Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận về bình đẳng giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.01 KB, 23 trang )

NHÓM 5
Đề tài: xây dựng hệ thống các tiêu chí đánh giá về vấn đề bình đẳng giới trong chính sách
xã hội (khái niệm bình đẳng giới, các tiêu chí đo lường, mức độ bình đẳng giới trong chính
sách xã hội của các tác giả quốc tế, nguồn, tiêu chí nào tự xây dựng, vì sao?)
.
I.
Tổng quan về giới, bình đẳng giới
I.1. Theo luật Bình đẳng giới ở Việt Nam 2006
Điều 4. Mục tiêu bình đẳng giới
Mục tiêu bình đẳng giới là xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đẳng giới thực chất
giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và gia đình.
Điều 5 luật này quy định cách hiểu các khái niệm liên quan đến bình đẳng giới như sau:
1. Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
2. Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
3. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát
huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về
thành quả của sự phát triển đó.
4. Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò
và năng lực của nam hoặc nữ.
5. Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai
trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình.
6. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới là biện pháp nhằm bảo đảm bình đẳng giới thực chất, do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành trong trường hợp có sự chênh lệch lớn giữa nam và nữ
về vị trí, vai trò, điều kiện, cơ hội phát huy năng lực và thụ hưởng thành quả của sự phát triển mà
việc áp dụng các quy định như nhau giữa nam và nữ không làm giảm được sự chênh lệch này.
Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới được thực hiện trong một thời gian nhất định và chấm dứt khi
mục đích bình đẳng giới đã đạt được.
7. Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là biện pháp


nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định vấn đề giới, dự báo tác động giới
của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong các quan hệ xã hội được văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.
8. Hoạt động bình đẳng giới là hoạt động do cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân thực hiện nhằm
đạt mục tiêu bình đẳng giới.
9. Chỉ số phát triển giới (GDI) là số liệu tổng hợp phản ánh thực trạng bình đẳng giới, được tính
trên cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và thu nhập bình quân đầu người của nam và nữ.
I.2 Các quan điểm khác
1. Giới


Theo Luật Bình đẳng giới của Ủy Ban Châu Âu
Giới là một phạm trù chỉ mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ. Đó là các mối quan
hệ giữa phụ nữ và nam giới trưởng thành, trẻ em trai và trẻ em gái, và cách mà
các đặc tính xã hội hình thành. Vai trò giới ngày càng đa dạng và thay đổi theo
thời gian.
Như vậy giới là một phạm trù chỉ vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ.
Nói đến mối quan hệ giới là nói đến cách thức phân định xã hội giữa nam giới và
phụ nữ, liên quan đến hàng loạt các vấn đề thuộc về thể chế xã hội chứ không
phải mối quan hệ cá biệt giữa một nam giới hay phụ nữ nào đó.
2. Giới tính
Là sự khác biệt về mặt sinh học giữa nam giới và phụ nữ, là các đặc điểm đồng
nhất mà khi sinh ra chúng ta đã có.
3. Các vai trò của giới (gender roles)
Theo Luật bình đẳng giới của Ủy ban châu âu, vai trò giới là những ứng xử học
được trong một xã hội, cộng đồng, hoặc các tổ chức đặc biệt khác, với điều kiện
các hoạt động và trách nhiệm được thể hiện bởi nam và nữ
Theo FAO, vai trò giới là những hành vi, nhiệm vụ và trách nhiệm mà xã hội cân
nhắc chấp nhận được đối với nam và nữ.Là những hành vi ứng xử mà xã hội
mong đợi ở nam giới và phụ nữ.

4. Các mối quan hệ giới
Theo FAO, quan hệ giới là cách thức mà xã hội xác định quyền, trách nhiệm và
các đặc tính của nam và nữ trong mối quan hệ giữa nam và nữ.
Mọi người trong xã hội thường chấp nhận và coi thứ bậc về giới là lẽ tự nhiên,
nhưng thực chất đây là các mối quan hệ xã hội dựa trên các đặc điểm về văn hóa
và có thể thay đổi theo thời gian.
5. Bình đẳng giới
Theo Luật bình đẳng giới của Ủy ban châu Âu, bình đẳng giới là việc không phân
biệt đối xử theo giới tính trong cơ hội và phân chia nguồn lực hay lợi ích hoặc tiếp
cận các dịch vụ xã hội.
Như vậy, có thể hiều bình đẳng giối là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các
đặc điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới.
Nam giới và phụ nữ cùng có vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau:
- Có điều kiện bình đẳng để phát huy hết khả năng và thực hiện các mong
muốn của mình.
- Có cơ hội bình đẳng để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực
xã hội và quá trình phát triển xã hội.
- Được hưởng tự do và chất lượng của cuộc sống bình đẳng.
- Được hưởng thành quả bình đẳng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
6.Công bẳng giới
Theo FAO, công bằng giới là việc đối xử không thiên vị, công bằng về quyền,
nghĩa vụ, lợi ích và cơ hội của nam và nữ.
Theo luật bình đẳng giới của Ủy ban châu Âu, Công bằng giới là việc thừa nhận
có tính pháp lý về tính công bằng trong việc phân phối lợi ích và trách nhiệm giữa


phụ nữ và nam giới. Khái niệm này công nhận rằng phụ nữ và nam giới có nhu
cầu khác nhau, năng lực khác nhau do đó có sự cần phải tôn trọng những đặc
điểm này và điểu chỉnh sao cho không thiên vị.
7. Phân tích giới (gender analysis)

Là phương pháp thu thập và xử lý thông tin về bình đẳng giới. phân tích giới được
tiến hành thông qua các công cụ đa dạng và lý thuyết được nghiên cứu.
Phân tích giới dựa trên việc nghiên cứu vài trò khác nhau của nam và nữ, từ đó
hiểu được họ làm những gì, nguồn lực họ có và nhu cầu, mong muốn của họ.
8. Lồng ghép giới (gender mainstreming)
Là sự hợp lại thành một thể thống nhất các vấn đề giới trong tất cả chính sách với
quan điểm xúc tiến bình đẳng giữa nam và nữ.
Là các chiến lược mang tính toàn cầu để thúc đẩy bình đẳng giới.

