Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

Phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 116 trang )

1

MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới, cùng với quá trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển biến tích cực và đã đạt được
những thành tựu quan trọng. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngành ngân hàng Việt
Nam đang từng bước đổi mới dịch vụ ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế để nâng cao
sức cạnh tranh, đảm bảo phát triển bền vững trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực
và thế giới. Ngân hàng Thương Mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam(Vietcombank)
là một trong những ngân hàng đi đầu trong việc triển khai đề án tái cơ cấu và hiện đại
hoá ngân hàng do World Bank tài trợ. Điều này đã tạo dựng được một nền tảng công
nghệ tiên tiến nhằm phát triển sản phẩm dịch vụ mới, mở rộng tiện ích cho khách
hàng trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ mà dịch vụ thẻ được coi là một mũi nhọn chiến
lược. Thẻ ngân hàng là một sản phẩm đa chức năng dựa trên việc ứng dụng công
nghệ hiện đại, một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ đã góp phần hữu
hiệu trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách quản lý ngoại hối của
Nhà nước, cải thiện văn minh thanh toán.
Vietcombank là ngân hàng đầu tiên đưa các dịch vụ thẻ vào trong hoạt động
kinh doanh của mình kể từ năm 1990. Và từ đó đến nay Vietcombank luôn được
đánh giá là ngân hàng hàng đầu ở Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh thẻ. Tuy
nhiên, cho đến nay hoạt động dịch vụ thẻ vẫn còn nhiều hạn chế như: sản phẩm thẻ
chưa đa dạng, tiện ích chưa nhiều, mạng lưới còn ít, hệ thống thường xuyên bị lỗi…
Hơn nữa, sự phát triển của dịch vụ này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có
của Vietcombank.
Xuất phát từ thực tiễn trên cùng với mong muốn nghiên cứu tìm giải pháp cho
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại Thương Việt Nam hoàn thiện, phát triển dịch
vụ thẻ đem lại hiệu quả cho ngân hàng cũng như nền kinh tế-xã hội, tác giả đã chọn


2



đề tài nghiên cứu: “ Phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Ngoại Thương Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.

Mục đích nghiên cứu của luận văn
-Nghiên cứu những nội dung cơ bản trong hoạt động dịch vụ thẻ của ngân
hàng thương mại.
-Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động dịch vụ thẻ tại NHTMCPNTVN,
những nguyên nhân hạn chế.
-Đề xuất giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ thẻ tại
NHTMCPNTVN.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Nghiên cứu hoạt động dịch vụ thẻ của NHTMCPNTVN từ năm 2004-2008, có
liên hệ một số NHTM trong nước.
Phương pháp nghiên cứu
-Phương pháp duy vật biện chứng kết hợp với phương pháp thống kê, phân
tích, tổng hợp so sánh số liệu.
Những đóng góp của luận văn
-Thứ nhất: Hệ thống hoá các nội dung cơ bản trong hoạt động dịch vụ thẻ của
ngân hàng thương mại.
-Thứ hai: Phân tích thực trạng hoạt động dịch vụ thẻ, từ đó rút ra những kết
quả đạt được và những hạn chế, tồn tại trong hoạt động dịch vụ thẻ tại
NHTMCPNTVN.
-Thứ ba: Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển hơn nữa
hoạt động dịch vụ thẻ tại NHTMCPNTVN.
Kết cấu của luận văn


3


Tên đề tài: “ Phát triển dịch vụ thẻ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần
Ngoại Thương Việt Nam”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1-Tổng quan về thẻ và dịch vụ thẻ trong hoạt động của ngân hàng
thương mại
Chương 2- Thực trạng hoạt động dịch vụ thẻ tại NHTMCPNTVN
Chương 3- Giải pháp phát triển dịch vụ thẻ tại NHTMCPNTVN

CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN VỀ THẺ VÀ DỊCH VỤ THẺ TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về thẻ ngân hàng
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng được ra đời tại Mỹ từ những năm đầu thế kỷ 20, xuất phát từ
thói quen cho khách hàng mua chịu của các chủ tiệm bán lẻ dựa trên uy tín của khách
đối với các tiệm này. Thông thường, các chủ tiệm theo dõi mỗi khách hàng một cách
riêng rẽ, ghi rõ các khoản mà khách hàng sẽ phải thanh toán và chấp nhận cho khách
hàng trả tiền sau vì họ tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua. Tuy nhiên,
dần dần nhiều người trong trong số các chủ tiệm bán hàng hoá, dịch vụ này nhận thấy
họ không có đủ khả năng cho khách hàng nợ và trả sau như vậy. Chính yếu tố này đã
góp phần giúp các tổ chức tài chính hình thành ý tưởng về sản phẩm thẻ. Bởi vì, chỉ
với lượng vốn kinh doanh lớn và khả năng mở rộng, quay vòng vốn cho vay thì các
tổ chức này mới có khả năng cung cấp cho khách hàng những khoản vay miễn lãi
trong một thời gian tương đối.
Năm 1914, tổ chức chuyển tiền Western Union của Mỹ lần đầu tiên cung cấp
cho các khách hàng đặc biệt của mình dịch vụ thanh toán trả chậm. Công ty này phát


4

hành những tấm kim loại có chứa các thông tin in nổi nhằm nhận diện, phân biệt

khách hàng, cung cấp, cập nhật dữ liệu về khách hàng bao gồm các thông tin về tài
khoản và thông tin về giao dịch thực hiện.
Các tổ chức khác dần nhận ra những giá trị của loại hình dịch vụ nói trên của
Western Union và chỉ trong một vài năm sau đó, rất nhiều đơn vị như nhà ga, khách
sạn cũng như các cửa hàng trên khắp nước Mỹ đã lựa chọn cung cấp dịch vụ trả chậm
cho khách hàng của mình theo phương thức của Western Union. Trong đó tập đoàn
xăng dầu của Mỹ cho ra đời tấm thẻ mua xăng đầu tiên vào năm 1924, cho phép
người dân sử dụng thẻ này để mua xăng, dầu tại các của hàng trên toàn quốc.
Vào năm 1949, nhà doanh nghiệp Frank X.McNamara, sau khi ăn xong ở một
nhà hàng New York, bỗng phát hiện mình không có tiền mặt. Ông Frank
X.McNamara bối rối quá bèn gọi điện bảo vợ nhanh chóng mang tiền đến trả cho
ông. Tình trạng khó xử đó đã khiến ông nghĩ ra loại thẻ Dinner Club, loại thẻ được
coi là “tổ tiên” của thẻ tín dụng hiện nay.
Sau Dinner Club, vào năm 1958 công ty American Express cũng tham gia vào
thị trường thẻ ngân hàngvà đã thiết lập thành công tên tuổi của mình trong lĩnh vực
mới mẻ này. Cũng giống như các đối thủ cạnh tranh của mình, American Express chú
trọng phát triển thẻ trong lĩnh vực giải trí và du lịch (T&E) - một lĩnh vực có tốc độ
phát triển nhanh chóng tại Mỹ và Châu Âu trong thời kỳ sau chiến tranh thế giới.
Đến trước năm 1970, khái niệm về thẻ tín dụng đã được nhiều người biết đến
và nhanh chóng được đón nhận. Năm 1966, ngân hàng Bank of America chính thức
trao quyền phát hành thẻ BankAmericard của mình cho các ngân hàng khác thông
qua việc ký các hợp đồng đại lý, chính thức bắt đầu giai đoạn tăng tốc trong phát
triển. Người dân đi du lịch nhiều hơn trên đất Mỹ và ra nước ngoài mà không còn lo
lắng tới việc phải có sẵn tiền để thanh toán. Thẻ tín dụng lúc này không chỉ mặc định
dành cho những đối tượng giàu có và nổi tiếng mà dần trở thành một phương tiện
thanh toán thông dụng. Thương hiệu BankAmericard với một loạt sản phẩm có màu


