Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

tiểu luận cao học văn hóa từ chức ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.74 KB, 13 trang )

MỞ BÀI
Trong cuộc đời của mỗi bản thân con người đều có những mơ ước khác
nhau, nhưng có một ước mơ mà không ai không muốn điều thành hiện thực đó là
“Tiền tài, địa vị, danh vọng”.
Từ ngày xưa trong xã hội phong kiến dưới sự thống trị của các vị vua anh
minh, luôn quan tâm hiền tài và coi trọng hiền tài là nguyên khí của quốc gia, dân
tộc, chính vì vậy hàng năm luôn tổ chức các khoa thi để tuyển chọn nhân tài cho
đất nước, hội thi được tổ chức ở nhiều cấp khác nhau, từ thi hương, đên thi hội, thi
đình...Ai đỗ đạt sẽ được nhà vua phong cho làm quan... Trống dong, cờ mở về
làng, được triều đình ban cho bổng lộc...Và các quan niệm như “Học để làm
quan, Một người làn quan cả họ được nhờ ” đã thấm sâu vào trong suy nghĩ của
đại đa số người Việt nam cho đến ngày nay.
Chính vì vậy từ thời phong kiến đến nay trong xã hội Việt nam số lượng
người đang giữa chức vụ trong triều đình, nhà nước...Chủ động xin từ quan hoặc từ
chức khi bản thân không còn đủ năng lực, phẩm chất là rất ít, mặc dù trong lịch sử
đã có những trường hợp ngoại lệ nhưng chủ yếu là do lí do bất mãn với công việc
triều chính...Chính vì vậy điều đó chưa trở thành thói quen văn hóa hay nói cách
khác là “Văn hóa từ chức”...
Chính vì những lý do trên tác giả xin mạnh dạn chon đề tài tiều luận “Văn
hóa từ chức ở Việt nam” để từ đó nghiên cứu và đưa ra những giải pháp mang tính
định hướng cho việc hình thành văn hóa từ chức ở Việt nam


NỘI DUNG
1. Một số khái niệm.
1.1.
Văn hóa l à g ì ?

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hóa,
mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau dựa trên nhiều
mặt để định nghĩa ví dụ như dựa trên mặt thuật ngữ khoa học, các định nghĩa miêu


tả, định nghĩa lịch sử, các định nghĩa chuẩn mực, các định nghĩa tâm lý học, các
định nghĩ cấu trúc, các định nghĩa nguồn gốc, và đến năm 2002 Unessco đã đưa ra
định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp
của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay
một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả
cách sống phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin, tóm
lại văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong
quan hệ giữa con người và xã hội, xong chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo
nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội, văn hóa được truyền từ thê
hệ này qua thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được cải tạo và
phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là
trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và
hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cung như trong giá trị vật
chất và tinh thần mà do con người tạo ra.


1.2. Văn hóa từ chức
Từ những định nghĩa về văn hóa và văn hóa chính trị chúng ta có thể suy ra
Văn hóa từ chức nh ư sau:
Từ chức là xin thôi chức vụ mà bản thân đang nắm giữa về một lình vực
chuyên môn nhật định, như vậy từ chức chỉ xảy ra ở những người có chức có
quyền từ chức có thể do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, Nhưng chủ yêu là do
nguyên nhân chủ quan, từ chức một cách từ nguyện, tự giác với thái độ trung thực
với chính mình, biết sấu hổ khi làm trái với đạo lý, đi ngược lại với nguyện vọng
của cơ quan tổ chức va cộng đồng, là biểu hiện của sự cao thượng, dũng cảm và tự
trọng.
Từ chức phải trở thành một thói quen chính trị, là cách người ta lựa chọn
khi thấy không còn năng lực, tín nhiệm, hoặc có thể bị cơ quan có thẩm quyền phế
truất. Việc đó đã trở thành một thói quen ứng xử bình thường, mà đã là văn hóa và
thói quen thì những điều đó phải hình thành từ lâu, và rất khó thay đổi được thói

quen đó thì lúc đó thói quen từ chức sẽ trở thành “Văn hóa từ chức” bên cạnh đó
đã là văn hóa thì phải gắn với trình độ nhận thức và sự tự nguyện của người cán
bộ, lãnh đạo. Qua đó người dân đánh giá được văn hoá ứng xử của người có chức
danh. Chúng ta nên cổ xúy cho văn hóa từ chức ở trong chốn quan trường. Đã đến
lúc phải xem hành vi từ chức là hành vi văn hóa, thể hiện lòng tự trọng của con
người”.