II. Sơ lược Tiến trình xây dựng và phát triển các chỉ số bình đẳng giới trên thế giới
Nguồn: />a. Mối liên hệ giữa các chỉ số bình đẳng giới và vấn đề bình đẳng giới.
Các chỉ số nhạy cảm giới (gender sensitive indicators) cung cấp sự phát triển và đánh giá
chương trình và chính sách được thiết kế để đạt được mức độ bình đẳng giới cao hơn
trong bối cảnh phân tích nhạy cảm giới và lồng ghép giới, đây là sự khởi đầu cho các
chương trình chính sách và ngân sách.
“Chỉ số giới tính có khả năng làm cho chúng ta biết chúng ta đang đứng ở đâu và chúng
ta muốn đi tới đâu với sự tôn trọng các giá trị và mục tiêu, và đánh giá một cách rõ ràng
chương trình và mục tiêu của nó.
Sự hữu dụng của các chỉ số giới nằm ở việc chúng có khả năng chỉ ra những sự thay đổi
trong địa vị và vai trò của phụ nữ và nam giới qua thời gian, do đó để đo lường xem bình
đẳng giới đang đạt tới đâu.”
(Theo Cơ quan phát triển quốc tế Canada 1997)
*Thêm các lý do tại sao các chỉ số là quan trọng:
- “chính sách mà không nhận ra sự khác biệt và bất bình đẳng của phụ nữ trong xã hội có
xu hướng làm gia tăng thêm sự bất công, bất bình đẳng. Các thống kê về giới và các chỉ số đóng
vai trò cần thiết trong việc loại bỏ sự mù giới trong xây dựng chính sách.
Các thống kê và các chỉ số phản ánh tình trạng phụ nữ và nam giới ở mọi mặt của xã hội là một
công cụ quan trọng trong thúc đẩy bình đẳng giới.
Các thống kê về giới “nâng cao ý thức và cung cấp một động lực cho sự thay đổi, để cung cấp
một nền tảng cho các chính sách, chương trình, dự án và giám sát, đánh giá các biện pháp và

chính sách."
(Hedman, Perucci và Sundström 1996: 9).
a. Giới thiệu về các chỉ số nhạy cảm giới
Chỉ số nhạy cảm giới giải thích các thay đổi trong quan hệ giới tính trong một xã hội
nhất định trong một khoảng thời gian. Chúng được sử dụng để đánh giá sự tiến bộ
trong việc đạt được bình đẳng giới bằng cách đo những thay đổi trong tình trạng của


phụ nữ và nam giới trong một khoảng thời gian. Chỉ số nhạy cảm giới có thể được sử
dụng như một công cụ để đánh giá sự tiến bộ của một can thiệp phát triển cụ thể
hướng tới đạt được bình đẳng giới cao hơn.
c. Giới thiệu về phân tích giới (gender analysis)
Phân tích về giới là một phương pháp có hệ thống để đảm bảo rằng các cân nhắc giới hình thành
một phần của việc thực hiện hoạch định chính sách. Mục đích của nó là rộng hơn so với cơ hội
bình đẳng, với một một mục tiêu tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong những nơi mà họ
đang thiếu đại diện. Ngược lại, mục đích đằng sau phân tích giới là để thu hút sự chú tâm về giới
trong xây dựng chính sách.
Phân tích giới là điều cần thiết trong việc phát triển và sử dụng các chỉ số giới có hiệu quả. Phân
tích giúp khung câu hỏi chính sách quan trọng về vai trò của nam giới và phụ nữ và mối quan hệ
giữa chúng. Mục đích của phân tích như vậy là để xây dựng và phát triển các biện pháp can thiệp
tốt hơn nhắm mục tiêu để đáp ứng nhu cầu và khó khăn của cả nam giới và phụ nữ.
Phân tích giới đề cập đến sự đa dạng của các phương pháp sử dụng để hiểu mối quan hệ giữa
nam và nữ, sự so sánh tương đối cách họ tiếp cận các nguồn lực, các hoạt động của họ, và các
khó khăn mà họ phải đối mặt. Phân tích giới cung cấp thông tin mới nhận ra rằng giới tính, và
mối quan hệ của nó với chủng tộc, dân tộc, văn hóa, tầng lớp, tuổi tác, khuyết tật, và / hoặc tình
trạng khác, là rất quan trọng trong việc tìm hiểu các mô hình khác nhau của hành vi, sự tham gia
và các hoạt động mà phụ nữ và nam giới theo cấu trúc kinh tế, xã hội và pháp lý.
Phân tích các tình trạng khác nhau của nam giới và phụ nữ có thể cung cấp sự hiểu biết về các
tác động khác nhau mà luật pháp, tập quán văn hóa, chính sách, và các chương trình có thể có về
phụ nữ và nam giới.

Hedman, Perucci và Sundström (1996) nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển thống kê và các
chỉ số trên cơ sở của một phân tích về các vấn đề và câu hỏi chính sách mà các nhà hoạch định
chính sách và những người khác đã xác định là mục tiêu quan trọng trong quá trình cải thiện tình
hình của phụ nữ và nam giới. Đối với việc thu thập dữ liệu, điều này có nghĩa rằng việc sản xuất
các số liệu thống kê giới đòi hỏi không chỉ tất cả các dữ liệu chính thức được thu thập theo giới
tính, mà còn khái niệm và phương pháp được sử dụng trong việc thu thập dữ liệu và trình bày
phản ánh đầy đủ các vấn đề giới trong xã hội '(Hedman, Perucci và Sundström 1996 : 42)
Một số quan niệm và phương pháp quan trọng có tính chất định hướng sự phát triển, lựa chọn và
áp dụng các chỉ số giới tính và dữ liệu mà chúng cho biết. Bao gồm:
-

Chỉ số giới tính cần có nguyên tắc xác định rõ ràng về các khái niệm, định
nghĩa, cách xác định và phân loại.