5


xanh, trắng, vàng đặc trưng ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng. Bằng
việc ký hợp đồng đại lý và cho các ngân hàng khác hưởng phí thanh toán chuyển đổi
(interchange fee), Bank of America đã nhanh chóng tăng được lượng thẻ phát hành
cũng như ký kết hợp đồng chấp nhận thẻ với các DVCNT trên khắp nước Mỹ và mở
rộng ra thế giới. Tới năm 1977, thẻ của ngân hàng Bank of America thật sự được
chấp nhận trên toàn cầu và thay vì tên BankAmericad , tên thẻ Visa ra đời với màu
sắc đặc trưng vẫn là xanh lam, trắng và vàng.
Cũng vào năm 1966, 3 nhóm ngân hàng lớn phía đông nước Mỹ quyết định
hợp tác thành lập tập đoàn kinh doanh tín dụng riêng, có tên là Interbank Card
Association (ICA). Sau này, tên ICA được chuyển đổi thành MasterCard. ICA ban
hành các quy định về cấp phép giao dịch, thanh toán bù trừ, các biện pháp marketing,
bảo mật và các vấn đề liên quan tới luật pháp nhằm vận hành công việc một cách
hiệu quả.
Năm 1968, ICA bắt đầu chiến lược mở rộng kinh doanh trên phạm vi toàn cầu
thông qua việc liên kết với ngân hàng Banco National cuar Mexico. Sau thời gian đó,
ICA tìm kiếm đối tác tại thị trường Châu Âu, cho ra đời thẻ Eurocard. Cũng vào năm
1968, ICA kết nạp thêm thành viên là một số ngân hàng tại Nhật, nhằm từng bước
thâm nhập và nắm bắt thị trường Đông Á này.
Tóm lại, thẻ ngân hàng ra đời từ nhu cầu thanh toán và phát triển dựa trên nền
tảng công nghệ cũng như chiến lược thay thế tiền mặt trong lưu thông. Thực tế cho
thấy, thẻ ngân hàng là một phát triển tất yếu trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đồng
thời đã và đang phản ánh đầy đủ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và văn minh xã
hội. Tiếp thu và ứng dụng những thành tựu của thế giới về khoa học kỹ thuật, nhất là
về công nghệ thông tin, hệ thống thẻ ngày càng hoàn thiện. Cùng với mạng lưới
thành viên và khách hàng phát triển hàng ngày, các TCTQT đã xây dựng hệ thống xử
lý giao dịch và trao đổi thông tin toàn cầu về phát hành, thanh toán, cấp phép, tra
soát, khiếu kiện và quản lý rủi ro. Với doanh số giao dịch hàng trăm tỷ Đô la Mỹ mỗi


6


năm, thẻ ngân hàng đang cạnh tranh quyết liệt cùng tiền mặt và séc trong hệ thống
thanh toán toàn cầu. Đây là một thành công đáng kể đối với một ngành kinh doanh
mới chỉ có vài thập kỷ hình thành và phát triển.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm thẻ ngân hàng
Thẻ ngân hàng –tiền điện tử- là phương tiện thanh toán hiện đại nhất trong thế
giới ngày nay, ra đời từ phương thức mua bán chịu hàng hoá bán lẻ và phát triển gắn
liền với sự ứng dụng công nghệ tin học trong lĩnh vực ngân hàng.
Thẻ ngân hàng là công cụ thanh toán do NHPH cấp cho khách hàng sử dụng
để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ có ký hợp đồng thanh toán với ngân hàng, hoặc
rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hay các NHĐL trong phạm vi số dư tiền gửi
của mình hoặc hạn mức tín dụng được cấp. Thẻ ngân hàng còn dùng để thực hiện
nhiều dịch vụ khác thông qua hệ thống giao dịch tự động ATM như: thanh toán hoá
đơn dịch vụ điện, nước, điện thoại trả trước và cước thuê bao trả sau của Vinaphone,
Mobìone, Viettel và EVN, phí bảo hiểm, dịch vụ trả tiền trước và một số các dịch vụ
khác…
Dù do bất cứ tổ chức tài chính hoặc phi tài chính nào phát hành, Thẻ ngân
hàng đều được làm bằng plastic theo kích cỡ tiêu chuẩn quốc tế và bao gồm các yếu
tố sau:
-Nhãn hiệu thương mại của thẻ, tên và logo của ngân hàng và/ hoặc tổ chức
phát hành thẻ.
-Thời hạn hiệu lực / thời gian tham gia sử dụng thẻ
-Hạng thẻ (vàng/ chuẩn/ đặc biệt)
-Số thẻ, tên chủ thẻ, các yếu tố bảo mật
-Ngoài ra, thẻ còn có thể có tên công ty chịu trách nhiệm thanh toán hoặc thêm
một số yếu tố khác theo quy định của TCTQT.
1.1.3. Vai trò của thẻ ngân hàng


7


Nhờ những thành tựu rực rỡ trong lĩnh vực công nghệ thông tin những năm
gần đây, mặc dù mới ra đời và phát triển nhưng thẻ đã ngày càng khẳng định được
vai trò to lớn của mình trong sự phát triển của xã hội. Điều này được thể hiện trên các
mặt sau:
1.1.2.1.

Đối với nền Kinh tế-Xã hội

-Huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh
tế.
Thanh toán thẻ qua ngân hàng tạo điều kiện cho hoạt động huy động huy động
vốn của ngân hàng với giá rẻ, nguồn vốn bổ sung này các ngân hàng có thể sử dụng
để đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh. Nếu mỗi tài khoản có số dư 2 triệu đồng thì
với hơn 5 triệu thẻ phát hành, các NHTM đã huy động được 10.000 tỷ đồng.
-Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, tăng nhanh tốc độ và khối
lượng thanh toán trong nền kinh tế. Là một phưong tiện thanh toán không dùng
tiền mặt, vai trò đầu tiên của thẻ là làm giảm khối lượng tiền mặt trong luu thông. Tại
những nước phát triển, thanh toán tiêu dùng bằng thẻ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng số các phương tiện thanh toán. Nhờ vậy mà khối lượng tiền mặt trong lưu thông
giảm đáng kể. Ngoài ra, hầu hết mọi giao dịch thẻ trong trong phạm vi quốc gia hay
toàn cầu đều được thực hiện và thanh toán trực tuyến (ONLINE). Vì vậy, tốc độ
thanh toán nhanh hơn nhiều so với giao dịch qua các phương tiện thanh toán khác
như:séc, lệnh chuyển tiền…Thay vì thực hiện các giao dịch trên giấy tờ, giao dịch thẻ
đều được xử lý qua hệ thống máy móc điện tử thuận tiện, nhanh chóng.
-Thực hiện chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước và kích cầu cho nền
kinh tế. Mọi giao dịch về thanh toán thẻ đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng,
nhờ đó các ngân hàng dễ dàng kiểm soát được mọi giao dịch, tạo nền tảng cho công
tác quản lý thuế của nhà nước. Thực tế hiện nay, mọi chế độ, chính sách liên quan
đến thẻ đều dựa trên chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước. Ngoài ra, thẻ còn có

vai trò kích cầu cho nền kinh tế thông qua những tiện ích làm tăng tiêu dùng trong


