Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tại tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.23 MB, 122 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ LỰU

CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC XÃ HỘI TRONG
GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN
TỈNH NINH BÌNH

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. VÕ KHÁNH VINH

Hà Nội, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LÊ THỊ LỰU


MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


ABCD
: (Assets Based for Community Development)
ABCD là phương pháp nghiên cứu phát triển dựa vào nội lực của cộng đồng.
ASXH
: An sinh xã hội
BCH

: Ban chấp hành

BHYT

: Bảo hiểm y tế

CTXH

: Công tác xã hội

DTTS

: Dân tộc thiểu số

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LĐTBXH

: Lao động Thương binh Xã hội

PRA

: (Rapid Rural Appraisal)
PRA là phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có người dân tham gia trong
phát triển cộng đồng.
UBND
: Uỷ ban nhân dân
XĐGN

: Xóa đói giảm nghèo

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có lẽ loài người đã bắt đầu giúp đỡ nhau ngay từ khi họ xuất hiện trên
trái đất này. Xu hướng trợ giúp người nghèo, ốm đau, yếu đuối, người già,
những người khuyết tật... dường như là bản năng của con người và được tất cả
các tôn giáo khuyến khích. Khi xã hội phát triển hiện đại hơn, loài người bắt
đầu giúp đỡ nhau không chỉ như là một hình thức quyên góp từ thiện đơn
thuần. Trong bối cảnh như thế, công tác xã hội với tư cách là một ngành khoa
học trợ giúp ra đời nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân bằng những kĩ năng và phương pháp thực hành chuyên nghiệp của mình.
Những nhóm đối tượng yếu thế, đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt như: người
khuyết tật, người lang thang, cơ nhỡ, người già, người nhiễm HIV..trong đó
có người nghèo chính là những trọng tâm trợ giúp của công tác xã hội.
Đói nghèo là một vấn đề toàn cầu, đã và đang diễn ra trên khắp các
châu lục với những mức độ khác nhau và trở thành một thách thức lớn đối với

sự phát triển của từng khu vực, từng quốc gia, dân tộc và từng địa phương.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 70% dân số sống ở nông thôn. Với
trình độ dân trí, canh tác còn hạn chế nên năng suất lao động chưa cao, thu
nhập của nông dân còn thấp, tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra ở hầu hết các
vùng miền. Do đó, xóa đói, giảm nghèo ở nước ta vẫn đang là vấn đề bức xúc
được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm. Xóa đói, giảm nghèo toàn diện,
bền vững là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và
là một trong những nhiệm vụ quan trọng, góp phần thực hiện phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm thống nhất của Đảng và
Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đất nước theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá những năm qua là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền
với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, một mặt là tăng trưởng kinh tế một

1


mặt là cần tập trung cho công tác giảm nghèo, an sinh xã hội. Nhằm cụ thể
quan điểm trên, Đề án Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020 ra
đời với mục đích chính là nâng cao nhận thức của xã hội về nghề công tác xã
hội, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức và người làm công tác xã
hội đủ về số lượng, đạt tiêu chuẩn về chất lượng gắn với phát triển hệ thống
cơ sở cung cấp dịch vụ công tác xã hội góp phần xây dựng nền an sinh xã hội
tiên tiến.
Công tác xã hội có lịch sử lâu dài trong quá trình hỗ trợ giải quyết
nghèo đói ở các cấp độ khác nhau từ việc hỗ trợ cá nhân người nghèo đến
phát triển thay đổi cộng đồng nghèo và các chính sách, chương trình xã hội
hoá xoá đói giảm nghèo của quốc gia. Công tác xã hội tham gia vào lĩnh vực
này với ý nghĩa hết sức quan trọng và mang tính nhân văn sâu sắc được dựa
trên nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp- đó là phấn đấu cho sự công bằng xã
hội. Và nghèo đói được xem là vấn đề chính gây cản trở công bằng xã hội.

Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía nam đồng bằng sông Hồng, giao
thông thủy, bộ thuận tiện, có tiềm năng kinh tế lớn ở cả 3 vùng: đồng bằng,
ven biển, trung du miền núi và 2 thế mạnh: du lịch, vật liệu xây dựng. Ninh
Bình cũng có nhiều nghề truyền thống, như trồng, chế biến cói, thêu ren, chế
tác đá mỹ nghệ, mộc, sinh vật cảnh... Không chỉ có nguồn lao động dồi dào,
người dân Ninh Bình lại cần cù, chăm chỉ và rất có ý chí thoát nghèo, vươn
lên làm giàu. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi ấy, Ninh Bình cũng gặp
nhiều khó khăn, thách thức. Nhiều xã ở vùng sâu, vùng xa, vùng ven biển
điều kiện sản xuất, sinh hoạt còn khó khăn, trình độ dân trí thấp, tỷ lệ hộ
nghèo cao. Tính đến hết năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo vẫn ở mức 12,39%. Đến
cuối giai đoạn 2011-2015 giảm 1.198 hộ nghèo tương ứng tỷ lệ 3,5% . Trung
bình mỗi năm giảm được tỷ lệ hộ nghèo là 1,89%. Tuy nhiên tỷ lệ hộ tái
nghèo, phát sinh nghèo hàng năm còn cao, chênh lệch mức sống giữa nhóm

