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688


Quỏtrỡnhúngthilquỏtrỡnhgiỏcng,tchcqunchỳngvxõydng
lclngcỏchmng.Luncngchớnhtrthỏngl0ư1930xỏcnhỳngnhim
vchinlcvlclngcbncacỏchmngtsndõnquynncta,
nhng cha xỏc nh rừ nhim v ch yu trc mắt  là  chống  đế  quốc,  giải 
phóng  dân  tộc,  cho  nên  chưa  đánh  giá  đúng  vai  trò,  lực  lượng  của  giai  cấp  trí 
thức tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Do đó dã hạn chế việc tập hợp lực lượng cách 
mạng. 
Trong  cách  mạng  1936­1939,  Đảng  xác  định  mục  tiêu  trước  mắt  đáp  ứng  yêu 
cầu,  nguyện  vọng  của  nhấn  dân,  vì  thế  đã  thu  hút  được  đồng  đảo  quần  chúng 
tham gia đấu tranh. Bên cạnh cơng nhân, nơng dân trước sau vẫn là nịng cốt của 
cách mạng, Đảng cịn thu hút được đồng đảo các tầng lớp các giai cấp, các dân 
tộc, kể cả các đảng phái cải lương, các cá nhân tiên tiến thuộc tầng lớp trên, tán 
thành  đấu  tranh  cho  dân  sinh,  dân  chủ.  Trên  thực  tế  đã  hình  thành  đội  qn 
chính trị quần chúng rộng lớn.
Đánh  giá  ý  nghĩa  của  cao  tràn  cách  mạng  1936­1939,  Chủ  tịch  Hồ  Chí 
Minh nói: "Việc gì đúng với nguyện vọng nhân dân thì được quần chúng nhân 
dân ủng hộ và hǎng hái đấu tranh, và như vậy mới thật là một phong trào quần 
chúng. Nó cũng dạy chúng ta rằng: phải hết sức tránh những bệnh chủ quan, hẹp 
hịi v.v.." 
Trong thời kỳ 1940­1945, Đảng nhận thức đầy đủ hơn và chỉ đạo kết hợp 
một cách khéo léo giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, coi 
nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục 
tùng nhiệm vụ chống đế quốc và được rải ra thực hiện từng bước.
Đảng chỉ rõ: "trong lúc này, nếu khơng giải quyết được vấn đề dân tộc giải 
phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn 
thể quốc gia, dân tộc cịn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi bộ phận của giai 
cấp đến vạn nǎm cũng khơng địi lại được". Trong giai đoạn hiện tại nếu khơng 

14



CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

ỏnhuicNhtưưPhỏpthỡvnmngcadõntcphichukipngatrõu
muụnimvnrungtcngkhụnglmsaogiiquytc"
TptrungminhnutranhỏnhqucphỏtxớtNhtưPhỏpvbố
ltaysai,thchinmctiờuchyulgiiphúngdõntc,songngkhụng
quờnnhnmnh,cỏchmngvnmangtớnhchtdõntcdõnch,nghalkhụng
ctỏchrihainhimvchinlcmphicoiỏnhqucvgiaicp
achphongkinlnhimvkhngkhớt,vndõntcvvndõnch
khụngthtỏchri.Nhng,khụngtinhnhsongsongnhtlotngangnhau.
Tptrunggiiquytnhimvgiiphúngdõntckhụngphilngth
tiờuvnutranhgiaicpvbnhimvina,cngkhụngphilựimt
bcmchbcmtbcngnhn,cúscmbcmtbcdihn.
ng ch trng tm gỏc khu hiu cỏch mng rung đất  mà  thay  bằng  khẩu 
hiệu tịch ký ruộng đất của đế quốc Pháp và của những địa chủ phản bội quyền 
lợi  dân  tộc,  tức  là  chưa  đánh  vào  toàn  bộ  giai  cấp  địa  chủ  phong  kiến.  Đây  là 
một chủ trương khơn khéo, nhằm tập trung lực lượng giải quyết nhiệm vụ chủ 
yếu Chủ trương đó nhằm tạo ra sức mạnh to lớn, tập hợp đồng đảo các tầng lớp 
nhân  dân  tham  gia  cách  mạng,  đồng  thời  củng  cố  khối  liên  minh  cơng  nơng 
thêm vững chắc. 
2. Lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp với trình độ giác ngộ và khả 
nâng đấu tranh của các tầng lớp, giai cấp 
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất 
coi trọng vấn đề tổ chức. Đảng hiểu rằng, sức mạnh của cách mạng bắt nguồn từ 
sức mạnh của quần chúng, mà sức mạnh của quần chúng phải là hành động tự 
giác có tổ chức. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Cách mệnh thì phải có tổ chức rất vững bền 
mới  thành  cơng".  Chỉ  thị  về  công  tác  to  chức  của  Ban  chấp  hành  trung  ương 

