Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tập trung sự chú ý của học sinh trong giờ học môn ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.63 KB, 5 trang )

SINH HOẠT CHUYÊN ĐỀ TỔ NGỮ VĂN
Tập trung sự chú ý của học sinh trong giờ học môn ngữ văn.
Một thực tế đã và đang diễn ra hiện nay là ở nhiều giờ dạy học nói chung, trong đó có
môn Ngữ Văn, hiện tượng học sinh (HS) không tập trung chú ý vào bài học khá phổ
biến. Thực trạng diễn ra như thế nào? Đâu là nguyên nhân của vấn đề? Làm sao tìm
ra hướng khắc phục nó? Là những giáo viên (GV) đang đứng lớp,chúng tôi băn
khoăn với những câu hỏi ấy, bước đầu chúng tôi tìm hiểu thực tế và đề xuất hương
giải quyết vấn đề qua việc dự giờ của các GV trong tổ bộ môn. . .
1. Thực trạng
1.1. Những biểu hiện của sự không tập trung chú ý của học sinh vào bài học Ngữ
Văn.
Trong tiết học, khi GV thực hiện các công đoạn cho bài giảng, nhiều HS tỏ ra lơ là,
qua một số biểu hiện:
Thứ nhất, hiện tượng HS gục, hoặc nằm dài trên bàn, ngao ngán, uể oải, mong
cho hết giờ (các em thường xem đồng hồ liên tục), ...
Thứ hai, nhiều em lo làm việc riêng như giờ học môn này lại đem bài của môn
học khác ra học (nhất là các môn ngay sau đó thầy cô buộc làm bài tập hoặc có dặn
kiểm tra tiết), … hoặc các em viết những mảnh giấy nhỏ truyền thông tin cho nhau,
… lén lút sử dụng điện thoại di động nhắn tin, nghe nhạc, …, tệ hơn là các em đùa
giỡn, ăn quà vặt, nói chuyện riêng, chơi cờ ca-rô, xin thầy cô ra ngoài lớp, …
Thứ ba, hay mơ màng, nghĩ vẩn vơ chuyện đâu đó, lo ra bên ngoài, hoặc
không hiểu bài nhưng hay phát biểu linh tinh, lời nói chẳng liên quan gì đến bài học,

1.2. Nguyên nhân
1.2.1. Khách quan
Một là,vẫn có hiện tượng do sức khoẻ của một số ít HS không đảm bảo cho
một số tiết học.


Hai là, trường gần đô thị, tiếng ồn từ bên ngoài vọng đến cũng là nguyên nhân
khiến HS khó tập trung chú ý vào bài học


1.2.2. Chủ quan
Về phía HS
Thứ nhất, ở vùng nông thôn sâu, mặt bằng dân trí thấp, HS đa phân là con em
nông dân, thời gian dành cho tự học ở nhà của các em là không nhiều, sách vở tham
khảo hạn chế. Phần lớn các em cố hoàn thành nhiệm vụ của GV giao là chính ít chịu
đào sau suy nghĩ, khả năng tư duy độc lập, sự sáng tạo, … rất ít được chú ý. Từ đó,
khi đến lớp các em tỏ ra ngao ngán, không cần và cũng rất khó theo kịp kiến thức bài
học từ các văn bản văn học Việt Nam trung đại, Thơ Mới (1932 – 1945), …, các khái
niệm lý luận văn học, các thuật ngữ của phân môn tiếng Việt, làm văn, …
Thứ hai, chữ viết, cách dùng từ, đặt câu ở cấp học dưới ít được các em chú
tâm rèn luyện, khả năng diễn đạt còn ngô nghê, chưa lưu loát, thông đạt, … dẫn đến
các em không hứng thú đối với môn học Ngữ Văn.
Thứ ba, nhiều em có điều kiện mua sách tham khảo, sách để học tốt để “đối
phó” và “tự tin” cho rằng kiến thức bài học đó mình đã biết và đủ để “trả bài” cho
GV, nên không cần quan tâm, ỷ lại, …, đây là dạng HS học đối phó, kiếm điểm chứ
không ham muốn tìm hiểu tường tận vấn đề một cách khoa học.
Về phía GV
Một là, không ổn định được lớp học, không thu hút được HS, khả năng quan
sát và ứng xử các tình huống sư phạm hạn chế, …
Hai là, kiến thức GV còn những hạn chế nhất định, không làm chủ được các
khái niệm, không phân tích đánh giá nhận xét được các bài tập, hiện tượng GV “trả
bài” cho HS từ sách giáo viên, sách tham khảo còn diễn ra dẫn tới việc HS nhàm
chán, ức chế,
Thứ ba, phương pháp mà GV áp dụng để triển khai cho bài học vẫn theo lói
sáo mòn, chủ yếu là diễn giảng, đàm thoại, đến lớp chỉ thuần là bảng đen, phấn trắng,
…, tổ chức cho HS học hợp tác còn nặng về hình thức, thiếu chiều sâu, …, chưa thực
sự lấy hoạt động của HS làm trung tâm.