2


người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng. Vì thế việc nghiên cứu về
chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tại tỉnh
Ninh Bình một cách hệ thống, khoa học làm cơ sở đưa ra các chính sách trợ
giúp xã hội nhằm góp phần xoá đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
được tôi lựa chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghèo và xoá đói giảm nghèo ở nước ta đang là vấn đề được Đảng và
Nhà nước, các cấp, các ngành cũng như nhiều cơ quan, nhà khoa học đặc biệt
quan tâm nghiên cứu. Hiện nay có khá nhiều nghiên cứu về vấn đề này như:
- Tập thể tác giả Nghèo đói và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội- 2001;
- Tiến sỹ Nguyễn Trọng Xuân Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện
nhiệm vụ giúp dân xoá đói giảm nghèo, Nxb Quân đội nhân dân-2008;

- Nguyễn Thị Hằng Vấn đề xoá đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh – 1997.
- Luận án Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động để góp phần xoá đói
giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam của Tiến sỹ Vũ Thị Hiểu năm 1966
- Luận văn Thạc sỹ kinh tế Thực trạng và những giải pháp kinh tế chủ
yếu nhằm xoá đói giảm nghèo ở vùng định canh, định cư tỉnh Thanh Hoá tác
giả Đỗ Thế Hạnh (năm 1998)
- Hoàn thiện chính sách xoá đói giảm nghèo chủ yếu của Việt Nam
đến năm 2015, Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hoa (Năm 2009).
Tại Ninh Bình, hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu về chính sách
công tác xã hội trong công tác giảm nghèo bền vững mới chỉ có các bài viết,
sách và đề tài nghiên cứu về vấn đề giảm nghèo như:
- 65 năm xây dựng và trưởng thành ngành Lao động Thương binh và
Xã hội tỉnh Ninh Bình (28/8/1945-28/8/2010)

3


- Lịch sử ngành Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Ninh Bình, sách
và tư liệu do ông Nguyễn Phong Phú –nguyên giám đốc Sở Lao động Thương
binh và Xã hội và ông Bùi Văn Trạch, Tổng biên tập Tạp chí Lao động Xã
hội chỉ đạo nội dung;
Tuy nhiên, chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề "chính sách
công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình".
Đề tài nhằm hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về công tác xã hội trong giảm
nghèo, phân tích, đánh giá thực trạng giảm nghèo ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn
2011-2015; Đưa ra giải pháp hoàn thiện chính sách công tác xã hội trong
giảm nghèo bền vững từ thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở
Ninh Bình giai đoạn 2015-2020.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về chính sách và thực trạng công tác xoá đói giảm
nghèo bền vững và đánh giá thực trạng chính sách công tác xã hội đối với
công tác xoá đói giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình.
- Luận văn nghiên cứu hệ thống quan điểm, phân tích một số giải pháp
đề hoàn thiện và nâng cao hiệu quả chính sách công tác xã hội trong thực hiện
xoá đói giảm nghèo bền vững tại tỉnh Ninh Bình cũng như hỗ trợ bằng
phương pháp công tác xã hội để kết nối các nguồn lực với người dân góp
phần thực hiện mục tiêu: cơ bản không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống
mức tối thiểu trên địa bàn tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chính sách công tác xã hội trong
giảm nghèo bền vững.

4


- Luận văn đi sâu nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách công tác xã
hội trong công tác giảm nghèo tại Ninh Bình: Chính sách đã thực hiện trong
giai đoạn 2011-2015 và Chính sách thực hiện trong giai đoạn 2016-2020.
- Trên cơ sở các giải pháp đã và đang thực hiện, Luận văn đưa ra kiến
nghị hoàn thiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững tại
tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tại
tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Thời gian: từ năm 2011 đến năm 2015.

5. Phương pháp luận và phương pháp luận của luận văn
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
- Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Mác- Lênin và
tư tưởng Hồ Chính Minh khi nghiên cứu đề tài “chính sách công tác xã hội
trong giảm nghèo bền vững từ thực tiễn tại tỉnh Ninh Bình”, Luận văn xem
xét vấn đề này trong mối liên hệ tác động không ngừng của lịch sử xã hội.
Ngày nay khi xã hội càng phát triển sự phân hoá giàu nghèo gia tăng, tỷ lệ
nghèo trong cơ cấu dân cư ngày càng tăng. Người nghèo thuộc nhóm người
yếu thế trong xã hội, vì thế hơn bao giờ hết xã hội cần cung ứng những sự trợ
giúp tốt nhất cho nhóm người này để phát huy vai trò của họ. Khi đánh giá vai
trò của chính sách công tác xã hội cần đặt nó trong mối quan hệ với các chính
sách trợ giúp khác và tình hình đặc điểm thực trạng người nghèo tại Ninh
Bình.