2. Mối quan hệ giữa “Văn hóa chính trị ” và “Văn hóa từ chức”
2.1. Thế nào là văn hóa chính trị ?
Văn hoá chính trị, với tư cách là một loại hình của văn hoá là khái niệm nói
về sự thẩm thấu của văn hoá vào chính trị, là chính trị có tính văn hoá. Như vậy,
văn hoá chính trị không phải là bản thân chính trị, bản thân văn hoá, hay là sự cộng
gộp giản đơn hai lĩnh vực này, mà đó là chính trị bao hàm tính văn hoá từ bản chất
bên trong của nó. Biểu hiện của văn hoá chính trị thể hiện ở hai phương diện cơ
bản:
Một là, chính trị với ý nghĩa là chính trị dân chủ, tiến bộ phải hướng tới mục
đích cao nhất là vì con người, giải phóng con người, tôn trọng quyền con người,
tạo điều kiện cho con người phát triển tự do, toàn diện, hài hoà. Đây là tính nhân
văn sâu sắc của một nền chính trị có văn hoá.
Hai là, những tư tưởng chính trị tốt đẹp không phải là những ý niệm trừu
tượng mà phải thiết thực, cụ thể, có khả năng đi vào cuộc sống. Nghĩa là nó phải
thấu triệt trong hệ tư tưởng chính trị, thể hiện qua đường lối chính sách của đảng
cầm quyền và nhà nước quản lý, trong ứng xử và trong việc triển khai các kế hoạch
cụ thể nhằm phát triển xã hội và phục vụ cuộc sống của cá nhân cũng như của cộng
đồng xã hội.
Văn hoá chính trị làm cho sự tác động của chính trị đến đời sống xã hội
giống như sức mạnh của văn hoá. Đó là loại sức mạnh không dựa vào quyền lực
hay ép buộc mà thông qua cảm hoá, khơi dậy tinh thần sáng tạo, ý thức tự giác của
các tầng lớp xã hội. Việc xây dựng văn hoá chính trị phải chú trọng đồng thời cả ba



phương diện: giá trị xã hội được lựa chọn, năng lực chính trị và trình độ phát triển
về văn hóa chính trị của chủ thể chính trị.

2.2. Những yếu tố làm nên nét đặc sắc của văn hoá chính trị Việt Nam
Một là, về lịch sử, văn hoá chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển
trong quá trình hình thành ý thức dân tộc, quốc gia, kết tinh thành truyền thống
dựng nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam. Ý thức độc lập dân tộc, tự
lực tự cường, tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng đã trở thành nội dung bền
vững mang tính truyền thống của văn hoá chính trị Việt Nam.
Hai là, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, nền văn hiến quốc gia, tinh thần yêu
nước, đoàn kết, phát huy nội lực, sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, gắn liền với
việc coi trọng, tôn vinh hiền tài đã tạo nên sức sống của văn hoá chính trị, và, khả
năng phát huy những truyền thống, giá trị tốt đẹp đó của dân tộc đã tạo nên “độ
cao” của văn hoá chính trị.
Ba là, tôn trọng đạo lý, tôn trọng chính nghĩa, bảo vệ công lý, quật cường dân tộc,
nhưng nhân ái, khoan dung, độ lượng, vị tha. Những nét đẹp đó đã tác động, ảnh
hưởng, làm cho văn hóa chính trị Việt Nam mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Bốn là, do đặc điểm của địa chính trị nước ta, nên văn hoá chính trị Việt
Nam có nột nét nổi bật là phải sáng tạo. Nhờ khả năng sáng tạo mà bản sắc văn hoá
dân tộc dã được giữ vững và phát triển qua các thời kỳ. Đặc biệt, tính sáng tạo này
càng thể hiện rõ nét khi đất nước, dân tộc đứng trước những thời điểm khó khăn,
quyết định vận mệnh của dân tộc. Chính nét sáng tạo ấy đã đem lại một tầm vóc,
một vẻ đẹp văn hoá của nền chính trị Việt Nam.