Đảng  (ngày  1­2­1941)  chỉ  rõ:  "Biết  tổ  chức  thì  dù  bọn  phátxít  quỷ  quyệt,  tàn 
nhẫn đến đâu cũng khơng làm gì nổi. Biết tổ chức tức là có thêm cán bộ, có vũ 

15


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

khớcútichớnh,cúchinulc,ttcnhngiukincnthitchocuccỏch
mngdõntcgiiphúng".
mi thi k lch s, do mc tiờu u tranh,  trình  độ  quần  chúng,  đối 
tượng  cách  mạng,  lực  lượng  đối  sánh,  đặc  điểm  thời  cuộc  mà  có  những  hình 
thức tổ chức thích hợp. 
Thời kỳ 1936­1939, Đảng chủ trương: phải rất linh hoạt, khơn khéo trong 
việc tổ chức quần chúng, khơng cứng nhắc, khơng nhất thiết các tổ chức quần 
chúng đều phải mang một màu sắc, đều phải nhuộm màu đỏ như cơng hội đỏ, 
hội cứu tế đỏ mà có thể lấy những cái tên đơn sơ, cốt sao tập hợp được đồng đảo 
quần  chúng  vào  các  tổ  chức  cách  mạng.  Đảng  quyết  định  lấy  tên  Thanh  niên 
phản đế đồn thay Thanh niên cộng sản đồn, lập Hội cứu tế bình dân thay Hội 
cứu tế đỏ, lấy tên Cơng hội thay Cơng hội đỏ và lấy tên Nơng hội thay Nơng hội 
đỏ 
Đảng và quần chúng sáng tạo ra các hình thức tổ chức phổ thơng gắn liền với 
đời sống sinh hoạt bình thường hàng ngày như hội cấy, hội gặt, hội lợp nhà, hội 
hiếu hỉ, phường đi sǎn, hội hát kịch v.v.. Những hình thức tổ chức "biến tướng" 
đó thích hợp với nhân dân ta ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, mọi quyền 
tự do dân chủ bị kẻ thù bóp nghẹt và nhất là nhân dân vừa trải qua một thời kỳ bị 
kẻ  thù  đàn  áp  đẫm  máu.  Do  đó,  nhiều  hình  thức  tổ  chức  vừa  làm,  sát  hợp  với 
quần chúng, nên đã lôi kéo được đồng đảo quần chúng tham gia vào các phong 
trào  đấu  tranh  công  khai,  bán  công  khai,  rầm  rộ,  sơi  nổi  hiếm  thấy  dưới  thời 
Pháp thống trị và hiếm có ở một nước thuộc địa. 