5


- Đồng thời, Luận văn được thực hiện trên các quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong vấn đề nghèo đói và chính sách xoá đói
giảm nghèo của Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Là phương pháp dựa trên việc phân tích các tài liệu nội bộ, tài liệu hàn
lâm sẵn có để đưa ra nhận định đúng đắn cho vấn đề và hướng giải quyết cho
vấn đề. Phương pháp này được sử dụng trong quá trình nghiên cứu, từ thực
hiện vấn đề, chọn đối tượng nghiên cứu, thu thập thông tin và phân tích kết quả
nghiên cứu…
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả luận văn sử dụng phương
pháp phân tích tài liệu nhằm tìm hiểu các thông tin từ các văn kiện, Nghị
quyết, Quyết định của Chính phủ, các bộ ngành và tại tỉnh nhà, các công

trình nghiên cứu, các báo cáo, số liệu thống kê....:
- Báo, tạp chí: Công báo, Tạp chí Lao động xã hội, tạp chí Cộng sản,
Báo Nhân dân....
- Mạng internet....
5.2.2. Phương pháp quan sát
Là phương pháp thu thập thông tin xã hội sơ cấp về đối tượng nghiên
cứu bằng cách quan sát, ghi chép các yếu tố những vấn đề có liên quan tới đề
tài nghiên cứu, có tính hệ thống, có kế hoạch và đặc trưng riêng của phương
pháp này. Phương pháp quan sát được sử dụng trong suốt quá trình nghiên
cứu, kết hợp trong quá trình vãng gia.
Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả nghiên cứu đã tiến hành quan
sát các nội dung sau: Nơi sinh sống, tiện nghi sinh hoạt, các mối quan hệ của
các hộ gia đình nghèo....

6


5.2.3. Phương pháp định tính, phỏng vấn sâu
Là phương pháp thu thập thông tin qua hỏi đáp. Người điều tra đặt câu
hỏi cho đối tượng khảo sát, sau đó ghi vào phiếu hoặc sẽ tái hiện nó vào phiếu
sau khi kết thúc cuộc phỏng vấn, hoặc người phỏng vấn ghi âm lại cuộc
phỏng vấn sau đó nghe lại và phân tích thông tin thu được. Ở đây người
phỏng vấn và đối tượng khảo sát tiếp xúc trực tiếp với nhau
Phỏng vấn là một công việc có tính chất nghề nghiệp và đòi hỏi nhân
viên CTXH phải chuẩn bị kĩ lưỡng những nội dung, câu hỏi phỏng vấn đối
với thân chủ. Nhân viên CTXH luôn phải để ý những thông tin thiếu sót,
những còn mơ hồ cần làm rõ và các nhầm lẫn, thiếu sót của nhân viên xã hội
cần được xử lí bằng các kĩ năng giải quyết vấn đề.
Tác giả luận văn đã tiến hành 5 phỏng vấn sâu trong quá trình thực
hiện đề tài:

Bảng phỏng vấn sâu số 1, 2: Phỏng vấn hộ gia đình nghèo
Bảng phỏng vấn sâu số 3: Phỏng vấn cán bộ, người làm công tác xã hội
tại cộng đồng
Bảng phỏng vấn sâu số 4: Phỏng vấn chính quyền địa phương
Bảng phỏng vấn sâu số 5: Phỏng vấn cán bộ quản lý nhà nước về thực
hiện chính sách an sinh xã hội.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu, bổ sung
kiến thức lý thuyết về chính sách công tác xã hội đối với giảm nghèo bền
vững từ đó đưa ra những định hướng góp phần hoàn thiện chính sách hỗ trợ
công tác giảm nghèo bền vững.
Kết quả nghiên cứu đề tài chứng minh cho việc ứng dụng chính sách
công tác xã hội đối với công tác an sinh xã hội là vô cùng cần thiết nhằm nâng