8

dân cư. Sự tiện lợi mà thẻ mang lại cho người sử dụng, cơ sở chấp nhận thẻ, ngân
hàng…khiến cho ngày càng có nhiều người ưa chuộng sử dụng thẻ, tăng cường chi
tiêu bằng thẻ. Điều này làm cho thẻ trở thành một công cụ hữu hiệu góp phần thực
hiện biện pháp “kích cầu” của nhà nước. Khuyến khích phát hành, thanh toán thẻ
cũng là khuyến khích tăng cầu tiêu dùng. Điều này cũng tạo nên một kênh cung ứng
vốn hiệu quả của các ngân hàng thương mại.
-Cải thiện môi trường văn minh thương mại, thu hút khách du lịch và đầu
tư nước ngoài. Thanh toán bằng thẻ là giảm bớt các giao dịch thủ công, tiếp cận với
một phương tiện văn minh của thế giới do đó sẽ tạo ra một môi trường thương mại
văn minh, hiện đại hơn. Đây cũng là một yếu tố thu hút khách du lịch, các nhà đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Bên cạnh việc đem lại lợi ích to lớn cho xã hội, thẻ được
sử dụng ngày càng rộng rãi cũng là nhờ những tiện ích thiết thực mà nó đem lại cho
những đối tượng liên quan trực tiếp: chủ thẻ, CSCNT, ngân hàng.
1.1.2.2.

Đối với người sử dụng thẻ

Tiện ích nổi bật cho người sử dụng thẻ là sự tiện lợi và tính linh hoạt hơn hẳn
các phương tiện thanh toán khác.
Sử dụng thẻ, chủ thẻ có thể tiết kiệm thời gian mua hàng và giá trị thanh toán
cao hơn nhờ được cấp tín dụng tự động, tức thời. Bởi vì, với thẻ tín dụng chủ thẻ
được phép chi tiêu trước, trả tiền sau. Tài khoản chủ thẻ chỉ bị ghi nợ khi nào chủ thẻ
thực sự chi tiêu và thanh toán bằng thẻ. Thêm nữa, tỷ giá khi thanh toán bằng thẻ
cũng thường có lợi hơn so với sử dụng tiền mặt hay séc du lịch. Như vậy, không
những giúp người sử dụng thẻ tiết kiệm thời gian mua hàng cũng như thời gian chờ

làm các thủ tục với séc du lịch hay tiền mặt và hạn chế được rủi ro.
Với thẻ ngân hàng, chủ thẻ có thể rút tiền mặt ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ lúc
nào tại ngân hàng hoặc qua các máy rút tiền tự động ATM và sử dụng một số dịch vụ
khác do máy ATM cung cấp như: trả nợ vay, chuyển khoản, xem số dư, in sao kê các


9

giao dịch gần nhất…Không những vậy, với sao kê hàng tháng do ngân hàng gửi đến,
chủ thẻ có thể kiểm soát được chi tiêu của mình trong tháng, đồng thời tính toán được
phí và lãi nếu trả cho mỗi khoản giao dịch. Ngoài ra, thẻ còn là phương tiện hữu
dụng, gọn nhẹ cho những người đi công tác, học tập ở nước ngoài mà không cần
mang theo tiền mặt, séc du lịch.
Giá cho tất cả những lợi ích mà thẻ mang lại là khoản phí thường niên mà chủ
thẻ phải chịu và tỷ lệ lãi nếu khoản chi tiêu không được trả ngân hàng đúng hạn. Tuy
nhiên, với tất cả những lợi ích mà thẻ mang lại cho chủ thẻ thì khoản phí này không
đáng kể và có thể chấp nhận được.
1.1.2.3.

Đối với đơn vị chấp nhận thẻ

Đối với các ĐVCNT, sử dụng thẻ thanh toán có nhiều lợi ích hơn so với việc
chấp nhận các phương tiện thanh toán khác như séc, tiền mặt…
Thứ nhất, đảm bảo an toàn , giảm chi phí bán hàng, tiết kiệm thời gian giao
dịch: Thông qua việc thanh toán tự động và ghi có vào tài khoản tại ngân hàng, các
ĐVCNT đã tiết kiệm thời gian giao dịch và giảm được các chi phí trong việc kiểm
đếm, bảo quản tiền, ghi chép sổ sách, quản lý tài chính…Ngoài ra, ĐVCNT được
ngân hàng cung cấp và bảo quản miễn phí các máy móc thiết bị thanh toán thẻ.
Thứ hai, tăng nhanh khả năng thu hồi và sử dụng vốn. Khi dữ liệu về giao dịch
thẻ được truyền đến ngân hàng hoặc CSCNT nộp hoá đơn thanh toán thẻ cho ngân

hàng thì tài khoản của CSCNT được ghi có ngay. Số tiền này họ có thể sử dụng ngay
vào mục đích quay vòng vốn hoặc các mục đích khác. Nhanh chóng luân chuyển vốn
là điểm thuận lợi hơn so với séc, séc thường phải mất một thời gian nhất định mới
được thanh toán.
Thứ ba, tăng doanh số bán hàng hoá, dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh. Hầu
hết nguời sử dụng thẻ thích mua sắm ở những cửa hàng có chấp nhận thẻ. Chấp nhận
thanh toán thẻ là cung cấp cho khách hàng một phương tiện thanh toán nhanh chóng,
tiện lợi, do vậy khả năng thu hút khách hàng sẽ tăng lên, doanh số cung ứng hàng hoá


10

dịch vụ của CSCNT cũng tăng lên. Thẻ thanh toán cũng tạo cho CSCNT một khả
năng cạnh tranh lớn hơn so với các đối thủ khác. Môi trường văn minh, hiện đại trong
giao dịch, mua bán khi thanh toán thẻ là yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng, đặc
biệt là khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, các nhà đầu tư…
1.1.2.4.

Đối với ngân hàng

Hơn ai hết, ngân hàng chính là người được hưởng lợi nhiều từ hoạt động thanh
toán thẻ. Điều này thể hiện trên các mặt sau:
-Tăng doanh thu và lợi nhuận .
Doanh thu của các NHTM tăng lên nhờ các khoản phí thu được thông qua hoạt
động phát hành, thanh toán thẻ, phí từ các ĐVCNT và lãi suất cho khoản tín dụng mà
chủ thẻ chậm thanh toán. Đó là chưa kể các khoản thu từ các dịch vụ ngân hàng và
đầu tư kèm theo.
Mặt khác, để sử dụng thẻ ngân hàng thì các khách hàng sẽ phải có một khoản
tiền nhất định trong tài khoản của họ tại ngân hàng. Số tiền này có thể tạm thời được
các ngân hàng sử dụng để đầu tư hoặc cho vay kiếm lời trong khi vẫn đảm bảo khả

năng thanh toán.
Một yếu tố nữa có thể mang lại lợi nhuận cho ngân hàng từ thẻ đó là lòng
trung thành của khách hàng. Một khi khách hàng đã có tài khoản hoặc thẻ tại ngân
hàng thì hiếm khi họ lại muốn chuyển sang một ngân hàng khác. Lợi dụng tâm lý này
của khách hàng, ngân hàng có thể bán chéo sản phẩm của mình để giữ chặt khách
hàng và tăng thêm doanh thu khác.
-Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Đưa thêm một loại hình thanh toán mới
phục vụ khách hàng buộc các ngân hàng phải trang bị thêm trang thiết bị kỹ thuật
hiện đại, cải tiến công nghệ để có thể cung cấp cho khách hàng những điều kiện tốt
nhất trong việc thanh toán, đảm bảo uy tín, an toàn, hiệu quả trong hoạt động của
ngân hàng.
-Toàn cầu hoá dịch vụ:


11

Là thành viên của một tổ chức thẻ quốc tế như Visa hay Master Card, một
ngân hàng dù là nhỏ nhất trên thế giới cũng có thể cho khách hàng một phương tiện
thanh toán quốc tế có chất lượng như bất cứ đối thủ cạnh tranh lớn nào. Ví dụ: mỗi
ngày Fleming/Save&Prosper (một ngân hàng ở Anh) phải thanh toán các giao dịch
bằng thẻ tín dụng với rất nhiều Ngân hàng trên toàn thế giới. Nhờ mối quan hệ với
các tổ chức thẻ quốc tế, Ngân hàng này chỉ phải thực hiện duy nhất một giao dịch
thông qua tổ chức thẻ quốc tế Visa để trả tiền cho tất cả các khoản này, việc phân bổ
tới các ngân hàng khác có liên quan sẽ do Visa thực hiện. Sau lợi nhuận, khả năng
cung cấp dịch vụ toàn cầu là lợi ích lớn nhất cho Ngân hàng, tạo điều kiện cho Ngân
hàng tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, hội nhập với cộng đồng quốc tế.
-Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng:
Thẻ thanh toán ra đời làm phong phú thêm các dịch vụ ngân hàng, mang đến
cho ngân hàng một phương tiện thanh toán đa tiện ích, thõa mãn tốt nhất nhu cầu của
khách hàng. Không chỉ có vậy, ở các nước phát triển, phát triển dịch vụ phát hành và

thanh toán thẻ ngân hàng có thêm cơ hội để phát triển các dịch vụ khác song song
như: đầu tư hoặc bảo hiểm cho các sản phẩm. Thông tin về các loại hình dịch vụ này
sẽ được gửi đến cho khách hàng sử dụng thẻ cùng với sao kê hàng tháng của ngân
hàng. Theo thống kê, tại Fleming/Save&Prosper có tới 30% chủ thẻ đã mua các dịch
vụ này.
-Giảm chi phí bảo quản và vận chuyển tiền mặt:
Việc các NHTM triển khai dịch vụ thẻ thanh toán sẽ giúp cho khách hàng
quen với việc sử dụng thẻ trong giáo dịch hàng ngày, từ bỏ dần thói quen sử dụng
tiền mặt để thanh toán vốn đã “ăn sâu, bám rễ” trong suy nghĩ của người dân. Nhờ
đó, các ngân hàng cũng phần nào giảm được việc dự trữ tiền mặt để phục vụ cho mục
đích thanh toán của khách hàng, qua đó sẽ giảm được chi phí để xây dựng kho quỹ
bảo quản, kiểm đếm và vận chuyển tiền mặt.
-Tăng nguồn vốn cho ngân hàng:


12

Nhờ thẻ thanh toán số lượng tiền gửi của khách hàng để thanh toán thẻ và số
lượng tài khoản của các CSCNT cũng tăng lên. Với lượng giao dịch thẻ tương đối
lớn, các tài khoản này sẽ tạo cho ngân hàng một lượng vốn bằng tiền đáng kể, ũng có
thể coi là một nguồn sinh lợi cho ngân hàng.
1.1.3 Phân loại thẻ ngân hàng
Trên thế giới có rất nhiều loại thẻ ngân hàng. Đứng trên nhiều giác độ khác
nhau thì có thể phân chia loại thẻ theo công nghệ sản xuất, theo chủ thể phát hành,
theo tính chất thanh toán thẻ, theo phạm vi lãnh thổ, theo hạn mức của thẻ. Mặc dù
phân chia thành nhiều loại khác nhau, song các sản phẩm chính của thẻ có thể kể đến
như sau:
1.1.3.1 Phân loại theo công nghệ sản xuất
-Thẻ khắc chữ nổi (Embossed Card): là loại thẻ mà trên bề mặt thẻ được khắc
nổi các thông tin cần thiết, số thẻ, tên chủ thẻ, thời hạn sử dụng… Ngày nay, người ta

không còn sử dụng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật của nó quá thô sơ, dễ bị lợi dụng, làm
giả, mà kết hợp với những kỹ thuật mới như băng từ hoặc chip điện tử.
-Thẻ từ (Magnetic Card): là loại thẻ có băng từ ở mặt sau thẻ. Toàn bộ thông
tin liên quan đến chủ thẻ và thẻ đều được mã hoá trong băng từ. Loại thẻ này phổ
thông nhất trên thế giới được ra đời ngay từ thời kỳ đầu của ngành công nghiệp thẻ.
Cùng với kỹ thuật in hình chìm nhiều lớp biểu tượng và hologram, cộng thêm in ảnh
và chữ ký của khách hàng trên thẻ, các TCTQT và các nhà phát hành thẻ đã làm cho
loại thẻ này tăng thêm tính bảo mật và an toàn trong sử dụng và thanh toán thẻ.
-Thẻ thông minh (Smart Card): Thẻ thông minh là giai đoạn phát triển hiện tại
của thẻ ngân hàng, thể hiện những ứng dụng hiện đại nhất của công nghệ thông tin
vào lĩnh vực thẻ, đó là việc sử dụng chíp điện tử. Thông thường, một tấm thẻ thông
minh được gắn chíp điện tử để thay thế cho dải băng từ sau thẻ. Cũng có trường hợp
thẻ thông minh có cả chip điện tử và băng từ. Chíp điện tử độc lập với thẻ và được
gắn trên bề mặt củ thẻ, về bản chất gồm 2 loại: chíp bộ nhớ và chip xử lý dữ liệu.


13

Trong đó, chíp bộ nhớ lưu trữ toàn bộ các thông tin cần thiết có thể cung cấp cho thẻ
trong mỗi lần sử dụng; còn chíp xử lý dữ liệu có khả năng bổ sung, xoá bỏ hoặc điều
chỉnh các thông tin trong bộ nhớ. Thẻ thông minh gắn chíp xử lý dữ liệu có khả năng
vừa lưu trữ các thông tin về chủ thẻ, điểm thưởng tích luỹ đồng thời lưu giữ số liệu
về những lần giao dịch tại ĐVCNT. Tính năng vượt trội này của thẻ thông minh giúp
cắt giảm chi phí xử lý đối với ngân hàng và các trung gian thanh toán bởi việc đối
chiếu thông tin tài khoản và thông tin của chủ thẻ cũng như việc cập nhật thông tin
liên quan tới thẻ giờ đây được thực hiện ngay tại ĐVCNT.
1.1.3.2 Phân theo tính chất thanh toán
-Thẻ tín dụng (Credit Card): là loại thẻ cho phép chủ thẻ sử dụng thẻ trong hạn
mức tín dụng tuần hoàn được cấp và chủ thẻ phải thanh toán toàn bộ các khoản dư nợ
phát sinh theo quy định. Điều này có nghĩa chủ thẻ được ngân hàng cáp cho một hạn