Việc tổ chức quần chúng phải có nhiều hình thức thích hợp với từng giai 
cấp, tâng lớp nhân dân và từng lứa tuổi. Thơng thường, quần chúng có ba loại: 
tiên tiến, trung bình, chậm tiến, lại cịn có sự khác biệt về giai cấp, tơn giáo, dân 
tộc,  lứa  tuổi,  giới  tính,  nghề  nghiệp  ...  Cho  nên,  ngoài  các  đoàn  thể  cứu  quốc, 
Đảng  cịn  tổ  chức  nhiều  đồn  thể  đơn  sơ,  khơng  điều  lệ,  công  khai  hoặc  nửa 
công khai để thu hút đông đảo dân chúng. 
16


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

Trongkhitchcnghtscchtch,thỡtchcqunchỳngphiht
sc rng rói, nh nhng, thm chớ cú khi khụng thành  hình  thức  tổ  chức;  phải 
biết tận dụng mọi khả nǎng hợp pháp, nửa hợp pháp, dù là đơn sơ, nhỏ hẹp. Phải 
biết nắm lấy mọi hoạt động của xã hội, kể cả các tổ chức do thực dân Pháp lập 
ra, các hoạt động vǎn hố, kinh tế trong sinh hoạt hàng ngày của qn chúng để 
tập hợp quần chúng đồng đảo và che giấu tổ chức khơng hợp pháp. Từ cuộc đấu 
tranh địi các quyền dân sinh, dân chủ cụ thể hàng ngày mà tập hợp quần chúng, 
từng bước đưa quần chúng tham gia phong trào cách mạng. 
Khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính 
quyền là nhiệm vụ trung tâm, Đảng lại có những hình thức tổ chức mới cao hơn. 
Để  khích  lệ  hơn  nữa  tinh  thần  yêu  nước,  ý  thức  dân  tộc,  các  đoàn  thể  quần 
chúng  đều  có  tên  chung  "cứu  quốc"  như  Thanh  niên  cứu,  quốc,  Phụ  nữ  cứu 
quốc, Nhi đồng cứu quốc, Phụ lão cứu quốc, v.v.. 
Tìm  tịi,  chọn  lựa  các  hình  thức  tổ  chức  vừa  tầm,  thích  hợp  với  quần 
chúng, đồng thời cịn phải phù hợp với hồn cảnh khách quan, mới có khả nǎng 
thu hút đơng đảo quần chúng đấu tranh cho mục tiêu đã định. 
Trong những nǎm 1930­1935, hình thức mặt trận mà Đảng lựa chọn là Hội 
phản đế đồng minh. Thời kỳ 1936­1939 là Mặt trận dân chủ. Hội nghị Ban chấp 
hành trung ương Đảng tân thứ tám (tháng 5­1941) quyết định một hình thức mặt 

trận mới thay Mặt trận dân chủ, đó là Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là 
Việt Minh. 
Mặt trận Việt Minh được thành lập theo chủ trương chuyển hướng chỉ đạo 
chiến  lược  của  Đảng.  Lúc  này,  Đảng  đã  xác  định  mục  tiêu  cụ  thể  trước  mắt 
khơng  cịn  là  đấu  tranh  địi  những  quyền  lợi  dân  sinh,  dân  chủ  đơn  sơ,  mà  là 
chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, đánh đổ đế quốc 
và tay sai, giành độc lập dân tộc. Vì nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện 
thời chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đồn kết, thống nhất đánh đuổi 
Nhật ­ Pháp, trừ khử Việt gian 

17


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

Mt trn dõn ch rừ rng khụng cũn thớch hp với  mục  tiêu  đấu  tranh 
trong thời kỳ mới, cần có một hình thức mặt trận phù hợp với tình hình nhiệm 
vụ  mới,  nhằm  liên  kết  hết  thảy  các  giới  đồng  bào  yêu  nước,  không  phân  biệt 
giàu­nghèo,  già­trẻ,  gái­trai,  không  phân  biệt  tôn  giáo  và  xu  hướng  chính  trị, 
đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn. 
Mặt  trận  Việt  Minh  đặt  nhiệm  vụ  giải  phóng  dân  tộc  lên  hàng  đầu,  đáp 
ứng u cầu, nguyện vọng chung của tồn dân tộc, là cơ sở quyết định quy tụ cả 
cộng động dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất, đánh đổ ách thống trị của 
phátxít Nhật ­ Pháp và bọn tay sai. 
3. Kết hợp đúng đắn giữa xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng 
vũ trang 
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ đầu đã khẳng định, cách mạng 
Việt Nam phải tiến hành bằng phương pháp cách mạng bạo lực, lực lượng chính 
trị quần chúng là cơ sở để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng. 
Chủ tịch Hơ Chí Minh nói: "Muốn có đội qn võ trang phải có đội qn 