7


cao chất lượng và hiệu quả thực thi công tác giảm nghèo bền vững đã ban
hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần nâng cao nhận thức của các
cấp lãnh đạo chính quyền, các hội đoàn thể địa phương từ huyện đến xã đặc
biệt là người dân hiểu rõ về vai trò chính sách công tác xã hội đối với giảm
nghèo bền vững.
Kết quả nghiên cứu đưa ra định hướng chính sách công tác xã hội trong
giảm nghèo bền vững, đem lại hiệu quả thiết thực giúp người nghèo tiếp cận
gần hơn với công tác xã hội và cùng tham gia với nhà nước để đưa các chính
sách công tác xã hội giảm nghèo đi vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày, góp
phần sự phát triển kinh tế của tỉnh.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu và kết luận kiến nghị, tài liệu tham khảo,
phụ lục, nội dung chính của Luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách công tác xã hội trong
giản nghèo bền vững
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách công tác xã hội trong giảm
nghèo bền vững tại tỉnh Ninh Bình
Chương 3: Hoàn thiện chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền
vững

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG TÁC
XÃ HỘI TRONG GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH
NINH BÌNH
1.1. Những vấn đề lý luận về công tác xã hội trong
giảm nghèo bền vững
1.1.1. Khái niệm chính sách công tác xã hội
Theo Từ điển tiếng Việt thì “chính sách” là “sách lược và kế hoạch cụ
thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và
tình hình thực tế mà đề ra”.
Theo tác giải Vũ Cao Đàm thì “chính sách là một tập hợp biện pháp
được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra,
trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ
hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến
lược phát triển của một hệ thống xã hội”. Theo tác giả thì khái niệm “hệ thống
xã hội” được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một
khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường.

Cũng có một định nghĩa khác, “chính sách là chuỗi những hoạt động
mà chính quyền chọn làm hay không làm với tính toán và chủ đích rõ ràng, có
tác động đến người dân”.
Như vậy, phân tích khái niệm “chính sách” thì thấy:
- Chính sách là do một chủ thể quyền lực hoặc chủ thể quản lý đưa ra;
- Chính sách được ban hành căn cứ vào đường lối chính trị chung và
tình hình thực tế.
- Chính sách được ban hành bao giờ cũng nhắm đến một mục đích nhất
định; nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó; chính sách được ban hành
đều có sự tính toán và chủ đích rõ ràng.

9


Đối với đề tài nghiên cứu của Luận văn, khái niệm chính sách ở đây
được hiểu là chính sách công. Hiện nay trên thế giới khái niệm chính sách
công cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Qua nghiên cứu, khái niệm
chính sách công chúng ta chấp nhận được đối với Việt Nam:
" Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
của nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể và giải pháp, công cụ thực hiện
giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định [ 16, 28]
Ở Việt Nam, quy trình chính sách là một quy trình quản lý nhà nước
biểu hiện qua sơ đồ sau

(1) Hoạch
định chính
sách

(2) Tổ chức
triển khai


(5) Điều
chỉnh chính
sách

(3) Phối hợp
thực hiện

(4) Kiểm tra,
giám sát

Như vậy, để một một chính sách "đi vào cuộc sống" và khẳng định
được tính hiệu quả của mình thì chính sách đó cần đảm bảo các yếu tố: Đặt
con người vào vị trí trọng tâm xem con người là nguồn lực quan trọng nhất;
có tính hài hoà, tính thực tiễn, tính hệ thống, tính đồng bộ và phải dựa trên
nhu cầu của người dân.
* Khái niệm công tác xã hội

10


Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm công tác xã hội tuỳ theo
bản sắc văn hoá và định hướng trợ giúp đặc thù của từng quốc gia dân tộc,
vùng miền.
Theo Hiệp hội Quốc gia NVCTXH (NASW): Công tác xã hội là hoạt
động nghề nghiệp giúp đỡ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng để nhằm nâng cao
hay khôi phục tiềm năng của họ để giúp họ thực hiện chức năng xã hội và tạo
ra các điều kiện xã hội phù hợp với các mục tiêu của họ
CTXH tồn tại để cung cấp các dịch vụ xã hội mang tính hiệu quả và
nhân đạo cho cá nhân, gia đình, nhóm, cộng đồng và xã hội giúp họ tăng năng

lực và cải thiện cuộc sống.
Theo tác giả Nguyễn Thị Oanh: Định nghĩa cổ điển: CTXH nhằm giúp
cá nhân và cộng đồng tự giúp. Nó không phải là một hành động ban bố của từ
thiện mà nhằm phát huy sứ mệnh của hệ thống thân chủ (cá nhân, nhóm và
cộng đồng) để họ tự giải quyết vấn đề của mình [19, 15]
Theo Liên đoàn Chuyên nghiệp Xã hội Quốc tế: CTXH chuyên nghiệp
thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tiến trình giải quyết vấn đề trong mối quan hệ con
người, sự tăng quyền lực và giải phóng cho con người, nhằm giúp cho cuộc
sống của họ ngày càng thoải mái và dễ chịu. Vận dụng các lý thuyết về hành
vi con người và các hệ thống xã hội. CTXH can thiệp ở những điểm tương tác
giữa con người và môi trường của họ [19, 16]
Tuy nhiên đối với đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng khái niệm theo đề
án 32 về phát triển nghề công tác xã hội đến năm 2020 của Thủ tướng Chính
phủ: CTXH góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và con
người, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống
của thân chủ xã hội, hướng tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc
cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh xã hội tiên tiến.