mức tín dụng nhất định để chi tiêu. Với hạn mức tín dụng này, chủ thẻ có khả năng
chi tiêu trước trả tiền sau. Khoảng thời gian từ khi thẻ được dùng để thanh toán hàng
hoá, dịch vụ tới lúc chủ thẻ phải trả tiềncho ngân hàng có dộ dài phụ thuộc vào từng
loại thẻ tín dụng của các tổ chức khác nhau. Nếu chủ thẻ thanh toán toàn bộ số dư nợ
vào ngày đến hạn, thời gian này sẽ trở thành thời gian ân hạn và chủ thẻ hoàn toàn
được miễn lãi đối với số dư nợ cuối kỳ. Tuy vậy, nếu hết thời gian này mà toàn bộ số
dư nợ cuối kỳ chưa được thanh toán cho ngân hàng thì chủ thẻ sẽ chịu những khoản
phí và lãi chậm trả. Khi toàn bộ số tiền phát sinh được hoàn trả cho ngân hàng, hạn
mức tín dụng của chủ thẻ được khôi phuc như ban đầu. Đây chính là tính chất “tuần
hoàn” (Revolving) của thẻ tín dụng.
Các tổ chức tài chính như ngân hàng hay các công ty tài chính phát hành thẻ
tín dụng cho khách hàng dựa trên uy tín và khả năng đảm bảo chi trả của từng khách
hàng. Khả năng đảm bảo chi trả được xác định dựa trên tổng hợp nhiều thông tin
khác nhau như: thu nhập, tình hình chi tiêu, mối quan hệ sẵn có đối với các tổ chức


14

tài chính, địa vị xã hội…của khách hàng. Do đó, mỗi thành phần khách hàng có
những hạn mức tín dụng khác nhau. Cũng từ việc thẩm định và phân loại khách hàng
mà các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính đưa ra nhiều sản phẩm thẻ tín dụng
đa dạng: ví dụ thẻ tín dụng Visa, MasterCard có thẻ Vàng và thẻ Chuẩn…
Nhằm đáp ứng hơn nữa nhu cầu về tiện ích gia tăng của các chủ thẻ tín dụng,
thẻ tín dụng liên kết ra đời.
-Thẻ liên kết (Co-Branded Card)
Một hình thức thẻ tín dụng càng ngày càng trở nên phổ biến là thẻ liên kết.
Thẻ liên kết là sản phẩm của một ngân hàng hay một tổ chức tài chính kết hợp với
một bên thứ ba và thông thường tên hoặc nhãn hiệu thương mại, logo của bên thứ ba
này cũng đồng thời xuất hiện trên tấm thẻ. Ngoài những đặc điểm sẵn có của thẻ ngân
hàng thông thường, thẻ liên kết có sức hấp dẫn hơn đối với khách hàng bởi chính

những lợi ích phụ trội do bên thứ ba đem lại. Ví dụ, thẻ Visa co-brand do ngân hàng
standard Chartered và tập đoàn thời trang Espirit phát hành mang lại cho chủ thẻ
những tiện ích phụ trội riêng biệt như: được chăm sóc sắc đẹp miễn phí, giảm giá
20% cho tất cả các mặt hàng hiệu Espirit trong 3 tháng đầu tiên, chương trình điểm
thưởng tích luỹ theo lượng tiền thanh toán bằng thẻ…
Thẻ tín dụng liên kết giữa một ngân hàng hay tổ chức tài chính kết hợp với
một bên thứ ba, là tổ chức kinh doanh vì mục đích lợi nhuận như trên có tên là thẻ
liên kết co-brand. Bên cạnh đó, hình thức liên kết về thẻ tín dụng giữa ngân hàng và
một bên thứ ba là tổ chức phi lợi nhuận cũng cho ra đời sản phẩm thẻ liên kếtAffinity Card. Điều khác biệt cơ bản giữa hai loại thẻ liên kết nói trên là thẻ liên kết
Affinity Card không mang lại cho chủ thẻ những lợi ích phụ trội về mặt vật chất như
giảm giá, điểm thưởng…mà đem tới cảm giác khác biệt vì được tôn trọng về mặt tinh
thần, về các giá trị xã hội vì trở thành thành viên của một nhóm người ủng hộ một
phong trào, hoặc chủ trương nào đó. Một trong những ví dụ của thẻ Affinity Card là
thẻ MasterCard 2002 FIFA World Cup.


15

-Thẻ ATM
Là hình thức phát triển đầu tiên của thẻ ghi nợ, cho phép chủ thẻ tiếp cận trực
tiếp với tài khoản tại ngân hàng từ máy rút tiền tự động. Chủ thẻ có thể thực hiện
nhiều giao dịch khác nhau tại máy rút tiền tự động ATM, bao gồm: xem số dư tài
khoản, chuyển khoản, rút tiền mặt, in sao kê, xem các thông tin quảng cáo…Hệ thống
máy ATM hiện đại còn cho phép chủ thẻ gửi tiền vào tài khoản của mình ngay tại các
máy ATM, hay chủ thẻ còn có thể đổi séc qua máy rút tiền tự động, thực hiện nộp hồ
sơ cho một khoản vay thông qua máy, ngoài ra chủ thẻ còn có thể tự mình thực hiện
nhiều các dịch vụ ngân hàng khác.
Sự tiện lợi là đặc điểm quan trọng nhất của thẻ ATM. Thông qua việc nhập mã
số bí mật của chủ thẻ (PIN), chủ thẻ có thể sử dụng tài khoản cá nhân của mình tại
ngân hàng mọi lúc, mọi nơi 24/24h một ngày và 7 ngày trong tuần. Điều này có nghĩa

là cùng với thẻ ATM, hệ thống ATM đã cung cấp cho khách hàng sử dụng thẻ khả
năng giao dịch ngoài giờ làm việc, ngoài trụ sở của ngân hàng và khả năng tự phục
vụ.
Theo thời gian, các tổ chức đã chủ động kết nối hệ thống ATM với nhau tạo nên một
mạng ATM khu vực, cho phép khách hàng có thể thực hiện giao dịch tại nhiều máy
ATM hơn. Hiện nay, hai hệ thống ATM lớn nhất trên thế giới là CIRRUS của
MasterCard và PLUS của Visa, sẵn sang cho phép thẻ của các ngân hàng và những tổ
chức tín dụng khác kết nối, tạo nên một mạng lưới rộng khắp toàn cầu.
Với đặc tính thuận tiện, thẻ ATM đã nhanh chóng trở thành sản phẩm rất phổ
biến, đặc biệt có tốc độ tăng trưởng cao tại các thị trường đang phát triể. Tuy nhiên,
sử dụng thẻ ATM, chủ thẻ chỉ có thể tiếp cận với tài khoản của mình từ máy rút tiền
tự động. Đây là một hạn chế bởi tài khoản cá nhân chưa được tận dụng triệt để trong
thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các ĐVCNT. Chính vì lý do này, thẻ ghi nợ ra đời.
-Thẻ ghi nợ (Debit card)


16

Giống như thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ cũng là một phương tiện thanh toán không
dùng tiền mặt. Tuy nhiên, nói về mức độ có thể thay thế tiền mặt, thẻ ghi nợ chiếm
ưu thế vượt trội hơn thẻ tín dụng. Điều này có được bởi tính chất của thẻ ghi nợ. bất
cứ khách hàng nào có tài khoản mở tại ngân hàng đều có thể phát hành thẻ ghi nợ.
Thẻ ghi nợ cho phép khách hàng tiếp cận với số dư trong tài khoản của mình qua hệ
thống kết nối trực tuyến để thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các ĐVCNT hoặc thực
hiện các giao dịch liên quan tới tài khoản tại máy rút tiền tự động ATM. Như vậy,
mức chi tiêu của chủ thẻ chỉ phụ thuộc vào số dư trong tài khoản. Ngân hàng giữ vai
trò cung cấp dịch vụ cho chủ thẻ và thu phí dịch vụ. Đối với thẻ ghi nợ, giữa ngân
hàng và khách hàng không diễn ra quá trình cho vay tín dụng, không có việc phân
loại khách hàng để được hưởng hạn mức tín dụng nên khách hàng chỉ cần có tài
khoản tại ngân hàng đều có thể tiếp cận tới sản phẩm thẻ ghi nợ của ngân hàng.