tun truyền, vận động, đội qn chính trị trước đã. Nên việc này phải làm ngay, 
sao cho đội qn chính trị ngày càng đơng. Như ở ta muốn đánh Pháp ­ Nhật thì 
ai vác súng? Ai là người tự nguyện, tự giác vác súng? Ta phải có quần chúng 
giác ngộ chính trị tự nguyện vác súng thì mới thắng được" 
Thực tiễn cuộc vận động giải phóng dân tộc cho thấy bắt đầu từ xây dựng 
lực  lượng  chính  trị,  trên  cơ  sở  lực  lượng  chính  trị  mà  xây  dựng  lực  lượng  vũ 
trang. Khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu, u cầu phải đẩy cuộc 
đấu tranh lên hình thức cao để hỗ trợ cho cơng tác tun truyền, vận động quần 
chúng, từ các đồn thể, các tổ chức chính trị quản chúng, đã hình thành các đội 
tự vệ chiến đấu, các tổ du kích chiến đấu, hình thức sơ khai của lực lượng vũ 
trang.
Các đội tự vệ cơng nơng đầu tiên trong phong trào Xơ viết Nghệ Tĩnh, các 
đội  Cứu  quốc  qn,  Việt  Nam  tun  truyền  giải  phóng  qn,  du  kích  Ba  Tơ... 

18


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

u t lc lng chớnh tr ca qun chỳng, t nhân  dân  được  giác  ngộ,  có  tổ 
chức mà ra. 
Trong xây dựng lực lượng, Đảng coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang 
nhưng khơng tuyệt đối hố vai trị của nó, khơng đặt vấn đề xây dựng lực lượng 
vũ  trang  lớn  ngay  từ  đầu  mà  trước  hết  xây  dựng  lực  lượng  chính  trị,  kết  hợp 
đúng đắn xây dựng lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang đáp ứng nhiệm vụ 
giải phóng dân tộc. 
Thời  kỳ  1939­1945,  trước  nguy  cơ  phátxít  và  chiến  tranh  xâm  lược  của 
phátxít Nhật, Pháp, để chuẩn bị đón thời cơ, Đảng lấy việc xây dựng lực lượng 
chính trị quần chúng làm cơ bản. Thơng qua các phong trào đấu tranh của quần 
chúng, các đồn thể và mặt trận, một lực lượng chính trị quần chúng đồng đảo 

đã hình thành, đồng thời trên cơ sở đó mà từng bước xây dựng các lực lượng vũ 
trang cách mạng. 
Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ sáu (tháng 11­1939) chủ 
trương thành lập các đội tự vệ chiến đấu: "Đội tự vệ phải to rộng, đủ dũng cảm 
và  điềm  tĩnh,  khơn  khéo  và  hy  sinh  bảo  vệ  quần  chúng".  Hội  nghị  Ban  chấp 
hành trung ương Đảng lần thứ bảy (tháng 11­1940) chỉ rõ: "Mặt trận phải trực 
tiếp võ trang cho dân chúng cùng Đảng tổ chức nhân dân cách mạng quân". 
Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ tám (tháng 5­1941) chủ 
trương mở rộng các tổ chức cứu quốc và thành lập những tiểu tổ du kích chiến 
đấu. Cuối nǎm 1941, đồng chí Nguyễn ái Quốc quyết định thành lập đội tự vệ vũ 
trang Cao Bằng để thúc đẩy việc xây dựng cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc 
xây  dựng  lực  lượng  vũ  trang.  Tháng  12­1944,  Đảng  chỉ  thị  thành  lập  đội  Việt 
Nam tun truyền giải phóng qn, tổ chức tiền thân của qn đội nhân dân Việt 
Nam sau này. Việt Nam tun truyền giải phóng qn ra đời trên cơ sở những 
đội du kích nhỏ hoạt động từ trước ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Mặc dù hình thức là 
đội  qn  vũ  trang,  hoạt  động  tác  chiến,  nhưng  Đảng  chỉ  rõ  phương  châm  và 
nhiệm  vụ  hoạt  động  của  Việt  Nam  tuyên  truyền  giải  phóng  quân  là  chính  trị 
trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. 
19