Khái niệm thông thường và phương pháp được sử dụng trong thu thập dữ liệu thường
không đủ để phản ánh thực tế của phụ nữ và nam giới.
Chỉ số giới tính cần được kết nối với các mục tiêu chính sách.
Chỉ số giới tính cần để có thể theo dõi sự tiến triển theo thời gian.
Giới Tính-phân tách dữ liệu cần phải có một chất lượng cao.
Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada (CIDA 2000) lập luận rằng phân tích giới là một thành
phần thiết yếu của hoạch định chính sách.


Phân tích giới cung cấp thông tin để hiểu phụ nữ và nam giới tiếp cận và kiểm soát các nguồn tài
nguyên có thể được sử dụng để giải quyết sự bất bình đẳng, thách thức hệ thống bất bình đẳng
(thường xuyên nhất đối với phụ nữ), và xây dựng các giải pháp hiệu quả và công bằng. Các
thông tin thu thập được trong giai đoạn nghiên cứu phân tích làm cho sự khác biệt giữa phụ nữ
và nam giới rõ ràng (bằng cách sử dụng dữ liệu phân tách theo giới tính) để có chính sách,
chương trình và dự án có thể xây dựng các hành động hiệu quả, thúc đẩy bình đẳng. Kể từ khi
mối quan hệ giới sẽ thay đổi trong mỗi bối cảnh và theo thời gian, một phân tích giới nên được

thực hiện trong mỗi sáng kiến phát triển.
Phân tích giới cũng có thể cung cấp những hiểu biết về việc làm thế nào có thể thúc đẩy bình
đẳng giới trong nỗ lực phát triển bền vững để đảm bảo hiệu quả tối đa trong việc theo đuổi các
mục tiêu phát triển. Để có hiệu quả nhất, nó phải là một phần của mỗi bước của một sáng kiến
phát triển: từ quan niệm và thiết kế để thực hiện và đánh giá. Là một phần của quá trình này,
phân tích giới đã dẫn đến những thay đổi trong chiến lược hợp tác phát triển mà trước đó không
đáp ứng các nhu cầu của phụ nữ.
Văn phòng Phụ nữ Canada (Hội Phụ nữ Canada 1997) đã xác định được tầm quan trọng của việc
áp dụng một phân tích giới cho sự phát triển của các chỉ số giới tính và ngược lại:
Phân tích giới là việc thu thập thông tin phân tách theo giới tính đáng tin cậy về lĩnh vực nghiên
cứu chính sách, và các xu hướng hiểu biết giới trong nền kinh tế mà có thể có tác động đến đề
xuất một chương trình, chính sách hay mảng pháp luật. Nó cho phép chúng ta xây dựng một mô
hình tốt hơn những tác động của một chính sách bằng cách nhìn vào tác động tiềm năng của nó
đối với phụ nữ và nam giới. Nó được sử dụng tốt hơn trong việc thảo luận ra quyết định ngay từ
đầu để tiết kiệm thời gian và tiền bạc sau này.
Có một số quốc gia sử dụng phân tích giới trên toàn thế giới bao gồm Chính phủ New Zealand
và Na Uy và Liên Hiệp Quốc, Ngân hàng Thế giới, và Tổ chức Lao động Quốc tế đã ban hành
hướng dẫn hoặc báo cáo phân tích giới. Trong Kế hoạch Liên bang về bình đẳng giới (1995),
Chính phủ Canada cam kết đảm bảo rằng tất cả các luật và các chính sách trong tương lai đều
cân nhắc các phân tích về tiềm năng cho các tác động khác nhau đối với phụ nữ và nam giới. Ở
cấp địa phương, Chính phủ của British Columbia yêu cầu đệ trình nội các để lưu trữ các phân
tích giới, và đã phát hành hướng dẫn phân tích giới.
Về lồng ghép giới
Sự phát triển của một chương trình của các chỉ số giới tốt nhất có thể được khái niệm hóa như là
một thành phần thiết yếu và không thể thiếu của một chiến lược lồng ghép giới. Lồng ghép giới
nhằm mục đích để làm cho 'bình đẳng giới ... một phần trung tâm của tất cả ... can thiệp phát
triển, bao gồm cả phân tích, tư vấn chính sách, vận động chính sách, pháp luật, nghiên cứu và lập
kế hoạch, thực hiện, giám sát và đánh giá các chương trình, dự án ODA (FAO 2001 ).
Năm 1995, tại Liên hợp quốc Hội nghị thế giới lần thứ tư về phụ nữ, một nền tảng toàn cầu hành
động đã được thông qua, và Liên Hiệp Quốc thông qua các khái niệm về lồng ghép giới như một

chiến lược để thúc đẩy bình đẳng giới. Lồng ghép giới đã được xác nhận bởi Liên Hiệp Quốc và
đã là cách tiếp cận chính sách thống trị trong EU.
Lồng ghép vấn đề liên quan đến việc đảm bảo rằng quan điểm giới tính và quan tâm đến mục
tiêu về bình đẳng giới là trung tâm cho tất cả các hoạt động bao gồm cả phát triển chính sách,
nghiên cứu, vận động chính sách / đối thoại, pháp luật, phân bổ nguồn lực và lập kế hoạch, thực
hiện và giám sát các chương trình, dự án. Lồng ghép giới đảm bảo rằng cả phụ nữ và nam giới