-Thẻ trả trước (Prepaid card)
Thẻ trả truớc là thẻ cho phép chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ (gửi, nạp, rút tiền
mặt, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, sử dụng các dịch vụ khác) trong phạm vi giá
trị tiền được nạp vào thẻ tương ứng với số tiền mà chủ thẻ đã trả trước cho tổ chức
phát hành thẻ.
Thẻ trả trước có đặc điểm khác với thẻ ghi nợ và thẻ tín dụng là chủ thẻ không
cần phải có tài khoản tại ngân hàng.
Thẻ trả trước bao gồm hai loại là:
-Thẻ trả trước xác định danh tính (thẻ trả trước dịnh danh)
-Thẻ trả trước không xác định danh tính (thẻ trả trước vô danh)
Đối với thẻ trả trước vô danh, số dư trên mỗi thẻ không được vượt quá hạn mức do
ngân hàng Nhà nước quy định, không được nạp thêm tiền vào thẻ và chỉ được sử
dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ. Quy định này nhằm hạn chế việc lợi
dụng thẻ trả trước vô danh trong các hoạt động tội phạm, rửa tiền và tài trợ cho khủng
bố.


17

1.1.3.3 Phân theo phạm vi lãnh thổ
-Thẻ trong nước: là loại thẻ bị hạn chế sử dụng trong phạm vi một nước, các
NHPH và các đơn vị chấp nhận loại thẻ này cũng được đặt trong nước, loại thẻ này
cũng chỉ được lưu hành tại nước đó. Ví dụ thẻ ATM connect 24 được phát hành bởi
NHTMCPNTVN chỉ được sử dụng tiền đồng và chỉ ở Việt Nam.
-Thẻ quốc tế: được phát hành bởi các ngân hàng trong nước và ngân hàng
quốc tế, các tổ chức tài chính là thành viên của hiệp hội thẻ quốc tế. Loại thẻ này có
thể được sử dụng ở khắp nơi trên thế giới giống như là VCB-VISA Card, ACB –
Master card.
1.1.4 Các chủ thể tham gia hoạt động dịch vụ thẻ
Hoạt động thanh toán thẻ ngân hàng có sự tham gia chặt chẽ của 6 thành phần

cơ bản là: Ngân hàng phát hành thẻ, ngân hàng thanh toán thẻ, chủ thẻ, đơn vị chấp
nhận thẻ, tổ chức thẻ quốc tế, hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ. Mỗi chủ thể
đóng vai trò quan trọng khác nhau trong việc phát huy tối đa vai trò làm phương tiện
thanh toán hiện đại của thẻ ngân hàng.
1.2.1.

Ngân hàng phát hành thẻ

Ngân hàng phát hành là tổ chức tài chính- tín dụng thực hiện việc phát hành
thẻ cho chủ thẻ một cách hợp pháp. NHPHT cũng có thể là ngân hàng được sự cho
phép của tổ chức thẻ hoặc công ty thẻ trao quyền phát hành thẻ mang thương hiệu
của những tổ chức và công ty này. Tên của NHPHT được in trên thẻ, thể hiện thẻ đó
là sản phẩm do mình phát hành.
NHPHT quy định các điều khoản, điều kiện sử dụng thẻ cho chủ thẻ tuân thủ
và ngân hàng phát hành có quyền ký kết hợp đồng đại lý với bên thứ ba, là một ngân
hàng hoặc một tổ chức tài chính tín dụng khác trong việc thanh toán hoặc phát hành
thẻ tín dụng. Trong trường hợp này, ngân hàng phát hành tận dụng được ưu thế của
bên thứ ba về kinh nghiệm, khả năng thâm nhập thị trường và những ưu việt về vị trí
địa lý. Tuy nhiên, cũng phải chịu rủi ro về tài chính bởi bên thứ ba (lúc này hoạt động


18

dưới danh nghĩa là ngân hàng đại lý). Bên thứ ba khi ký kết hợp đồng đại lý với
NHPHT được gọi là ngân hàng đại lý phát hành. Nếu têncủa ngân hàng đại lý xuất
hiện trên tấm thẻ của khách hàng thì nhất thiết ngân hàng đại lý phát hành thẻ phải là
thành viên chính thức của tổ chức thẻ hoặc các công ty thẻ.
NHPHT có trách nhiệm quản lý hệ thống tài khoản thẻ, hệ thống phát hành thẻ
và các hoạt động liên quan sử dụng thẻ.
1.2.2.


Ngân hàng thanh toán thẻ

NHTTT là ngân hàng trong hệ thống các ngân hàng quốc tế chấp nhận thanh
toán các loại dịch vụ liên quan đến thẻ do NHPHT đã phát hành.
Vai trò của NHTTT là thiết lập và duy trì mạng lưới các ĐVCNT trong nghiệp
vụ thẻ cũng như vai trò của NHPHT là thiết lập và duy trì quan hệ với các chủ thẻ.
Nhiều NHTM cũng như các tổ chức tài chính làm nghiệp vụ thẻ với tư cách vừa là
nhà phát hành vừa là nhà thanh toán thẻ. Quản lý tốt hệ thống ĐVCNT có thể thu lợi
nhuận cho nhà thanh toán và nhiều lợi ích khác cho việc liên kết. Các NHTTT phải
đối mặt với thách thức của việc lựa chọn những CSCƯHHDV hợp pháp đủ điều kiện
để trở thành ĐVCNT và giảm thiểu những rủi ro, mất mát liên quan đến giả mạo, phá
sản cũng như tranh chấp đòi bồi hoàn của những ĐVCNT thuộc mạng lưới khách
hàng của mình.
Các NHTM thực hiện nghiệp vụ thanh toán thẻ phải đầu tư hệ thống máy móc
xử lý và quản lý giao dịch, hệ thống cấp phép tại nội bộ ngân hàng và hệ thống máy
móc chấp nhận thẻ kèm theo hướng dẫn sử dụng hoặc chương trình đào tạo nhân viên
cách thức vận hành cùng với dịch vụ bảo trì, bảo dưỡng đi kèm trong suốt thời gian
hoạt động của những ĐVCNT. Ngoài ra, NHTTT còn phải quản lý và xử lý những
giao dịch có sử dụng thẻ tại những đơn vị này.
1.2.3.

