Tải bản đầy đủ (.pptx) (16 trang)

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng để vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 16 trang )

THẢO LUẬN

MÔN: TRIẾT HỌC

GIẢNG VIÊN: TS. ĐINH THANH XUÂN
NHÓM: HÓA HỌC


Đề tài : Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cái chung
và cái riêng để vận dụng vào thực tiễn xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
NỘI DUNG
I Khái niệm về cặp phạm trù cơ bản của triết học-cái riêng và cái chung
II Mối quan hệ giữa cái chung, cái riêng, cái đơn nhất
III Ý nghĩa phương pháp luận về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng
IV Vận dụng mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung trong việc xây dựng nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
V Kết luận


I Khái niệm về cặp phạm trù cơ bản của triết học-cái
riêng và cái chung
“Cái riêng” là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật,
một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.

“Cái chung” là phạm trù được dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu
vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự
vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
”Cái đơn nhất” là phạm trù được dùng để chỉ những nét,
những mặt, những thuộc tính…chỉ có ở một kết cấu vật


chất nhất định và không được lặp lại ở bất cứ một kết cấu
vật chất nào khác.


Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái
chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan, giữa
chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau.


II Mối quan hệ giữa cái chung, cái riêng, cái đơn nhất
► Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.

Ví dụ: Không có con “động vật” chung tồn tại bên cạnh con trâu, con bò, con gà cụ
thể. Trong bất cứ con trâu, con bò, con gà riêng lẻ nào cũng đều bao hàm trong nó
thuộc tính chung của động vật, đó là quá trình trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi
trường.


► Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái
riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.

Ví dụ: Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài mối
liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy
luật sinh học và quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người.


► Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận
nhưng sâu sắc hơn cái riêng.


Ví dụ: Nguyên tử của mọi nguyên tố đều khác nhau, đều là cái riêng, chúng có khối
lượng nguyên tử của mình, có hóa trị riêng của mình, có điện tích hạt nhân của mình,
có cấu tạo vỏ nguyên tử của mình…Nhưng tất cả mọi nguyên tử đều có cái chung:
trong mọi nguyên tử đều có hạt nhân, vỏ điện tử, đều có những hạt nguyên tố…


► Thứ tư, cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát
triển của sự vật.

Ví dụ: Quy luật cung – cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong toàn
bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho nền kinh
tế thị trường mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình thức khác như kinh tế tự
cung tự cấp chẳng hạn.


III Ý nghĩa phương pháp luận về mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng

“Cái chung” và “cái riêng” thống nhất với nhau, nên trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn, chúng ta phải biết phát hiện “cái chung” và cá biệt hoá “cái chung khi áp
dụng vào “cái riêng”chứ không thể xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người. Nếu
không sẽ rơi vào sai lầm của người tả khuynh, giáo điều. Ngược lại, nếu chỉ chú ý
đến “cái đơn nhất”, sẽ rơi vào sai lầm của người hữu khuynh, xét lại. Để giải quyết
những vấn đề riêng một cách có hiệu quả phải giải quyết những vấn đề chung- những
vấn đề lý luận liên quan với các vấn đề riêng đó. Nếu không, sẽ sa vào tình trạng mò
mẫm, tuỳ tiện, kinh nghiệm chủ nghĩa.


Giữa “cái chung” và “cái đơn nhất” có sự chuyển hoá lẫn nhau. Nên trong hoạt động
thực tiễn cần phải tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển hoá “cái đơn nhất” tiến bộ

thành “cái chung” và biến “cái chung” lạc hậu thành “cái đơn nhất” nếu sự tồn tại
của “cái chung” không còn là điều ta mong muốn.


IV Vận dụng mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung
trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường là một nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao.Khi chuyển
sang cơ chế thị trường, cũng như các nước khác, nền kinh tế nước ta chịu sự tác động
của cơ chế thị trường với hệ thống các quy luật: quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh…, xuất hiện mối quan hệ hàng hoá tiền tệ,…

Nền kinh tế thị trường nước ta cũng có những khuyết tật của nền kinh tế thị trường
nói chung làm cho nền kinh tế phát triển mất cân đối, gây khủng hoảng, phân cực
giàu nghèo quá mức, sử dụng cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường….Bên
cạnh những đặc điểm chung đó, nền kinh tế thị trường nước ta còn có những đặc
điểm riêng.


●Một là: Tạo điều kiện cho sự ra đời và phải phát triển đồng bộ các loại thị
trường như thị trường vốn, thị trường hàng hoá, thị trường lao động. Phải tôn
trọng các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cung cầu,
quy luật cạnh tranh. Cần tiếp thu những kinh nghiệm quý, những mặt tích cực
của nền kinh tế dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân dưới sự quản lý của Nhà nước tư
sản, mặt khác cần nghiên cứu kỹ những mặt hạn chế của nó từ đó lấy kinh
nghiệm để giải quyết những vấn đề chung của nền kinh tế thị trường.

●Hai là: Đa dạng hoá các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo. Có cơ chế, chính sách phù hợp, mô hình tổ chức đúng đắn, chọn
đúng những cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất để thành phần kinh tế Nhà
nước thực sự phát huy vai trò kinh tế chủ đạo của mình. Tuy nhiên, điều này

không có nghĩa là thành phần được ưu tiên ưu đãi được hưởng mọi “đặc ân” mà
phải có sự cân đối về quyền lợi kinh tế giữa các thành phần kinh tế từng bước
tránh tình trạng độc quyền.


●Ba là: Tôn trọng quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Vận dụng tốt phương thức phân phối
theo lao động kết hợp với phân phối theo các nhân tố sản xuất khác như vốn, tài
sản,…Đây là động lực kích thích đối với mọi cá nhân và tập thể trong nền kinh tế
thị trường. Chính phương thức phân phối này là nhân tố quan trọng cho phép huy
động tối đa mọi nguồn lực.

●Bốn là: Xây dựng một nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, ổn định về chính
trị. Đây là tác nhân quan trọng bảo đảm tính thống nhất trong dịnh hướng, bảo đảm
công bằng xã hội, đưa nền kinh tế quốc dân phát triển vững mạnh theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường nước ta là nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, tức là không chỉ quan tâm đến việc phát triển kinh tế mà còn quan
tâm giải quyết các vấn đề xã hội, nền kinh tế thị trường chỉ là phương tiện, biện
pháp để xây dựng thành công CNXH ở nước ta.


●Năm là: Chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới trên nguyên tắc
hoà nhập nhưng không hoà tan, vừa bảo vệ độc lập dân tộc vừa tận dụng sức mạnh
của nền kinh tế thế giới và hợp tác quốc tế, đảm bảo xây dựng một xã hội dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh, xây dựng một nền văn hoá tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

●Sáu là: Khi xây dựng nền kinh tế thị trường cần tránh khuynh hướng tuyệt đối
hoá kinh tế thị trường coi thường vai trò quản lý của nhà nước hay khuynh hướng
quá nhấn mạnh đến các đặc điểm riêng của nước ta mà xa rời các đặc điểm chung
của nền kinh tế thị trường thế giới.



V Kết luận
Cái chung và cái riêng là một cặp phạm trù cơ bản của triết học duy vật biện
chứng. Cặp phạm trù này đã góp phần trang bị cho chúng ta một phương pháp
luận duy vật biện chứng vận dụng vào thực tế.




×