Từ thực trạng và những nguyên nhân mà chúng tôi vừa tìm hiểu, phân tích, chúng tôi

đề xuất một số vấn đề sau đây.
2. Một số biện pháp nhằm tập tập trung sự chú ý của học sinh vào bài học Ngữ
Văn
2.1. Cơ sở lý luận
Theo nghĩa từ điển chú ý làm tập trung hết tâm trí vào một vấn đề. Trong công việc
hàng ngày, trong học tập, chú ý có vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định đến sự
thành công hay thất bại của công việc. Mất tập trung, thiếu sự chú ý rất dễ rơi vào
tình trạng bị động, đưa đẫn không có khả tiếp thu bài, khả năng ứng xử và thực hiện
công việc không đạt được yêu cầu đề ra.
Tâm lý giáo dục cho rằng lứa tuổi vị thành niên, đặc biệt là ở HS trung học
hiện tượng hay mơ màng, nghỉ chuyện vẩn vơ, thích chứng minh mình là “người
lớn”, … Và như vậy, khả năng tập trung sự chú ý vào bài học của các em ít nhiều bị
ảnh hưởng. Nhưng cũng từ đó, GV hiểu được tâm lý của các em, có những biện pháp
đúng đắn thì sẽ khơi gợi được động lực mạnh mẽ để các em đến với bài học đạt hiệu
quả cao nhất
2.2. Biện pháp thực hiện
Để thu hút được sự chú ý tự nguyện của HS vào giờ học Ngữ Văn, chúng tôi nhận
thấy nên quan tâm với ba cách thức sau:
2.2.1.Thay dần giáo án truyền thống bằng giáo án điện tử PPt
P.GS, T.S. Lê Phước Lộc trong công trình Tính sư phạm cho một bài giảng bằng
Powerpoint cho rằng:Mỗi bài giảng, thậm chí mỗi trang trình chiếu đều có sự hướng
đích khác nhau, thể hiện ở sự bố trí thông tin, bố cục, màu sắc… Tuy nhiên, mọi
hướng đích đều hướng tới việc chuyển tải được thông tin một cách có hiệu quả và
thuyết phục người nghe. Vì vậy, thu hút sự chú ý có nghĩa là làm cho HS phải theo
dõi bài giảng một cách tự nguyện. Đó cũng là là nghệ thuật sư phạm của người giảng
và người thiết kế các trang trình chiếu. Vấn đề áp dụng giáo án điện tử cho giờ dạy
Ngữ Văn là cần thiết, nó đạt được hiệu quả nhiểu mặt, trong đó với những hình ảnh