Bên cạnh những nét đẹp đó, cũng cần nhận thấy rằng, do nước ta xuất phát
là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua quá nhiều các cuộc chiến tranh giữ
nước, vì thế những yếu tố như tâm lý tiểu nông khá đậm, kinh nghiệm chủ nghĩa,

triết lý chung chung, thiếu tính khách quan và cơ sở khoa học vững chắc, dễ hài
lòng với mình, tâm lý chạy theo thành tích, “bệnh” hình thức..., nếu như không
được hạn chế, khắc phục kịp thời, sẽ có tác động tiêu cực, bào mòn dần sức sống
và khả năng sáng tạo của văn hoá chính trị Việt Nam.

2.3. Văn hóa chính trị thể hiện trong sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam
Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh là mục tiêu mang đậm tính văn hóa chính trị nhân văn sâu sắc, mà
đất nước ta, nhân dân ta vươn tới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta.
nét văn hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở các khía cạnh
sau:
Thứ nhất. Về lựa chọn giá trị, Đảng ta khẳng định để xây dựng nền văn hóa
chính trị Việt Nam tiên tiến, hiện đại, cần kế thừa các giá trị văn hóa chính trị
truyền thống tốt đẹp được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế
thừa các giá trị văn hóa chính trị tinh hoa của các nước trên thế giới, trên cơ sở lấy
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động. Chính vì cách lựa chọn giá trị như vậy nên trong bối cảnh các
nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ vào thập kỷ cuối cùng của
thế kỷ XX, Đảng ta vẫn kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời chủ trương
thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đảng cũng khẳng định chúng ta


“đổi mới” nhưng tuyệt đối không "đổi màu". Bản chất nền chính trị của chúng ta là
khoa học, cách mạng, dân chủ và nhân văn. Đó là nền chính trị phấn đấu vì hạnh
phúc của nhân dân, hướng tới mục đích "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh". Mục tiêu ấy không chỉ phù hợp với nguyện vọng của đông đảo
nhân dân Việt Nam, của lý tưởng xã hội xã hội chủ nghĩa, mà còn là mục tiêu cao
đẹp mà nhân loại tiến bộ hướng tới.
Thứ hai. Trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng chủ trương

xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng một
nền kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế khách quan, bởi kinh tế thị trường kích
thích sự phát triển kinh tế, phát huy sức sản xuất, khơi dậy tính năng động, sáng
tạo của con người, tính hiệu quả trong việc sử dụng hợp lý các nguồn lực...Tuy
nhiên, kinh tế thị trường cũng có rất nhiều mặt trái, đó là sự cạnh tranh tàn khốc
“cá lớn nuốt cá bé"; tạo ra sự bất công, bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo, phân
cực trong xã hội; khai thác cạn kiệt môi trường, tài nguyên vì mục tiêu lợi nhuận
kinh tế thuần túy; làm băng hoại nhiều giá trị đạo đức tốt đẹp; làm quan hệ con
người với con người trở nên sòng phẳng, lạnh lùng hơn; làm phai nhạt những giá
trị văn hóa truyền thống... Việc Đảng ta xác định xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa chính là để khắc phục những hạn chế vốn có của nền
kinh tế thị trường. Đây là khía cạnh văn hoá của tăng trưởng kinh tế: tăng trưởng
phải gắn liền với việc đảm bảo quyền lợi của đa số nhân dân lao động, với tiến bộ
và thực hiện công bằng xã hội.
Thứ ba. Trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân. Việc khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã
được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992. Văn
kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.


Quyền lực của nhà nước là thống nhất là của dân, không phân chia nhưng có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ
quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp
và pháp luật" . Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là
hợp quy luật phát triển của lịch sử vì "suy cho cùng chính là nhằm thực hiện dân
chủ. Pháp luật của Nhà nước ta luôn luôn là công cụ mạnh mẽ và có hiệu lực đối
với việc dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội, bảo đảm quyền con người,
quyền công dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội..." .

Tinh thần dân chủ trong tư duy chính trị của Đảng được thể hiện rất rõ ở tư
tưởng lấy “dân làm gốc”, và, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Một nền
chính trị nhân văn phải là nền chính trị tôn trọng quyền lợi của đa số nhân dân,
thực sự do dân làm chủ, nhà nước là cơ quan được ủy quyền để thực thi quyền lực
nhân dân, để thực hiện lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Những
bước tiến trong nhận thức lý luận và tư duy chính trị của Đảng được thể hiện rõ
trong hàng loạt các văn kiện ban hành trong thời kỳ đổi mới. Trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã chính thức
sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị". Hệ thống chính trị của chúng ta được vận
hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ".