quan tâm và kinh nghiệm là không thể thiếu, thiết kế, giám sát, thực hiện và đánh giá tất cả các
pháp luật, chính sách và các chương trình để cả hai lợi ích bình đẳng và bất bình đẳng không tồn.
Sự phát triển của nhiều chỉ số phân tách theo giới tính tinh vi là một thành phần trung tâm của
bất kỳ chiến lược lồng ghép giới. Các cơ quan quốc tế đặc biệt đã công nhận vai trò quan trọng
của thông tin tốt hơn về sự khác biệt giới tính thông qua các dữ liệu phân tách theo giới và
nghiên cứu để giới thiệu thành công lồng ghép giới vào chính sách và phục vụ như là một tiêu
chuẩn của sự tiến bộ (Breitenbach và Galligan, 2004: 83).
Bài học quốc tế
Một loạt các tổ chức quốc tế đã thực hiện công việc đáng kể vào việc phát triển và ứng dụng các
chỉ số giới:








Liên Hiệp Quốc đã phát triển một Chương trình thống kê Giới TínhThuế quan phổ cập
(GSP) cho các quốc gia Ả Rập nhằm mục đích tăng cường năng lực quốc gia trong việc sử
dụng, sản xuất và phổ biến số liệu thống kê giới để dẫn đến chính sách hiệu quả hơn thúc đẩy
thay đổi vì lợi ích của phụ nữ và sự tiến bộ của xã hội như một toàn thể. Từ năm 1997 GSP

hoạt động đã bắt đầu trên cả cấp độ khu vực và quốc gia trong mười hai quốc gia Ả Rập:
Algeria, Bahrain, Ai Cập, Jordan, Lebanon, Morocco, Oman, Palestine, Qatar, Tunisia, Syria
và Yemen. Thăm />Liên Hiệp Quốc thống kê Division (UNSD) đã phát triển một Sổ tay cho Báo cáo sản
xuất thống kê quốc gia về Phụ nữ và nam giới (1997). Cung cấp một khuôn khổ cho việc phát
triển và phổ biến, trong các hình thức xuất bản phẩm, một tập tối thiểu các số liệu thống kê và
các chỉ số về vị trí của phụ nữ và nam giới trong xã hội. Nó giải thích làm thế nào để chuẩn bị
và sử dụng dữ liệu có sẵn và tạo ra các chỉ số trên cơ sở các vấn đề giới tính và các mối quan
tâm quan trọng được xác định thông qua tham khảo ý kiến người sử dụng sản xuất.
Liên Hiệp Quốc thống kê Division (UNSD) cũng xuất bản Phụ nữ thế giới 2000: Xu
hướng và thống kê . Ấn bản đưa ra hàng loạt các vấn đề theo sau loạt các báo cáo (hai ấn bản
trước đã ban hành năm 1991 và 1995) xem xét các tình trạng của phụ nữ thông qua ống kính
của các dữ liệu thống kê và phân tích. Phụ nữ thế giới 2000 là một nguồn sách-thống kê cung
cấp một phân tích toàn diện của phụ nữ trong các phần khác nhau của thế giới. Nó làm nổi bật
những phát hiện chính của phân tích thống kê về tình hình của phụ nữ so với nam giới trên
toàn cầu trong một loạt các lĩnh vực bao gồm cả gia đình, sức khỏe, giáo dục, làm việc, nhân
quyền và chính trị.
Quỹ Phát triển Liên Hiệp Quốc cho Phụ nữ (UNIFEM) đã thúc đẩy chiến lược lồng
ghép giới (ảnh hưởng đến ra quyết định ở cấp cao nhất) và đã xác định sự cần thiết cho dữ liệu
đầy đủ như là một cơ sở quan trọng cho việc lập kế hoạch vĩ mô. Nó đã xuất bản Tiến bộ của
phụ nữ thế giới 2000. Báo cáo này xem xét sự tiến bộ của phụ nữ thế giới từ giữa những năm
1980 đến cuối những năm 1990. Nó tập trung vào các khía cạnh kinh tế của bình đẳng giới và
quyền của phụ nữ trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đánh giá tiến bộ của phụ nữ bằng cách sử dụng
một loạt các chỉ số và xem xét các vấn đề trách nhiệm, tập trung đặc biệt vào trách nhiệm của
chính phủ cho các tác động giới của các chính sách và chương trình của họ, bao gồm cả ngân
sách quốc gia, và trách nhiệm của công ty cho các tác động xã hội của các hoạt động của
mình. Cuối cùng, nó khám phá cách thức mà toàn cầu hóa có thể được định hình lại để thúc
đẩy sự tiến bộ của phụ nữ nghèo. UNIFEM tiến bộ của phụ nữ thế giới sử dụng các chỉ số
được tạo ra cho các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs), một tập hợp của 8 mục tiêu
được thành lập tại một hội nghị của Liên Hợp Quốc vào năm 2000. Những mục tiêu này đại



diện cho những giá trị mà các chính phủ trên thế giới đã đồng ý sẽ định hướng phát triển toàn
cầu: tự do, bình đẳng, đoàn kết, khoan dung, tôn trọng thiên nhiên và chia sẻ trách nhiệm. Mục
tiêu cuối cùng là chấm dứt đói nghèo và bất bình đẳng, cuộc "chạy đua của con người toàn bộ
từ muốn 'miễn phí, như Tuyên bố Thiên niên kỷ. Khi toàn cầu hóa tiếp tục để chuyển đổi nền
kinh tế thế giới, những mục tiêu cung cấp một cấu trúc để đảm bảo rằng các lợi ích của toàn
cầu hóa được phân phối bằng nhau.