sinh động, clip phim, giọng ngâm, giọng đọc thật của các tác giả văn bản, … vừa

thuyết phúc HS vừa thu hút sự thu hút sự chú ý tự nguyện của các em.
Thứ nhất, thay vì GV phải có lời giới thiệu khi vào bài mới như dạy Tuyên
ngôn độc lập (Hồ Chí Minh) chẳng hạn, giáo án PPt có thể chiếu cho HS xem một
đoạn phim về cảnh Bác đọc bản Tuyên ngôn tại vườn hoa Ba Đình, …
Thứ hai, dành một trang nêu tên bài học (sau mở đầu) cùng các đề mục (dàn
bài) và cũng nên giới thiệu sơ qua các phần đó đề cập đến vấn đề gì, HS sẽ dễ dàng
có một cái nhìn tổng quát về bài giảng, gây tâm lí chờ đợi những thông tin thú vị phía
sau. [4; 3]
Thứ ba, mỗi nội dung nhỏ (mục) cần có “điểm nhấn” hấp dẫn. Ví dụ khai
thác hình ảnh “nhớ rừng núi Tây Bắc” trong văn bản Tây Tiến (Quang Dũng), GV
cho HS nghe gọng ngâm thơ, xem một số hình ảnh về cảnh núi rừng hiểm trở, …
nhấn mạnh tình huống “nhặt vợ” (Vợ nhặt – Kim Lân) cho HS xem một đoạn ngắn
phim Sao tháng Tám, … Giáo án PPt cũng phát huy rất tốt hiệu quả khi GV cho HS
học hợp tác.
Thứ tư, cần tránh trong dạy học bằng các trang trình chiếu, nhất là đối với
những người mới sử dụng PPt lần đầu là: Sự lạm dụng màu hoặc lạm dụng các effect
sẽ có thể tập trung được sự chú ý của HS, song sự chú ý đó lại không hướng vào nội
dung bài học mà là vào sự sặc sỡ của màn hình, vào những sự “nhảy múa” đủ kiểu
của chữ và hình trong trang trình chiếu. Có nghĩa là, HS vẫn chú ý, vẫn thích thú bài
học (nhưng chỉ với các hiệu ứng) mà khi kết thúc giờ học thì bài học cũng biến mất
trong trong đầu các em. Điều này thật dễ hiểu đối với tâm lí của HS [5; 3]
2.2.2.Đổi mới phương pháp: lấy HS làm trung tâm một cách có hiệu quả
Bên cạnh một số phương pháp truyền thống còn phát huy hiệu qua, GV cho HS tiếp
cận kiến thức bằng cách HS phải làm việc. Lý luận dạy học hiện đại chỉ ra rằng chỉ có
học hợp tác, các em được chia ra thành từng nhóm, thảo luận vấn đề mà GV đặt ra, có
tranh luận, phản bác, … thì các em mới tập trung sự chú ý rèn luyện năng lực tư duy,
kĩ năng giao tiếp và tinh thần hợp tác tốt lên hơn.


Để làm được vấn đề này, GV phải xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lý, khoa học từ đơn

vị bài học, GV xác định mục tiêu cần đạt, căn cứ vào lượng thời gian cho phép và
trình độ HS mà mình đang giảng dạy để thực hiện. T.S Nguyễn Thị Hồng Nam, trong
Đổi mớiphương pháp dạy học Ngữ Văn, Tài liệu giảng Bồi dưỡng thay sách giáo
khoa,năm 2006,chỉ ra hệ thống câu hỏi mà GV khi thiết kế cho HS cần phải chú ý là:
2.2.3.Phong cách GV
Khi bước vào lớp, từ trang phục đứng đắn bên ngoài đến giọng nói chuẩn, rõ ràng, đủ
âm lượng cho cả lớp nghe, chữ viết phải rõ, đẹp, … bước đầu GV đã thu hút được sự
tập trung của các em. Từ đây, GV sẽ có lợi thế lớn để triển khai các công việc của tiết
học.
GV Ngữ Văn còn cần phải biết ngâm (đọc diễn cảm) các tác phẩm văn học. Thể hiện
sự hiểu biết của mình ở các lĩnh vực khoa học xã hội, chuyện thời sự, … những thông
tin cập nhật ấy đôi lúc làm cho HS vững tin hơn, “muốn khám phá” ở thầy nhiều hơn,

GV phải quan sát bao quát lớp trong giờ giảng. Ứng xử các tình huống theo đúng
phong cách sư phạm, hợp tình, hợp lý. Trong suốt thời gian của tiết học, không phải
lúc nào giáo viên cũng “bám” bục giảng, “ôm” giáo án mà thiếu sự gần gũi thân mật
với HS, đặc biệt các em ngồi ở các dãy bàn xa, …
3. Kết luận
- Tập trung, chú ý tự nguyện của HS vào bài là một phần quan trọng quyết định chất
lượng, hiệu quả giờ dạy của giáo viên nói chung trong đó có giáo viên Ngữ Văn.
- Để tập trung được sự chú ý của các em, GV Ngữ Văn phải luôn luôn không ngừng,
tự học, sáng tạo, làm chủ kiến thức, tiếp cận khoa học biến nói thành kỹ năng sư
phạm biến mỗi giờ dạy thành một “sản phẩm nghệ thuật” mà HS và GV là diễn viên
chuyên nghiệp có tay nghề cao.
- Đây là vấn đề thú vị, chúng tôi hy vọng sẽ đề cập trong một chuyên đề chuyên sâu
khác.




×