11


Từ việc khái quát các định nghĩa về khái niệm chính sách và khái niệm
công tác xã hội cho chúng ta thấy cái nhìn tổng quát chung về khái niệm
chính sách công tác xã hội: Chính sách công tác xã hội là tập hợp các quyết
định của Đảng và Nhà nước nhằm lựa chọn những giải pháp, công cụ để giải
quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và con người, hạn chế phát sinh
các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng
tới một xã hội lành mạnh, công bằng, hạnh phúc, dân chủ và tiên tiến.
1.1.2. Khái niệm giảm nghèo bền vững
* Khái niệm nghèo

Quan niệm về nghèo của từng quốc gia hay từng vùng, từng nhóm dân
cư nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Tiêu chí chung nhất để xác
định nghèo vẫn là mức thu nhập hay chi tiêu để thoả mãn những nhu cầu cơ
bản của con người về ăn, ở, mặc, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại và giao tiếp xã
hội. Sự khác nhau chỉ là thoả mãn ở mức cao hay mức thấp. Điều này tuỳ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của
từng vùng miền, từng quốc gia.
Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia " Nghèo là sự thiếu cơ hội
để có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất
định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân dẫn đến nghèo nàn
thay đổi tuỳ theo địa phương và theo thời gian"
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nghèo được xác định là " nghèo
theo thu nhập. Người nghèo là người có thu nhập hàng năm ít hơn một nửa
mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm của quốc gia"
Định nghĩa của Ngân hàng Thế giới đề cập đến nghèo ở khía cạnh rộng
hơn không chỉ là thiếu thốn về điều kiện vật chất mà còn là những vấn đề

12


khác nhau như giáo dục, sức khoẻ hay khả năng dễ bị tổn thương. Theo tổ
chức này " Nghèo là khái niệm vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất;
nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thi nhập mà còn gồm các vấn đề liên
quan đến năng lực như dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục, khả năng dễ bị tổn
thương, không có quyền phát ngôn hay không có quyền lực"
Tại Việt Nam, theo quan niệm cũ "nghèo là tình trạng một bộ phận dân
cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và
có mức sống ngang bằng với mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi
phương diện". Khái niệm trên cho thấy cách đo lường và đánh giá nghèo chủ
yếu thông qua thu nhập. Chuẩn nghèo được xác định dựa trên mức chi tiêu

đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và được quy thành tiền. Nếu người có thu
nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo thì được đánh giá thuộc diện hộ nghèo. Đây
chính là chuẩn nghèo đơn chiều do Chính phủ quy định. Tuy nhiên, chuẩn
nghèo này của Việt Nam được đánh giá là thấp so với thế giới. Trên thực tế,
nhiều hộ dân thoát nghèo nhưng mức thu nhập vẫn nằm cận chuẩn nghèo, do
đó số lượng hộ cận nghèo vẫn rất lớn, tỷ lệ tái nghèo còn cao, hàng năm cứ 3
hộ thoát nghèo thì lại có 1 hộ trong số đó tái nghèo.
Thực tế cho thấy sử dụng tiêu chí thu nhập để đo lường nghèo đói là
không đầy đủ. Về bản chất, đói nghèo đồng nghĩa với việc bị khước từ các
quyền cơ bản của con người, bị đẩy sang lề xã hội chứ không chỉ là thu nhập
thấp. Có nhiều nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng bằng tiền. Nhiều trường
hợp không nghèo về thu nhập nhưng lại khó tiếp cận được các dịch vụ cơ bản
về y tế, giáo dục, thông tin. Mặc dù một số hộ không có tên trong danh sách
hộ nghèo nhưng lại thiếu thốn các dịch vụ y tế, nước sạch, ở vùng sâu vùng
xa học sinh phải học trong những căn nhà lá đơn sơ, bốn bề gió lùa… Do đó,