Chủ thẻ

Chủ thẻ là người được NHPHT phát hành thẻ để sử dụng trong hạn mức tín
dụng được cấp hoặc số dư trên tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Chủ thẻ có thể là


19


những cá nhân hoặc người đười được uỷ quyền (nếu thẻ do công ty uỷ quyền sử
dụng) được ngân hàng phát hành thẻ và sử dụng thẻ theo những điều khoản, điều kiện
do NHPHT quy định.
Chủ thẻ sử dụng thẻ của mình để thanh toán hàng hoá, dịch vụ tại các đơn vị
cung ứng hàng hóa, dịch vụ có chấp nhận thẻ (ĐVCNT), ứng tiền mặt tại các điểm
ứng tiền mặt tại các điểm ứng tiền mặt thuộc hệ thống ngân hàng hoặc sử dụng thẻ để
thực hiện các giao dịch tại máy rút tiền tự động ATM. Đối với thẻ tín dụng, sau một
khoảng thời gian nhất định tuỳ theo quy định của từng ngân hàng phát hành, chủ thẻ
sẽ nhận được sao kê. Sao kê là bản thông báo chi tiết toàn bộ các giao dịch chi tiêu sử
dụng thẻ, số dư nợ cuối kỳ, ngày đến hạn thanh toán cũng như số tiền thanh toán tối
thiểu bắt buộc, các khoản lãi, phí phát sinh và các thông báo liên quan đến việc sử
dụng thẻ. Căn cứ vào thông tin trên sao kê, chủ thẻ sẽ thực hiện thanh toán khoản tín
dụng thẻ đã sử dụng cho ngân hàng phát hành thẻ.
1.2.4.

Đơn vị chấp nhận thẻ

ĐVCNT là các tổ chức hay cá nhân cung ứng hàng hoá, dịch vụ chấp nhận thẻ
làm phương tiện thanh toán. ĐVCNT hoạt động trên nhiều lĩnh vực: nhà hàng ăn
uống, khách sạn, sân bay, các cửa hàng lưu niệm, siêu thị…Tại nhiều nước trên thế
giới, khi thẻ ngân hàng đã trở thành một phương tiện thanh toán thông dụng, chúng ta
có thể nhìn thấy những biểu trưng của thẻ xuất hiện tại các cửa hàng. Ở Việt Nam
hiện nay, các ĐVCNT tập trung chủ yếu tại những ngành hàng, dịch vụ có thu hút
nhiều khách nước ngoài như: của hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ, lưu niệm, tại các
trung tâm thương mại, những nhà hàng, khách sạn lớn, các đại lý bán vé máy bay…
Để trở thành ĐVCNT của ngân hàng, các ĐVCNT phải ký kết hợp đồng chấp
nhận thẻ như một phương tiện thanh toán, nhất thiết phải có tình hình tài chính tốt và
năng lực kinh doanh. Cũng như việc ngân hàng phát hành thẩm định khách hàng
trước khi phát hành thẻ, các NHTTT cũng sẽ chỉ quyết định ký kết hợp đồng chấp
nhận thẻ với những đơn vị kinh doanh hiệu quả, có khả năng thu hút nhiều giao dịch



20

sử dụng thẻ. Mặc dù phải trả cho NHTTT một tỷ lệ phí chiết khấu theo lượng tiền
trong mỗi giao dịch , các ĐVCNT vẫn có được lợi thế cạnh tranh bởi việc chấp nhận
thanh toán bằng thẻ ngân hàng sẽ giúp các đơn vị này thu hút được một lượng khách
hàng lớn, nâng cao số lượng các giao dịch thực hiện, góp phần tăng hiệu quả kinh
doanh.
1.2.5.

Tổ chức thẻ quốc tế

Tổ chức thẻ quốc tế là đơn vị đứng đầu, quản lý mọi hoạt động phát hành và
thanh toán thẻ. Đây là Hiệp hội các tổ chức tài chính, tín dụng lớn, có mạng lưới hoạt
động rộng khắp và đạt được sự nổi tiếng với thương hiệu và các loạt sản phẩm đa
dạng, ví dụ tổ chức thẻ Visa, tổ chức thẻ MasterCard, công ty thẻ American Express ,
công ty thẻ JCB, công ty Diners Club , công ty Mondex…Tổ chức thẻ quốc tế đưa ra
những quy định cơ bản về hoạt động phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đóng vai
trò trung gian giữa các tổ chức và các công ty thành viên trong việc điều chỉnh và cân
đối các lượng tiền thanh toán giữa các công ty thành viên.
1.2.6.

Hiệp hội các ngân hàng thanh toán và phát hành thẻ

Do một nhóm ngân hàng liên kết với nhau, tổ chức thành lập ra. Hiệp hội sẽ soạn
thảo ra các quy định riêng về các tổ chức, cấp phép, bù trừ, thanh toán, áp dụng cho
tất cả các thành viên của Hiệp hội đồng thời tổ chức về vấn đề cạnh tranh trên thị
trường và vấn đề pháp lý. Hiệp hội không trực tiếp phát hành thẻ mà giao việc này
cho các ngân hàng thành viên và thu phí thường niên của các thành viên.

1.2. Các hoạt động chính của dịch vụ thẻ ngân hàng
Với các chủ thể như đã được trình bày trong phần trên, có thể mô hình hoá toàn
bộ hoạt động kinh doanh thẻ theo sơ đồ 1.1:


21

SƠ ĐỒ 1.1. QUY TRÌNH NGHIỆP VỤ THẺ

(2) Mua hàng hóa, dịch vụ

ĐVCNT

CHỦ THẺ

NHPHT

(8) Báo Nợ

(5) Gửi giữ liệu

TCTQT

(6) Báo Có

NHTTT

(4) Tạm ứng

(3) Hóa đơn thanh toán


(1) Phát hành thẻ

(9) Gửi sao kê

(10) Thanh toán

(7) Gửi giữ liệu


22

Như vậy, để thực hiện kinh doanh dịch vụ thẻ, thông thường các ngân hàng phải tiến
hành các hoạt động nghiệp vụ, bao gồm: hoạt động phát hành, hoạt động thanh toán
và hoạt động quản lý rủi ro.
2.1.1. Hoạt động phát hành thẻ
Hoạt động phát hành thẻ của ngân hàng bao gồm việc quản lý và triển khai
toàn bộ quá trình phát hành thẻ, sử dụng thẻ và thu nợ khách hàng. Mỗi một quá trình
đều liên quan rất chặt chẽ đến việc phục vụ khách hàng và quản lý rủi ro cho ngân
hàng. Các NHPHT xây dựng quy định về việc sử dụng thẻ và thu nợ, gồm các yếu tố:
số tiền thanh toán tối thiểu, ngày sao kê, ngày đến hạn, các loại phí và lãi, hạn mức
tín dụng tối đa tối thiểu, các chính sách ưu đãi…
Hoạt động phát hành thẻ của NHTM bao gồm các nội dung sau:
-Thẩm định khách hàng phát hành thẻ
-Cấp hạn mức tín dụng thẻ đối với thẻ tín dụng
-In nổi và mã hoá thẻ, cung cấp mã số cá nhân (PIN) cho chủ thẻ
-Quản lý thông tin khách hàng
-Quản lý hoạt động sử dụng thẻ của khách hàng
-Quản lý tình hình thu nợ của khách hàng
-Cung cấp dịch vụ khách hàng

-Tổ chức thanh toán bù trừ với các TCTQT.
Triển khai hoạt động phát hành thẻ, ngoài việc hưởng phí phát hành thẻ thu
được từ chủ thẻ, các ngân hàng còn được hưởng khoản phí trao đổi do NHTTT chia
sẻ từ phí thanh toán thẻ thông qua các TCTQT. Đây là phần lợi nhuận cơ bản của các
NHPHT. Trên cơ sở nguồn thu này, các NHPHT đưa ra những chế độ miễn lãi và ưu
đãi khác cho khách hàng để mở rộng đối tượng sử dụng thẻ cũng như tăng doanh số
sử dụng thẻ.