Để tăng cường vai trò của Nhà nước và sự nghiêm minh của pháp luật, Nhà
nước đã ban hành nhiều luật khác nhau, nhằm làm cho mọi người sống và làm việc
theo pháp luật. Chủ trương cải cách bộ máy hành chính, trưng cầu ý kiến rộng rãi
của nhân dân, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức


chính trị - xã hội chính là những bước tiến đáng chú ý của văn hoá chính trị trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Thứ tư. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế
và khu vực. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới
và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương
lượng hòa bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Với đường lối và
chính sách đối ngoại rộng mở đó đến nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ kinh tế thương mại với trên 170 quốc gia, nền kinh tế, đã ký kết khoảng 60 hiệp định kinh

tế - thương mại song phương, trong đó có toàn bộ các nước, nền kinh tế phát triển,
thị trường lớn. Chúng ta ngày càng hoạt động tích cực và hiệu quả, nâng cao vị thế
đất nước trong các thể chế hợp tác quốc tế.
Thứ năm. xác định “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”. Để lãnh đạo
đất nước nắm bắt cơ hội, vượt qua khó khăn, đạt được mục tiêu cao cả đã đề ra,
Đảng - người lãnh đạo đất nước, phải có một đội ngũ cán bộ có văn hóa chính trị
cao, có trình độ và khả năng thực hiện các nội dung chính trị một cách văn hóa.
Chính vì thế, Đảng luôn tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội
ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết và uy tín của Đảng trong nhân dân.
Bản chất văn hoá chính trị tiến bộ cũng xa lạ với tệ quan liêu, tham nhũng, xa hoa,
lãng phí. Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã tiến hành đổi mới và
chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững sự đoàn kết


và uy tín của Đảng, củng cố, và giữ vững niềm tin trong nhân dân. Văn kiện Đại
hội VII của Đảng khẳng định: "Đảng ta coi việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn và nâng
cao năng lực lãnh đạo của Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu trong công tác xây
dựng Đảng, là công việc thường xuyên bảo đảm cho Đảng ta luôn ngang tầm
nhiệm vụ cách mạng" .
Tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, coi trọng phản biện xã hội, mở
rộng dân chủ trong tất cả các lĩnh vực, xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa... đã tạo nên những tiền đề, động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng tiến triển mạnh mẽ.
Phát huy những thành tựu đã đạt được, vượt qua những khó khăn, thách thức
trong quá trình hội nhập quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng
cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt an sinh xã hội, giải quyết những
tồn đọng, những vấn đề gây bức xúc trong dân hiện nay..., sẽ là những yếu tố quan
trọng để nâng cao hơn nữa tính văn hóa chính trị trong sự lãnh đạo của Đảng, để
Đảng xứng đáng với tên gọi: "Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.
2.4. Mối quan hệ giữa văn hóa chính trị và văn hóa từ chức

Văn hóa từ chức là một dạng, một bộ phận của văn hóa chinh trị, chỉ khi
nhận thưc được rõ ràng, cụ thể văn hóa chính trị mới có văn hóa từ chức, nó găn bó
với nhau một cách chặt chẽ, văn hóa chính trị nào sẽ hình th ành văn hóa từ chức
đó, ở các nước phát triển như ở nhật bản chẳng hạn, Vấn đề từ chức đã nâng thành
một thói quen văn hóa đó là văn hóa từ chức ví dụ Thủ tướng Nhật Bản Shinzo
Abe đột ngột tuyên bố từ chức hôm nay, sau một năm đầy sóng gió đến từ những
vụ bê bối trong nội các, một cuộc bầu cử thất bại và khủng hoảng về việc Nhật ủng
hộ chiến dịch quân sự của Mỹ ở Afghanistan.


Sự khác biệt về môi trường và về văn hóa chính trị có lẽ giải thích rất nhiều
cho câu hỏi tại sao ở Việt Nam văn hóa từ chức chưa trở thành một thói quen. Thiết
nghĩ trước khi chúng ta xây dựng được các khuôn khổ văn hóa chính trị như nhiều
nước trên thế giới, và văn hóa từ chức bắt nguồn từ chính lương tri của người Lãnh
đạo thì lúc đó văn hóa từ chức mới trở thành phổ biến trong xã hội Việt nam.
3.

Quan niêm về văn hóa từ chức ở Việt Nam.