13


nếu chỉ dùng thước đo duy nhất dựa trên thu nhập hay chi tiêu sẽ dẫn đến tình
trạng bỏ sót đối tượng nghèo, dẫn đến sự thiếu công bằng, hiệu quả và bền
vững trong thực thi các chính sách giảm nghèo.
Ngày 15/9/2015 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
1614/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận
đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
Chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020 của Việt Nam được xây dựng theo
hướng: sử dụng kết hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản [22, 2]. Theo đó, tiêu chí đo lường nghèo được
xây dựng dựa trên cơ sở: (1) Các tiêu chí về thu nhập, bao gồm: chuẩn mức
sống tối thiểu về thu nhập, chuẩn nghèo về thu nhập, chuẩn mức sống trung

bình về thu nhập. (2) Mức độ thiếu hụt trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ
bản, bao gồm: tiếp cận về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận
thông tin. Nghèo đa chiều là cách tiếp cận mới nhằm hạn chế việc bỏ sót
những đối tượng tuy không nghèo về thu nhập nhưng lại nghèo về các chiều
cạnh khác. Thay vì xem xét nghèo thu nhập, những ai không được khám chữa
bệnh, không được đến trường, không được tiếp cận thông tin cũng được xác
định là nghèo. Cái nghèo gắn liền với sự thiếu thốn thu nhập/chi tiêu mà còn
là việc không được thỏa mãn các nhu cầu cơ bản khác.
Với mục đích tác động tốt hơn, toàn diện hơn đến người nghèo, việc
chuyển đổi đánh giá nghèo từ đơn chiều sang đa chiều nhằm hạn chế việc bỏ
sót những đối tượng tuy không nghèo về thu nhập, nhưng lại nghèo về các
chiều khác. Đây là phương pháp khắc phục những bất cập và hạn chế của
chính sách hiện tại. Phương pháp này giúp bảo đảm mức sống tối thiểu, đồng
thời đáp ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, từng bước giảm nghèo bền vững. Tuy

14


nhiên, song song với việc tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ, gia tăng mức
độ che phủ thì yêu cầu xuyên suốt là phải nâng cao chất lượng các dịch vụ cơ
bản, trong đó có y tế, giáo dục hiện nay.
* Giảm nghèo bền vững
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (tháng 1/2011), Đảng ta đã nêu rõ
quan điểm: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội từ năm
2011 đến năm 2020. Định hướng phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hoá, xã
hội hài hoà với phát triển kinh tế, cụ thể là " Thực hiện có hiệu quả hơn chính
sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và
phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo
nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình

khá trở lên. Có chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế sự phân hoá
giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị"
“Giảm nghèo bền vững” đã được một số nghiên cứu đề cập từ trước
năm 2000. Nhưng đến năm 2008 cụm từ "giảm nghèo bền vững" được sử
dụng chính thức trong văn bản hành chính ở Việt Nam tại Nghị quyết số
30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ
giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo; tiếp đó là Nghị
quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2010 của Chính phủ về Định hướng giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020; Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày
8/10/2012 của TTCP phê duyệt chương trình giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2012-2015 và Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012, Hội nghị
BCH trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn
2012-2020. Tính đến thời điểm này vẫn chưa có một định nghĩa hay khái

15


niệm chính thức về “giảm nghèo bền vững”, nhưng trong các báo cáo như
báo cáo giảm nghèo quốc gia năm 2008, Báo cáo giảm nghèo giai đoạn
2006-2010, báo cáo thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, ... hay các văn
bản hành chính thì tình trạng tái nghèo luôn được xem là “vấn đề cơ bản”
đối với giảm nghèo bền vững.
“Bền vững“ có thể hiểu là ổn định, được duy trì trong thời gian dài, là
vững chắc. Như vậy nên hiểu bền vững là một tiêu chuẩn hay một yêu cầu về
sự “chắc chắn” đối với kết quả giảm nghèo. Mục đích rất rõ ràng của giảm
nghèo bền vững chính là đảm bảo hay duy trì thành quả giảm nghèo một cách
lâu dài, bền vững. Nếu hiểu “bền vững” với nghĩa là có khả năng chống đỡ, là
vững chắc thì giảm nghèo bền vững được hiểu là tình trạng đạt được mức
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản/mức sống/mức thu nhập cao hơn mức chuẩn
(nghèo) và duy trì được mức thỏa mãn những nhu cầu cơ bản/mức sống/mức

thu nhập trên mức chuẩn đó ngay cả khi gặp phải các cú sốc hay rủi ro; Giảm
nghèo bền vững có thể được hiểu với nghĩa đơn giản là thoát nghèo bền vững,
hay không bị tái nghèo.
1.1.2. Lý thuyết tiếp cận trong làm việc với người nghèo
1.1.2.1. Phương pháp ABCD (Assets Based for Community Development)
ABCD là phương pháp nghiên cứu phát triển dựa vào nội lực của cộng
đồng. Các nguyên tắc chính của phương pháp ABCD như sau:
- Đánh giá cao và huy động khả năng, năng lực và năng khiếu của mỗi
thành viên trong cộng đồng và nguồn lực nội tại để phát triển cộng đồng đó.