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

Sau ngy o chớnh Nht ư Phỏp, ng cho rng tình  thế  lúc  này  đã  đặt 
nhiệm vụ qn sự lên trên và cần kíp, do đó quyết định phát triển lực lượng vũ 
trang  và  thống  nhất  Việt  Nam  cứu  quốc  quân  với  Việt  Nam  tuyên  truyền  giải 
phóng quân thành Việt Nam giải phóng quân. 
Khi  tiến  lên  khởi  nghĩa  từng  phần,  đi  đôi  với  việc  đẩy  mạnh  đấu  tranh 
chính trị và đấu tranh vũ trang, Đảng đã nhanh chóng phát triển lực lượng chính 
trị  quần  chúng  và  lực  lượng  vũ  trang  cách  mạng,  thúc  đẩy  mạnh  mẽ  cao  trào 

cách mạng trong cả nước, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. 
Tháng Tám nǎm 1945, trong lúc lực lượng vũ trang nhân dân cịn non trẻ, 
Đảng đã huy động được một lực lượng chính trị quần chúng lớn mạnh, bao gồm 
hàng triệu hội viên cứu quốc và hàng chục triệu đồng bào dưới khẩu hiệu hành 
động của Mặt trận Việt Minh, tạo thành lực lượng chủ yếu quyết định thắng lợi 
của tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. 
Cách mạng Tháng Tám thành cơng là do biết kết hợp chật chẽ lực lượng 
chính trị và lực lượng vũ trang, đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trong 
đó lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị của đơng đảo quần chúng giữ vai trị 
chủ yếu. 
Kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đã tạo ra ưu thế áp đảo 
qn thù, giành thắng lợi nhanh, gọn trong Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945.
4. Xây dựng và bố tri lực lượng đều khắp trên các địa bàn nơng thơn 
và thành thị 
Đảng  ta  sớm  nhận  thức  đúng  về  vị  trí,  tầm  quan  trọng  của  các  địa  bàn 
chiến lược, coi trọng cả nông thôn và thành thị, chú ý xây dựng lực lượng ở cả 
nông  thôn  và  thành  thị.  Trong  đấu  tranh  cách  mạng,  nhất  là  trong  thời  kỳ  đấu 
tranh giành chính quyền, vấn đề xây dựng lực lượng, bố trí lực lượng trên các 
địa bàn, kết hợp phong tràn đấu tranh của nơng dân ở nơng thơn với phong trào 
của cơng nhân, trí thức, học sinh, thợ thủ cơng và bn bán nhỏ ở thành thị để 
tiến hành khởi nghĩa tồn dân, kịp thời cơ thuận lợi là một vấn đề quan trọng. 
Trong đường lối cũng như chỉ đạo thực tiễn phong trào, chứng tỏ Đảng ta đã giải 
20


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

quytttvnxõydngvbtrớlclngbomchoCỏchmngThỏng
Tỏmthnhcụng.
nghiurng,nụngthụnngbnglnitipgiỏpvithnhth,hn