23

2.3.2. Hoạt động thanh toán thẻ
Việc triển khai hoạt động thanh toán thẻ của một ngân hàng không chỉ vì mục
đích thu lợi nhuận từ nguồn phí chiết khấu tính trên giá trị giao dịch thanh toán bằng
thẻ từ các ĐVCNT mà còn là mong muốn cung cấp cho khách hàng một dịch vụ hoàn
chỉnh, một cơ sở thuận lợi cho sử dụng thẻ. Đối với TCTQT và các thành viên, việc
khuyến khích hoạt động thanh toán thẻ thông qua mở rộng mạng lưới ĐVCNT có ý
nghĩa rất quan trọng:
Thứ nhất: Hoạt động thanh toán một loại thẻ nhất dịnh nào dó được mở rộng
trên một thị trường, có nghĩa là chủ thẻ có thể sử dụng thẻ dễ dàng và thuận tiện hơn.
Khi nhu cầu du lịch, giải trí của người dân nói chung ngày càng tăng thì việc phát
triển thị trường thanh toán thẻ ra nước ngoài càng trở nên cấp thiết. Các tổ chức thẻ
và NHPHT quan tâm tối đa tới việc chủ thẻ sẽ tận dụng phương tiện thanh toán phi
tiền mặt này như thế nào. Với số lượng ĐVCNT lớn, có mặt tại khắp các thị trường
tiềm năng và các ngành hàng kinh doanh, thẻ ngân hàng sẽ được chấp nhận nhiều
hơn, mang lại lợi ích cho cả chủ thẻ, bản thân các ĐVCNT và sau đó là các NHPHT
và NHTTT.
Thứ hai: Ngoài việc mở rộng thị trường thanh toán bằng cách ký kết hợp
đồng với ĐVCNT mới, NHTTT đặc biệt quan tâm tới việc duy trì mối quan hệ với
các ĐVCNT sẵn có. Điều này thể hiện trong công tác chăm sóc khách hàng của các

NHTTT. Nếu không có những chính sách thích hợp, những dịch vụ hỗ trợ tốt, tạo
điều kiện cho các ĐVCNT chấp nhận thẻ của khách hàng một cách dễ dàng thì khách
hàng sử dụng dịch vụ thanh toán thẻ sẽ giảm đi, mục tiêu thu lợi của các ngân hàng bị
ảnh hưởng.
Như vậy, để hoạt động thanh toán thẻ được mở rộng và có hiệu quả, các
NHTTT luôn phải có những biện pháp marketing và dịch vụ khách hàng hợp lý, đồng
thời cung cấp cho các ĐVCNT những dịch vụ đi kèmmiễn phí nhằm nâng cao sức
cạnh tranh.


24

Hoạt động thanh toán thẻ của các NHTM bao gồm các nội dung:
-Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin khách hàng ĐVCNT
-Quản lý hoạt động của mạng lưới ĐVCNT
-Tổ chức thanh toán các giao dịch sử dụng thẻ cho các ĐVCNT
-Cung cấp dịch vụ khách hàng
-Tổ chức tập huấn kiến thức thanh toán thẻ cho nhân viên các ĐVCNT
-Cung cấp trang thiết bị, vật tư phục vụ cho công tác thanh toán thẻ.
2.2.1. Hoạt động quản lý rủi ro
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng phải đối mặt với khá nhiều
loại rủi ro khác nhau, như việc tổ chức, cá nhân cố ý sử dụng thẻ một cách không hợp
pháp, các ĐVCNT không tuân thủ quy trình đã được hướng dẫn, thực hiện giao dịch
giả mạo, cung cấp các thông tin về thẻ cho bên thứ ba hoặc việc các ĐVCNT không
thông báo việc chấm dứt hoạt động kinh doanh trong khi vẫn còn nợ tiền ngân
hàng…Tất cả những hành vi trên đây đều gây ra những rủi ro cho hoạt động dịch vụ
thẻ ngân hàng, cũng như tổn thất tài chính đối với cá nhân sử dụng thẻ và các
ĐVCNT. Chính vì vậy, một trong những hoạt động quan trọng của dịch vụ thẻ ngân
hàng là hoạt động quản lý rủi ro. Bộ phận quản lý rủi ro tại các ngân hàng có kinh
doanh thẻ được coi là bộ phận xương sống trong hoạt động thẻ.

Hoạt động quản lý rủi ro trong hoạt động thẻ gồm các nội dung:
-Điều tra, ngăn ngừa các hành vi sử dụng thẻ giả mạo;
-Quản lý danh mục các tài khoản liên quan tới những thẻ đã được thông báo mất, thất
lạc;
-Xây dựng các kế hoạch theo dõi việc bảo mật phôi thẻ, thẻ đã in và thẻ hỏng, thẻ thu
hồi;
-Cập nhật thông tin trên các danh sách thẻ mất cắp, thất lạc;
-Giải quyết các nhu cầu về giả mạo, tra soát, khiếu nại của khách hàng;


25

-Hợp tác với cơ quan có thẩm quyền liên quan trong việc điều tra, xử lý các hành vi
vi phạm hợp đồng, giả mạo;
-Tổ chức tập huấn cho nhân viên ĐVCNT và chủ thẻ về các biện pháp phòng ngừa
giả mạo;
-Tổ chức tập huấn cho nhân viên ĐVCNT và chủ thẻ về các biện pháp phòng ngừa
giả mạo.
Dịch vụ thẻ của ngân hàng càng phát triển thì lĩnh vực quản lý rủi ro càng được đầu
tư nhiều hơn. Các chuyên gia trong lĩnh vực này là những người thực sự am hiểu về
thẻ và công nghệ hiện đại bởi trước khả năng thu lời siêu lợi nhuận, các tổ chức tội
phạm quốc tế đã tận dụng công nghệ hiện đại, bằng mọi cách thu thập các dữ liệu về
thẻ, tài khoản của khách hàng, từ đó thực hiện các hành vi giả mạo, gây tổn hại khôn
lường về tài chính cũng như uy tín cho ngân hàng, ĐVCNT và chủ thẻ.
1.3.

Phát triển dịch vụ thẻ của Ngân hàng Thương mại

1.3.1. Quan niệm về phát triển dịch vụ thẻ Ngân hàng Thương mại
Tại Việt Nam, việc sử dụng thẻ ngân hàng trong thanh toán hàng hóa, dịch vụ

ngày càng trở nên phổ biến. Lượng thẻ phát hành ra lưu thông tính đến tháng 2/2009
đã lên gần 16 triệu thẻ với tốc độ tăng trưởng bình quân của những năm gần đây là từ
150-300%/năm. Hiện đã có 41 tổ chức phát hành thẻ với khoảng 170 thương hiệu thẻ
khác nhau. Các dịch vụ đi kèm cũng rất đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhu cầu
ngày càng tăng của chủ thẻ. Điều này cho thấy các ngân hàng của Việt Nam đã nhận
thức được tiềm năng to lớn của thị trường này trong tương lai. Không chỉ các ngân
hàng lớn như Ngân hàng Công thương, Ngoại thương (Vietcombank), Đầu tư hay
Nông nghiệp và phát triển nông thôn... mà rất nhiều ngân hàng thương mại cổ phần
như ACB, Đông Á, Sài Gòn công thương…cũng đã quyết định đầu tư lớn cho dịch
vụ này, kể cả các loại máy ATM hiện đại có thể cho phép cả rút và gửi tiền, đổi ngoại
tệ ra tiền Việt Nam đồng. Hoạt động thẻ của các NHTM phát triển đã mang đến cho
Ngân hàng một vị thế mới, một diện mạo mới. Ngoài việc xây dựng được hình ảnh


×