Tổ chức Nông lương (FAO) đã tập trung vào tầm quan trọng của việc thu thập dữ liệu
như là một phần của giới tính trong Chương trình phát triển. Nó đã công bố ấn phẩm Nhạy
cảm giới Thống kê cho phát triển nông
nghiệp ( thảo luận về các vấn đề phương
pháp luận và đo lường, xác định các lỗ hổng dữ liệu và làm nổi bật những nỗ lực mà vẫn còn
cần thiết để cải thiện sự sẵn có của dữ liệu cần thiết cho một sự hiểu biết tốt hơn về vấn đề giới
trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Kế
hoạch của FAO Giới và Phát triển Hành động (2002-2007) phản ánh những thay đổi trong
quan điểm dựa trên kinh nghiệm và mô hình mới nổi lên từ các hội nghị quốc tế trong những
năm 1990 và tạo ra một sự đồng thuận rộng rãi trên các phương pháp tiếp cận giới và phát
triển (Môi trường và Phát triển năm 1992; Nhân quyền năm 1993, Dân số và Phát triển năm
1994, phát triển xã hội năm 1995, giải quyết con người, 1996). Kế hoạch của FAO khuôn khổ
để theo dõi các khuyến nghị liên quan trong các Tuyên bố Bắc Kinh và Platform cho hành
động của các Hội nghị Thế giới lần thứ tư về Phụ nữ được tổ chức vào năm 1995, Điều 14 phụ
nữ nông thôn trong các Công ước về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ
( CEDAW), và tài liệu kết quả của khoá họp đặc biệt của Đại hội đồng, quyền phụ nữ 2000:
bình đẳng giới, phát triển và hòa bình cho thế kỷ XXI , được tổ chức trong tháng sáu 2000
(Bắc Kinh 5 Review) FAO cũng đã xuất bản Giới Tính chỉ số nhạy cảm: Một công cụ quan
trọng cho lồng ghép giới ( - một bài viết giới
thiệu về công việc gần đây của FAO về việc sử dụng các chỉ số nhạy cảm giới lồng ghép

giới . Chỉ số này cung cấp một cơ chế hiệu quả để đảm bảo rằng các chương trình, dự án đưa
ra xem xét do các vai trò khác nhau và trách nhiệm của các thành viên khác nhau của xã
hội. Những sự khác biệt này thường bị bỏ qua, nhưng rất quan trọng cho sự thành công của bất
kỳ nỗ lực phát triển. Một nghiên cứu toàn diện hơn về các chỉ số đang được chuẩn bị để công
bố sớm.



Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tìm cách phát triển các chỉ số giới trong chương trình Y tế,
Phụ nữ và Phát triển. Tổ chức Y tế Pan American (PAHO) và Sáng kiến Y tế cốt lõi khu vực
dữ liệu Quốc gia Thành viên 'thu thập và phổ biến các dữ liệu liên quan đến sức khỏe giới
phân tách cho tình hình sức khỏe của khu vực.




Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã phát triển một cơ sở dữ liệu về bình đẳng giới ở
nhiều nước theo Chương trình Xúc tiến giới. Nó đã công bố chỉ số định tính và định lượng để
giám sát và đánh giá của Chiến lược lồng ghép giới ILO
( />Năm 1996, Bộ trưởng Chịu trách nhiệm cho các vấn đề của phụ nữ bắt buộc của Ban
Thư ký Khối thịnh vượng chung để phát triển khái niệm của các hệ thống quản lý Giới Tính
(GMS), một mạng lưới toàn diện cấu trúc, cơ chế và quy trình để đưa quan điểm giới để chịu


trong dòng chính của tất cả các chính sách chương trình của chính phủ và dự án. Ban Thư ký
Khối thịnh vượng chung đã sản xuất một cuốn cẩm nang hữu ích cho việc sử dụng các chỉ số
giới tính nhạy cảm như là một phần của GMS (Beck 1999).
Các chỉ số quốc tế khác
Thống kê Canada đã thực hiện công việc đáng kể trong việc phát triển các số liệu thống kê
nhạy cảm giới. Trong tháng 10 năm 1997, nó được công bố chỉ số bình đẳng giới kinh tế . Báo

cáo này trình bày kết quả của một dự án được ủy quyền của các Bộ trưởng FederalProvincial/Territorial Chịu trách nhiệm cho địa vị phụ nữ để phát triển một thiết lập giới hạn của
các chỉ số bình đẳng giới kinh tế. Các chỉ số này là một tập hợp được lựa chọn điểm chuẩn để
phản ánh các khía cạnh cốt lõi, quan hệ với nhau của phụ nữ và người đàn ông của đời sống kinh
tế. Họ bao gồm thu nhập từ nhiều nguồn khác nhau ngoài thu nhập (tính bằng tiền), chưa thanh
toán cũng như công việc đã nộp (đo trong thời gian), và giáo dục và đào tạo liên quan đến công
việc (thời gian và các biện pháp đạt được cũng nhìn vào ưu thế giới trong các lĩnh vực
học). Các chỉ số Giới Tính kinh tế bình đẳng được thiết kế để đóng góp cho chính sách công thảo
luận về các chỉ số xã hội, sự hiểu biết về thực tế của phụ nữ và thúc đẩy bình đẳng giới. Các chỉ
số phát triển được áp dụng cho các tỉnh của Canada. Một phiên bản không toàn diện kinh tế Giới
Tính chỉ số bình đẳng 2000 được sản xuất năm 2000 bao gồm báo cáo Phụ nữ ở Canada 2000 và
tài liệu đào tạo
Văn phòng Thống kê Quốc gia của Chính phủ Vương quốc Anh phối hợp với Phụ nữ và Đơn
vị bình đẳng trong sự phát triển của số liệu thống kê nhạy cảm giới. Một dự án lớn đã được "chỉ
số chính của vị trí của phụ nữ trong dự án của Anh. Mục đích là để xác định một liệu thống kê
chính mà chính xác và có ý nghĩa bản đồ phụ nữ của vị trí tương đối so với những người đàn ông
trên một loạt các lĩnh vực, và vẽ cùng nhau thống kê từ một phạm vi rộng của các nguồn cung
cấp một điều tra dân số toàn diện và cơ bản một đáng tin cậy và toàn diện chống lại thay đổi và
cải tiến trong tương lai có thể được theo dõi. Việc xem xét nhiều mặt, bao gồm: (i) tham khảo ý
kiến của người sử dụng, (ii) đánh giá việc sản xuất và phổ biến số liệu thống kê chính thức giới
tính, (iii) xác định các số liệu thống kê chính thức được phân tổ theo giới tính, phân biệt giữa các
dữ liệu thu thập và phổ biến, và (iv) xác định các số liệu thống kê chính thức hiện không giới
phân tách. Báo cáo nội dung chỉ số chính của vị trí của phụ nữ ở Anh (Dench et al 2002) được
xuất bản vào tháng 11 năm 2002 và đã được phổ biến rộng rãi. Một nghiên cứu dài bốn trang tóm
tắt và bản tóm tắt ngắn hơn 'phát hiện quan trọng cũng đã được xuất bản. Nghiên cứu sử dụng
một loạt các nguồn thống kê, từ khảo sát quy mô lớn thường xuyên, chẳng hạn như khảo sát lực
lượng lao động (LFS), các cuộc điều tra đặc biệt, ví dụ về các sáng kiến cân bằng công việc-cuộc
sống và tác động của. Nó được đề xuất để liên tục cập nhật thông tin thông qua các phương tiện
sau đây:







hàng quý cập nhật vị trí của phụ nữ trong thị trường lao động bằng cách sử dụng
LFS. Điều này đã có sẵn như là các Briefing Giới Tính WEU , xuất bản mỗi tháng hai, tháng,
tháng tám và tháng mười www.womenandequalityunit.gov.uk website WEU / nghiên cứu;
điều tra dân số cập nhật thường xuyên, sẽ xem xét tất cả các chỉ số chính và thu thập
thông tin up-to-date. Nhiều chỉ tiêu quan trọng được bao phủ bởi chính thức điều tra thường
xuyên, do đó, nó sẽ là tương đối đơn giản để cập nhật;
một đánh giá đầy đủ hơn (trong một thời gian vài năm) mà sẽ nhằm mục đích cho một
bản cập nhật toàn diện hơn, và cũng sẽ khám phá xem các chỉ số chính cần được sửa đổi và /
hoặc mở rộng, phù hợp với những thay đổi trong cuộc sống của phụ nữ và xã hội nói chung.


III. Các chỉ số quan trọng đo lường bình đẳng giới được công nhận và áp
dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
1. Chỉ số bình đẳng giới GEI (Gender Equity Index)
Chỉ số GEI là một chỉ số được tổ chức Social Watch (tổ chức phi chính phủ quốc
tế về giám sát và thực hiện các vấn đề xã hội) xây dựng vào năm 2004 nhằm đo
lường một cách chính xác mức độ bình đẳng giới trong ba lĩnh vực giáo dục, kinh
tế và tham chính (quyền năng chính trị).
Theo nguồn Cổng thông tin điện tử của SOCIAL WATCH (www.socialwatch.org)
Social Watch phát triển chỉ số bình đẳng giới GEI để thể hiện cái nhìn rõ hơn về tình trạng
bất bình đẳng giới. Chỉ số GEI dựa trên những thông tin thu thập được mà có thể so sánh một
cách toàn cầu, và nó được xây dựng để có thể phân loại các quốc gia và xếp hạng chúng dựa trên
các hạng mục về các chỉ số bất bình đẳng giới được lựa chọn sắp xếp vào 3 nhóm nội dung
chính: giáo dục, kinh tế và tham chính. (education, economic participation and
empowerment). Trong hầu hết các xã hội nam giới và phụ nữ được giao trách nhiệm khác nhau,
quyền, lợi ích và cơ hội trong các hoạt động mà họ thực hiện, trong việc tiếp cận để kiểm soát

các nguồn tài nguyên và trong quá trình ra quyết định.
Để đo lường sự bất bình đẳng chúng tôi đã thiết lập tỷ lệ hoặc tỷ số giữa hai giới tính trong
chỉ số khác nhau. Điều này được sử dụng như một cơ sở để suy luận về cấu trúc của cơ hội và
quốc gia để có thể so sánh một cách nhanh nhạy, trực tiếp và trực quan. Các thước đo GEI là
khoảng cách giữa phụ nữ và nam giới, chứ không phải là wellbeing. Ví dụ, một quốc gia, trong
đó thanh niên nam nữ có quyền theo học bằng một nền giáo dục đại học nhận được giá trị 100
trên chỉ số cụ thể này, và một quốc gia, trong đó trẻ em trai và trẻ em gái đều bị cấm hoàn thành
giáo dục tiểu học cũng sẽ được trao một giá trị 100. Điều này không có nghĩa là chất lượng giáo
dục không cần phải được cải thiện, nó chỉ thiết lập rằng, trong trường hợp này, giáo dục của trẻ
em gái không hề thua kém giáo dục của trẻ em trai.
Cách GEI được tính là một phản ứng với sự cần thiết phải phản ánh tất cả các tình huống bất
lợi cho phụ nữ. Khi có một tình huống trong đó phụ nữ ở thế bất lợi trong mối tương quan với
nam giới, GEI không đạt được giá trị tối đa của nó là 100 điểm. Giá trị cuối cùng của chỉ số này
phụ thuộc mức độ bất bình đẳng (theo nghĩa tiêu cực) của phụ nữ đang hiện hành ở nhiều quốc
gia và khu vực trong khi cũng có thể có sự bất bình đẳng tích cực đối với phụ nữ .
Các tiêu chí để xây dựng chỉ số này là sử dụng các khoảng cách giới trong 3 lĩnh vực giái
dục, hoạt động kinh tế và trao quyền.
- Trong lĩnh vực giáo dục:
Đo lường bằng các khoảng cách giới (gender gap) theo các chỉ số:
+ tỷ lệ biết chữ.
+ tỷ lệ tuyển sinh ở cấp tiểu học.
+ tỷ lệ tuyển sinh cấp trung học.
+ tỷ lệ tuyển sinh cấp học chuyên nghiệp (cao đẳng, đại học...)
- Trong lĩnh vực hoạt động kinh tế:
+ tỷ lệ tham gia hoạt động kinh tế.
+ thu nhập có thể lượng hóa được.
- Trong lĩnh vực trao quyền:


+ phần trăm phụ nữ tham gia làm trong các ngành trình độ cao.

+ phần trăm phụ nữ làm công tác quản lý và các vị trí trong chính phủ.
+phần trăm phụ nữ trong quốc hội. (parliament)
+ Phần trăm phụ nữ giữ các vị trí điều hành ở chính quyền các cấp.
(ministerial level positions).
GEI được tính bằng bình quân 3 chỉ số trong 3 lĩnh vực trên.
Ngày 8/2/2012, Social Watch đã công bố chỉ số GEI các nước năm 2012
Theo nhận định của Social Watch, không nước nào trong số 154 quốc gia được nghiên cứu
thu hẹp được khoảng cách giới đến một mức độ chấp nhận được.
Hàng năm, Social Watch tiến hành nghiên cứu nhằm xác định khoảng cách khác biệt giữa phụ nữ
và nam giới theo các số trung bình về bất bình đẳng trên ba phương diện: giáo dục – kiểm tra
khoảng cách giới theo tỉ lệ nhập học ở tất cả các cấp; sự tham gia vào kinh tế – qua tính toán
khoảng cách giới trong thu nhập và việc làm; quyền năng chính trị – tính toán khoảng cách trong
các ngành nghề trình độ cao, quốc hội và các vị trí điều hành cao cấp.
Năm mức độ chỉ số đo khoảng cách về giới là: “nghiêm trọng” (critical), “rất thấp” (very low),
“thấp” (low), “trung bình”(medium) và “chấp nhận được”(acceptable). GEI năm 2012 đã tính
được chỉ số chung cho cả thế giới với giáo dục là 71 – mức thấp, tham gia kinh tế đạt 42 –
mức rất thấp, và tạo quyền năng cho phụ nữ chỉ đạt 17 – mức nghiêm trọng. Không có quốc gia
nào trên thế giới đã đạt từ 90 điểm GEI trở lên, có nghĩa rằng không một quốc gia nào đạt
mức chấp nhận được.
Social Watch chỉ đo lường khoảng cách giữa phụ nữ và nam giới, không phải phúc lợi của họ. Vì
vậy, một đất nước mà trong đó số nam nữ thanh niên học đại học bằng nhau sẽ nhận được giá trị
100 về riêng chỉ số này. Cũng như vậy, một quốc gia, trong đó số học sinh nam và nữ bị cấm
hoàn thành giáo dục tiểu học bằng nhau cũng sẽ được giá trị 100. Điều này không có nghĩa là
chất lượng giáo dục trong cả hai trường hợp là như nhau. Nó chỉ cho thấy rằng, trong cả hai
trường hợp, nam và nữ được giáo dục như nhau.
GEI 2012 cũng chỉ rõ rằng bất bình đẳng không thể được biện minh bởi sự hạn chế về nguồn
lực/kinh tế – bất kể mức thu nhập thế nào, mỗi nước đều có thể giảm bất bình đẳng giới bằng các
chính sách hoàn thiện và sự bình đẳng trong cơ cấu các cơ hội trong xã hội.
Các quốc gia như Mông Cổ (81), Rwanda (77), Philippines (76) và Nicaragua (74) đã đạt đến
mức tương đối cao về bình đẳng giới, ngay cả khi nhiều phụ nữ và nam giới vẫn sống trong

nghèo đói. Mặt khác, các nước có thu nhập cao như Nhật Bản (57), Thổ Nhĩ Kỳ và Saudi Arabia
(37) vẫn thấy những khoảng cách lớn giữa hai giới.
Trong số 154 quốc gia được đo lường, những nước đạt được điểm số tốt hơn là Na Uy (89), Phần
Lan (88), Iceland, Thụy Điển (đều 87), Đan Mạch (84), New Zealand (82), và Mông Cổ và Tây
Ban Nha (đều 81 ), tất cả đều thuộc mức GEI “trung bình”.