90%dõnslnụngdõnsngchyuõy.
Dobquc,phongkinỏpbc,búcltnngn,nụngdõnrtthathit
vinnclpcatncvcúrungtcycy.õylnibmỏythng
trcachyuhoctngiyuvcúnhiush.
Khinghacatalkhinghatondõn,victchclclngvphỏt
ngnhõndõnngbngngdykhinghaginhchớnhquynlvncúý
nghachinlcquantrng.
Thnhthlnitptrunggiaicpcụngnhõn,giutinhthncỏchmng,
cúngonhõndõnlaong,hcsinh,trớthctinblnhngtnglpcú
tinhthnyờunccao.
Thnhthltrungtõmchớnhtr,quõns,kinht,vnhoỏ,lnitptrung
cỏccquanunóovbmỏythngtrcach.
ngnhnmnhtmquantrngcavicxõydnglclngcỏchmng
thnhth,cbitlcụngtỏcvnngcụngnhõnvtrớthc.Nukhụngchỳ
trngcụngtỏctrờnõythỡkhinghakhúnratrungtõmunóocaquõn
thự v do ú khụng lm cho chỳng b tờ liệt.  Khơng  xây  dựng  lực  lượng  cách 
mạng ở thành thị thì cuộc khởi nghĩa khó phát triển lên thành tổng khởi nghĩa 
giành chính quyền trong tồn quốc 
Từ cuối nǎm 1939, tuy chuyển trọng tâm cơng tác về nơng thơn, Đảng vẫn 
khơng xem nhẹ cơng tác ở thành thị. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành trung 
ương lần thứ tám (tháng 5­1941) nêu rõ: "Muốn có một lực lượng tồn quốc đủ 
sức phát động và bảo đảm cho một cuộc khởi nghĩa thắng lợi thì đi đơi với việc 
mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn có, phải chú trọng mở rộng các tổ 
chức vào những nơi thành thị, xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền" 
Từ  đó,  cơng  tác  vận  động  cách  mạng  ở  thành  thị  ngày  càng  được  tǎng 
cường,  đặc  biệt  trong  cơng  nhân  và  trí  thức.  Nghị  quyết  Ban  thường  vụ  trung 
21


CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688


ngng(thỏng2ư1943)chrừ:"Khụnglmchoththuyntớchccthamgia
khinghathỡ:Cuckhinghakhúnranhngnihuytmchcaquõnthự
(thnhph,vựngm,nin,ngvntictyu),doúquõnthựkhụngb
tờlit.
ưCuckhinghacútớnhchtaphng,eohp,khụnglanrngraton
xchotitonquc,nhthquõnthựcúthtptrunglclngvomtvi
ninỏpquõnkhingha".
Chớnhnhrascxõydngcs,lclngvcncanụngthụn,
ng thi chỳ trng xõy dng c s v lc lượng  ở  thành  thị,  nên  khi  thời  cơ 
đến, Đảng đã phát động được tồn dân ở cả thành thị và nơng thơn cùng nổi dậy, 
nhanh chóng giành được chính quyền trên cả nước trong những ngày tháng Tám 
nǎm 1945. 
5.  Gắn  xây  dựng  lực  lượng  với  đấu  tranh,  thông  qua  đấu  tranh  để 
củng cố, phát triền lực lượng 
Xây  dựng  và  phát  triển  lực  lượng  cách  mạng  nhằm  thực  hiện  mục  tiêu, 
nhiệm  vụ  đấu  tranh  giải  phóng  dân  tộc  và  giải  phóng  giai  cấp,  khơng  thể  tiến 
hành ngồi vịng đấu tranh đó. 
Xây  dựng  lực  lượng  và  đấu  tranh  có  mối  quan  hệ  tác  động  biện  chứng. 
Xây  dựng  lực  lượng  để  đấu  tranh  và  đấu  tranh  đúng  mức,  vừa  sức  bảo  đảm 
thắng lợi, gìn giữ và phát triển được lực lượng để đấu tranh mạnh mẽ hơn, giành 
thắng lợi lớn hơn. 
Trong  điều  kiện  ban  đầu,  Đảng  cịn  ít  kinh  nghiệm,  lực  lượng  đảng  viên  cịn 
mỏng, quần chúng chưa được tổ chức chặt chẽ, rộng khắp đã vội đẩy phong trào 
lên q mức, bộc lộ lực lượng thì cách mạng khơng tránh khỏi tổn thất. Phải xây 
dựng lực lượng đến mức nhất định thì tiến hành đấu tranh mới có kết quả. . 
Đảng và lãnh thụ Nguyễn ái Quốc đánh giá cao tinh thần đấu tranh anh dũng của 
nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh trong cao trào 1930­1931, nhưng cũng đã dự đốn 
22



CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

chớnhquynXụvitskhụngduytrỡclõuvỡlclngcũnnonyu,cha
u khp, v trang bo ng trong mt vi a phương  là  q  sớm.  Đồng  chí 
Nguyễn ái Quốc chỉ rõ nhiệm vụ trước mắt của Đảng và phong trào nơng dân 
nước ta là: "Tập hợp, tồ chức trung, bần nơng và kích động họ đấu tranh giành 
lấy chủ quyền của nhân dân, chứ khơng phải để tiến hành một cuộc khởi nghĩa 
địa  phương".  Phải  lựa  chọn  cho  phong  trào  quần  chúng  những  hình  thức  đấu 
tranh phù hợp với điều kiện và khả nâng lực lượng cách mạng cho phép. 
Vừa tổ chức vừa đấu tranh, đấu tranh để rèn luyện, củng cố tổ chức là hai mặt 
thống nhất của q trình xây dựng, phát triển lực lượng, tổ chức quần chúng đấu 
tranh. Nhấn mạnh mặt tổ chức, coi nhẹ mặt đấu tranh và ngược lại, hoặc tách rời 
nhau đều là sai lầm. Trong xây dựng lực lượng và tiến hành đấu tranh có lúc, có 
nơi Đảng mắc sai lầm "hữu" hoặc "tả" cả hai khuynh hướng đó đều có hại cho 
phong trào. 
Từ  Hội  nghị  trung  ương  Đảng  tháng  10­1930,  Đảng  đã  phân  tích,  phê  phán 
khuynh  hướng  lệch  lạc  cho  rằng  củng  cố  tổ  chức  rồi  mới  đấu  tranh,  chờ  hết 
khủng bố rồi mới hoạt động, đồng thời vạch rõ, chỉ có thơng qua đấu tranh hàng 
ngày  mới  phát  triển  được  cơ  sở,  rèn  luyện  và  thanh  lọc  được  hàng  ngũ,  chấn 
chỉnh được tổ chức. "Tổ chức ra để có sức tranh đấu tranh đấu để mở rộng, kiên 
cố tổ chức, kiên cố tổ chức để mở rộng tổ chức nữa, tổ chức và tranh đấu hết sức 
mật  thiết  liên  kết  cùng  nhau,  đồng  phát  triển  với  nhau,  cái  này  rời  cái  kia  thì 
khơng  được  gì  hết".  Đảng  cịn  nói  rõ  rằng,  tổ  chức  để  tranh  đấu,  nhưng  chính 
trong sự tranh đấu mà phát triển tổ chức. "Cho nên sự tranh đấu quần chúng với 
cơng việc tổ chức thiệt mật thiết liên lạc, khơng thể rời ra được". 
Thực tiễn ba cao trào cách mạng là q trình kết hợp đấu tranh với xây dựng lực 
lượng, thơng qua đấu tranh mà Đảng ta ngày càng trưởng thành, lực lượng cách 
mạng ngày càng phát triển. Cao trào dân chủ 1936­1939 là bước phát triển mới 
23



CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

trongvicxõydng,tphplclngcỏchmng.ngranhnghỡnhthc
utranhvasc,vatm,phựhpvitrỡnhqunchỳngvkhnnglc
lng cho phộp. ng thi qua u tranh, ng c mở  rộng,  củng  cố,  phát 
triển lực lượng. Đấu tranh nhưng vẫn bảo tồn, gìn giữ được lực lượng, tránh tổn 
thất, tiêu hao lực lượng, mà lại đạt kết quả cao. 
Trong khi xây dựng lực lượng, khơng được thủ tiêu đấu tranh, Đảng phải lãnh 
đạo quần chúng đấu tranh mạnh mẽ, nhưng chủ yếu là để tập dượt quần chúng, 
chuẩn bị cho khởi nghĩa, giành chính quyền khi có thời cơ thuận lợi và bản đảm 
thành cơng. 
III­ KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN 
1. Dự đốn đúng thời cơ và hành động kiên quyết, đúng lúc 
Đảng ta hiểu rằng, thời cơ là sự kết hợp hàng loạt nhân tố chủ quan và khách 
quan đã đến độ chín muồi, rằng thời cơ khơng phải tự nó đến, một phần lớn do 
ta sửa soạn nó, thúc đẩy nó. Chính vì vậy, Đảng đã bền bỉ và cơng phu chuẩn bị 
tinh thần và lực lượng trong suốt mười lǎm nǎm. 
Đảng chǎm chú theo dõi, phân tích sâu sắc sự phát triển của tình hình, dự đốn 
các khả nǎng, chủ động đối phó với mọi tình huống. 
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Đảng đã có những dự đốn về 
thời cơ khởi nghĩa. Từ dự đốn ban đầu đó, dựa vào phân tích tình hình thế giới, 
chiều hướng phát triển của chiến tranh, tiền đồ cách mạng thế giới và cách mạng 
Đơng  Dương,  Hội  nghị  Ban  Chấp  hành  trung  ương  Đảng  lân  thứ  8  (tháng  5­
1941)  nêu  rõ:  "Liên  Xô  thắng  trận,  quân  Trung  Quốc  phản  công...  Tất  cả  các 
điều kiện ấy sẽ giúp cho các cuộc vận động của Đảng ta mau phát triển và rồi 
24



CHsố11ưB1ưĐHKTQDChuyênPhotocopyưĐánhmáyưInLuậnvăn,Tiểuluận:6.280.688

õy lc lng s lan rng ra ton quc gãy  một  cuộc  tổng  khởi  nghĩa  tồn 
quốc rộng lớn" . 
Hội nghị cịn nêu lên bốn nhân tố của thời cơ chín muồi cho cuộc khởi nghĩa là: 
"1. Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được tồn quốc. 
2. Nhân dân khơng thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp ­ Nhật, mà đã 
sẵn sàng hy sinh bước vào con đường khởi nghĩa. 
3. Phe thống trị Đơng Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thơng đến cực 
điểm vừa về kinh tế, chính trị lẫn qn sự 
4. Những điều kiện khách quan tiện lợi cho cuộc khởi nghĩa Đơng Dương như 
qn Trung Quốc đại thắng qn Nhật. Cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật 
nổi  dậy,  phe  dân  chủ  đại  thắng  ở  Thái  Bình  Dương,  Liên  Xơ  đại  thắng,  cách 
mạng các thuộc địa Pháp ­ Nhật sôi sục và nhất là quân Trung Quốc hay quân 
Anh ­ Mỹ tràn vào Đông Dương". 
Từ  nǎm  1942,  trong  bốn  khả  nǎng,  Đảng  nhận  định  khả  nâng  Liên  Xơ  chiến 
thắng  phátxít  Đức  ­  Nhật  là  quan  trọng  nhất,  là  thời  cơ  tốt  nhất  và  xác  định 
"chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và nhân dân ta trong 
giai đoạn hiện tại. 
Tháng  9­1944,  Đảng  đã  dự  kiến  rằng,  mâu  thuẫn  Nhật  ­  Pháp  sẽ  dẫn  tới  Nhật 
đào chính lật đổ Pháp, và chỉ ra phương hướng hành động cho tồn Đảng: "Hãy 
mài gươm, lắp súng khi qn Nhật ­ Pháp bắn nhau, kịp nổi dậy tiêu diệt chúng 
giành lại giang sơn" 

25


×