16


- Phát triển được định hướng bởi chính người dân sinh sống tại cộng
đồng: thôn ấp, làng xã hơn là phát triển do định hướng được khởi xướng từ
bên ngoài (dựa vào sức mạnh của người dân).
Phương pháp này đề cao vai trò của người dân tại cộng đồng trong các
hoạt động phát triển nông thôn. Do vậy, người dân tại địa phương (làng, xã)
cần đổi mới tư duy về kế hoạch phát triển của cộng đồng tự thụ động sang
năng động và tích cực hơn ví dụ: các ý tưởng và hoạt động phát triển nên
được khởi xướng và bắt đầu từ bên trong – từ chính những người trong cộng
đồng và các tổ chức bên ngoài chỉ tư vấn và hỗ trợ khi cần thiết thì sự nghiệp
phát triển nông thôn mới mang lại hiệu quả thiết thực và bền vững.
Các bước thực hiện:
- Xác định cộng đồng: Muốn áp dụng phương pháp ABCD, trước tiên
phải xác định được cộng đồng nơi mà các người lãnh đạo và người dân tại địa
phương (làng/xã) rất muốn áp dụng phương pháp này.
- Tập huấn ban lãnh đạo làng (xã) và người dân về các phương pháp
giúp họ tự khám phá về nội lực và xây dựng phương hướng phát triển cho
chính cộng đồng mà họ đang sống là rất cần thiết.

- Phát triển kế hoạch: Các kế hoạch phát triển là từng bước của một lộ
trình thay đổi hiện trạng thực tế với những nguồn lực hiện có để đạt được
tương lai mong muốn.
Trình tự của việc phát triển kế hoạch thông thường bao gồm các bước sau:
Khai thác nội lực tại cộng đồng -> Vẽ bản đồ các nguồn tài nguyên
trong cộng đồng -> Huy động nội lực để phát triển -> Kế hoạch tự phát triển
-> Các chương trình phát triển bền vững.

17


Áp dụng phương pháp ABCD trong công tác xóa đói giảm nghèo cần
xuất phát từ thực trạng nghèo đói, nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói
của người dân để từ đó xây dựng mục tiêu, kế hoạch để giảm nghèo bền
vững. Vận dụng phương pháp này, các chính sách công tác xã hội được xây
dựng nhằm mục đích phát huy nội lực của cộng đồng: nguồn tài nguyên thiên
nhiên (điều kiện tự nhiên, đất, nước, khí hậu, địa lý…); nguồn lực con người
– đó chính là bản thân người nghèo; Chính sách của địa phương…. Như vậy,
công tác giảm nghèo dựa vào mô hình này sẽ giúp cho công tác giảm nghèo
hiệu quả và bền vững
1.1.2.2. Lý thuyết nhu cầu
Nhu cầu là yếu tố tất yếu, cần thiết để đảm bảo cho sự tồn tại và phát
triển của mỗi cá nhân, nhóm và cộng đồng. Nếu nhu cầu được thoả mãn thì sẽ
tạo nên cảm giác thoải mái và an toàn cho sự phát triển. Ngược lại nếu không
được đáp ứng thì sẽ gây nên sự căng thẳng và có thể dẫn đến những hậu quả
nhất định. Nhu cầu khác với ý muốn. Ý muốn là điều mà ta mong muốn, còn
nhu cầu là cái gì đó mà khi thiếu thì sẽ dẫn đến những hạn chế trong quá trình
phát triển con người. Chính vì vậy mà mục tiêu của công tác xã hội là tăng
cường khả năng hoạt động cá nhân hay tổ chức thông qua đáp ứng nhu cầu của
đối tượng.

Có thể nói người nghèo có những nhu cầu giống như những người bình
thường khác, tuy nhiên do điều kiện kinh tế và đặc điểm tâm lý xã hội của
mình, người nghèo thường có một số nhu cầu cơ bản sau:

18


An toàn

Nhu cầu được chăm sóc y tế

Nhu cầu được tiếp cận thông tin

Nhu cầu được học tập
(Nhu cầu giáo dục)

Nhu cầu có việc làm, thu nhập ổn định
(Nhu cầu vật chất)

- Nhu cầu có việc làm, thu nhập ổn định: Phần lớn lao động là người
nghèo sống ở nông thôn có công việc không ổn định, thu nhập thấp. Do vậy,
họ luôn mong muốn có được công việc, thu nhập ổn. Có công việc, có thu
nhập họ mới có thể trang trải cuộc sống, mới đảm bảo các nhu cầu của cuộc
sống như ăn, ở, mặc, học tập, chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình…
Vì vậy họ rất cần có sự hỗ trợ từ Nhà nước, chính quyền địa phương, xã hội…
giúp họ có được công việc, thu nhập phù hợp.
- Nhu cầu được học tập: Đây là một trong những nhu cầu quan trọng
của người nghèo. Ngoài nhu cầu về học tập phổ thông, người nghèo còn có
nhu cầu được đào tạo nghề, trang bị kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật sản xuất nhất
là sản xuất nông nghiệp.