Hiện nay, vấn đề văn hóa từ chức đang được nhiều nhà nghiên cứu đề cập
đến. Từ chức chỉ được xem là một hành vi có văn hóa khi người ta tự nguyện và
mạng lại ý nghĩa tốt đẹp cho xã hội. Ở các nước phát triển, từ chức là văn hóa hành
xử của những người có chức, có quyền và đã trở thành trách nhiệm của người có
chưc, có quyền, được dư luận xã hội chấp nhận.
Từ xưa, nước Việt ta có khá nhiều người tài giỏi nhưng đã treo ấn từ quan
như Chu Văn An, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Bỉnh Khiêm,.... các ông từ chức
không phải không làm tròn nhiệm chức trách, gây tác hại lớn mà phần nhiều là do
khảng khái, không đồng ý với quan điển của Vua. Từ những ví dụ đó thí chúng ta
chưa thể khẳng định được từ xưa ở Việt Nam đã có văn hóa từ chức.
Và hiên nay văn hóa từ chức ở việt nam chỉ nằm ở khái niêm mà thôi, thực

sự chưa có văn hóa từ chức.
-

Chưa có văn hóa từ chức xuất phát từ những nguyên nhân sau đây.
+ Chúng ta chưa xây dựng được chi tiết đề án cải cách chế độ công vụ, công

chức, trong đó có việc nghiên cứu, xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ,
công chức và coi từ chức- thuộc khía cạnh văn hóa của chế độ công vụ.


+ Công tác tổ chức cán bộ của chung ta còn yêu kém, nhất là trong việc giáo
dục, lãnh đạo, quản lý đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các cấp thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liên chính và thiếu gương mẫu,
không làm tròn chức trách, gây tác hại lớn nhưng hầu như không thấy ai có lời xin
lỗi hay từ chức cả.
+ Chúng tâ chưa có hệ thống pháp luật quy định tõ trach nhiệm, thẩm quyền
của từng vị trí, nhất là đối với lãnh đạo, quản lý nên thiếu cơ sở đề người dân hoặc
các tổ chức, cơ quan giám sát.
+ việc từ chức hiện nay quá khó nên không ai tự nguyện từ chức nên phải có
quy định, đồng thời ở nước ta hiện nay chưa hình thành văn hóa từ chức. Điều đó
có nghĩa là một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa có lòng tự trọng,
thiếu trung thực, ứng xử chưa liêm khiết.
Lý giải cho điều trên có mấy lý do sau đây
Thứ nhất: Chức tước thường đi đôi với quyền lực, thương găn với lợi ích,
bổng lộc, đặc quyền, đặc lợi. Nên từ chức có nghĩa là sẽ khôn gì cả
Thư Hai: Học để “làm quan” đã ăn sâu, bén rễ trong tâm thức người Việt
Nam và vì thế truyền thống coi “làm quan” là sự thành đạt cao nhất.
Thứ Ba: Dự luận xã hội chưa định hướng và đồng tình hay ủng hộ việc tự
nguyện từ chức. Nếu ai đó là Đảng viên thì viện dẫn đây là nhiệm vụ Đảng giao,
nếu từ chức coi là không có tinh thần đàng viên, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí

chiến đấu....Từ chức để chốn tránh trách nhiệm, để thoát tội, để hạ cánh cho an
toàn.


4.

Một số giải pháp mang tính đinh hướng cho việc hình thành văn

hóa từ chức ở Viêt Nam
+ phải có hệ thống quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng vị trí, nhất
là đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý. Xây dựng các quy định về từ chức
của cán bộ, công chức phải dữa trên nền tảng cải cách, xây dựng được quy chế
công chức thật chuẩn về tiêu chuẩn của từng chức vụ, từng vị trí công tác.
+ Đẩy mạnh tuyên truyền trong xã hội về văn hóa từ chức, nên khuyến khích
sự tự nguyễn từ chức và đánh giá cao những người có dũng khí, lòng tự trọng,
biết liêm sỉ tự nguyện từ chức, đông thời định hướng dư luận xã hội cũng
không nên nặng nề đối với những người tự nguyện từ chức.
+ Bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải tự nhận chức vụ không chỉ đi liền
với quyền lợi, mà cao hơn phải thấy chức vụ đi liền với trách nhiệm với tinh
thần, thái độ cống hiến hy sinh.
K ẾT LU ẬN



×