- Nhu cầu được tiếp cận thông tin: Do những hạn chế về thu nhập thấp,
thường sống ở vùng sâu, vùng xa nên người nghèo thường thiếu thông tin,
chính vì vậy, họ cũng có nhu cầu được tiếp cận các thông tin như: Thông tin
cơ bản về các loại hình thiên tai, hiểm họa tự nhiên, thảm họa, biến đổi khí
hậu; Thông tin, kiến thức và kỹ năng sản xuất, chăm sóc sức khỏe; Thông tin
về kinh tế, chính trị, xã hội; Thông tin về chính sách, pháp luật, thủ tục hành

19


chính và các loại hồ sơ giấy tờ cần thiết để được nhận hỗ trợ, bảo trợ từ Nhà
nước và các tổ chức xã hội…; Nhu cầu hỗ trợ các phương tiện thông tin như
sách, báo, đài radio…
- Nhu cầu được chăm sóc y tế: Đây là nhu cầu có thể nói là rất cần thiết
và được đa số người nghèo quan tâm. Bởi đa số họ, do sống trong điều kiện
thiếu thốn nên dễ ốm đau, bệnh tật, hơn nữa lại thu nhập thấp nên khi mắc
bệnh lại không có tiền để chi trả chi phí khám chữa bệnh. Chính vì vậy họ rất
cần sự trợ giúp của Nhà nước, các tổ chức xã hội… để giúp họ được chăm sóc
y tế.
- Đảm bảo sinh hoạt trong môi trường an toàn, vệ sinh: Phần lớn người
nghèo sống trong tình trạng thiếu thốn mọi mặt cơ sở vật chất thiết yếu cho
cuộc sống. Chính vì vậy họ đều mong muốn được sống, sinh hoạt và sản xuất
trong một môi trường an toàn, đảm bảo những nhu cầu căn bản như nhà ở,
điện, nước sạch và thức ăn hợp vệ sinh để có thể đảm bảo cho sức khỏe, có
khả năng tái sản xuất sức lao động, tránh bị bệnh tật.
1.2. Chính sách công tác xã hội trong giảm nghèo bền vững hiện
nay ở Việt Nam
Giảm nghèo là đòi hỏi cấp bách của toàn nhân loại. Ở nước ta, giảm
nghèo bền vững là một chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước,
giảm nghèo là một cuộc cách mạng sâu sắc, là phong trào quần chúng, nhất là

ở địa phương. Để giảm nghèo, bên cạnh các hệ thống chính sách, các vấn đề
xây dựng nguồn lực, trong đó có nguồn nhân lực từ Trung ương đến địa
phương, từ các nhà hoạch định chính sách đến những người tổ chức thực hiện
ở các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Từ năm
1998 đến nay, Chính phủ đã đưa chương trình xoá đói giảm nghèo thành
Chương trình mục tiêu quốc gia và được đưa vào kế hoạch định kỳ 5 năm của

20


Chính phủ và các địa phương đến nay đã được 4 giai đoạn 1998-2000, 20012005, 2006-2010, 2011-2015.
Các nhóm chính sách, dự án hỗ trợ người nghèo hiện nay ở Việt
Nam được phân chia theo các nhóm sau:
(1) Nhóm các chính sách dự án tạo điều kiện phát triển sản xuất, kinh
doanh: Chính sách tín dụng, ưu đãi, chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho đồng
bào dân tộc thiểu số, các dự án khuyến nông- lâm-ngư nghiệp và hỗ trợ sản
xuất, phát triển ngành nghề, dự án phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu cho các
xã đặc biệt khó khăn, dự án dạy nghề cho người nghèo và dự án nhân rộng mô
hình giảm nghèo.
(2) Nhóm chính sách hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội:
chính sách hỗ trợ y tế, giáo dục, hỗ trợ nhà ở và nước sạch sinh hoạt và chính
sách trợ giúp pháp lý.
(3) Nhóm các dự án nâng cao năng lực và nhận thức như hoạt động đào
tạo cán bộ giảm nghèo và truyền thông, các hoạt động giám sát và đánh giá
các chương trình, dự án giảm nghèo.
Các chính sách công tác xã hội đã ban hành và thực hiện trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình hiện nay:
Nhằm cụ thể hoá Đề án phát triển nghề công tác xã hội, Uỷ ban nhân
dân tỉnh Ninh Bình đã ban hành Kế hoạch số 12/KH-UBND ngày 17/5/2011
về triển khai thực hiện đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 20162020 trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Hàng năm tỉnh ban hành các kế hoạch cụ

thể để triển khai các nội dung của kế hoạch 12.
Hiện nay, Sở Lao động Thương binh và Xã hội đang tham mưu UBND
tỉnh ban hành Đề án phát triển đội ngũ cộng tác viên công tác xã hội cấp xã
triên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2020.

21


×