Việt Nam có chỉ số trung bình là 70 điểm cùng với Ý, Madagascar và Armenia. Các chỉ số của
Việt Nam cho giáo dục là 95, tham gia kinh tế là 75 và tạo quyền năng cho phụ nữ chỉ đạt 41
điểm.
Theo đánh giá của các chuyên gia, bình đẳng giới ở Việt Nam đã tăng nhẹ trong nhóm các nước
châu Á Thái Bình dương, và có những điều kiện tốt hơn so với các nước láng giềng.
GEI của Việt Nam năm 2012 là 70, nằm ở nhóm nước có GEI thấp (LOW GEI), và GEI bình
quân của các nước Châu Á Thái Bình Dương là 69. Các nước láng giềng của Việt Nam như
Trung Quốc, Lào, Campuchia tương ứng là 64, 65, 55 điểm.
Năm nước thấp nhất thế giới là Cộng hòa Congo (29), Niger (26), Tchad (25), Yemen (24) và
Afghanistan (15), tất cả đều có mức GEI “nghiêm trọng”.
Tham khảo thêm kết quả GEI của Social Watch tại />
Nhận định thông qua GEI :
Trong lĩnh vực giáo dục, bình đẳng giới được thể hiện ở trình độ biết đọc, biết viết của
nam và nữ, tỷ lệ nam, nữ được tuyển vào các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ
thông. Nhật Bản, Ai Len, Vanuatu và Ba ren là những nước dẫn đầu trong lĩnh vực này.
Trong lĩnh vực kinh tế, bình đẳng giới được xác định ở tỷ lệ phần trăm phụ nữ có việc làm
được trả lương (không kể ngành nông nghiệp) và tỷ lệ thu nhập của phụ nữ/nam giới. Nói chung,
trên toàn cầu, phụ nữ ít được tiếp cận thị trường lao động hơn so với nam giới và nếu đi làm thì
bao giờ cũng bị trả lương thấp hơn. Có 52 quốc gia dẫn đầu về bình đẳng giới trong lĩnh vực
kinh tế với khoảng cách chênh lệch về thu nhập của nữ và nam là 0,65. Trong đó, trung bình phụ
nữ chiếm 50% dân số có việc làm được trả công.
Trong lĩnh vực tham chính, bình đẳng giới được đo lường ở tỷ lệ phần trăm phụ nữ trong
quốc hội và ở cấp bộ trưởng. Thực tế là mặc dù phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số thế giới nhưng

tính trung bình chỉ chiếm 15% số ghế trong quốc hội và 6% các vị trí trong nội các chính phủ.
Chỉ có Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan đạt tỷ lệ nữ bộ trưởng ở mức trên 40%. Duy nhất có Thụy
Điển đạt một nửa số thành viên nội các là phụ nữ vào năm 1995- một hiện tượng chưa từng xảy
ra trước đây trong lịch sử. Một số công trình nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng để phụ nữ thực sự


có ảnh hưởng chính trị thì họ phải nắm giữ ít nhất là 30% vị trí trên chính trường. Tuy nhiên, chỉ
có một số ít quốc gia là vượt qua được mức này và hầu hết là các nước Bắc Âu như Phần Lan,
Na Uy (39%), Thuỵ Điển (34%) và Đan Mạch (33%).
Chính vì vậy, phụ nữ ít có cơ hội được cống hiến và tham gia vào việc hoạch định chính
sách và xác định các ưu tiên chiến lược của địa phương, quốc gia và khu vực. Hơn thế nữa,
những quan điểm của họ cũng ít được xem xét đến trong quá trình hoạch định chính sách. ở
nhiều quốc gia, các nhà hoạch định chính sách (chủ yếu là nam giới) rất do dự khi phải xử lý
những vấn đề liên quan tới phụ nữ. Một ví dụ điển hình là cho đến nay vẫn còn 47 quốc gia
thành viên Liên hợp quốc vẫn chưa ký hoặc phê chuẩn Công ước xoá bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ (CEDAW), 43 quốc gia khác dù đã phê chuẩn song vẫn bảo lưu một số điều
khoản.
Theo thống kê của Social Watch, ôt-xtrây-li-a, Phần Lan, Ai-xơ-len, Na Uy và Thụy Điển
là những nước có chỉ số bình đẳng giới cao nhất. Thành tựu đáng kể này có được là do họ đã có
một thời gian dài tích cực thực thi chính sách giới. Đứng thứ hai là các nước châu Âu khác và
các nước vùng Caribê. Châu á có điển hình là Mông Cổ và Phi-líp-pin. Các nước ở khu vực
Trung Đông, Bắc Phi, Nam á và tiểu vùng Sahara có chỉ số GEI trung bình. Những nước có chỉ
số bình đẳng giới thấp nhất phần lớn là những nước nghèo như Yemen, Pakistan, Cốt-đi-voa,
Togo, Ai Cập, ấn Độ, Nepal, Thổ Nhĩ Kỳ, Guatemala, Syria, Angiêri, A-rập Xê-út, Libăng và
Sudan.
Tuy nhiên, không hẳn là phụ nữ ở những nước giàu hơn thì có vị trí tốt hơn. ở một số
nước vào loại giàu nhất thế giới như Pháp và Nhật Bản, phụ nữ chỉ chiếm 10% đến 12% tổng số
ghế trong nghị viện, trong khi đó những nước thuộc tiểu vùng Sahara châu Phi được xếp vào
diện nghèo nhất trên thế giới thì đạt tỷ lệ cao hơn là 13%. ở các nước đang phát triển như Nam
Phi, Cu Ba và Trung Quốc, tỷ lệ phụ nữ tham chính chiếm hơn 20%, trong khi đó, những nước

được xếp vào loại tương đối giàu như Hy Lạp, Kuwait, Hàn Quốc, Singapore thì chỉ đạt 5%,
thậm chí còn thấp hơn. Mônđôva và Mông Cổ có chỉ số GEI đứng thứ 2 trên thế giới nhưng lại là
hai nước có mức thu nhập thấp. Một số ví dụ khác là Trung Quốc-thu nhập chỉ bằng 1/5 thu nhập
của A-rập Xê-út và Thái Lan-thu nhập bằng một nửa thu nhập của Tây Ban Nha-nhưng cả hai
quốc gia trên lại có chỉ số GEI cao hơn A-rập Xê-út và Tây Ban Nha rất nhiều.
Trong các báo cáo phát triển con người hàng năm của Liên hợp quốc có đánh giá mức độ
bình đẳng giới ở các quốc gia trên cơ sở các chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người) và GDI (chỉ
số phát triển giới). HDI là trung bình số học của 3 chỉ số cơ bản về năng lực của con người (tuổi
thọ, học vấn và thu nhập thực tế). GDI cũng tính tương tự như trên và trừ đi mức bất bình đẳng
giới. Nhưng GEI đã chỉ ra cho chúng ta thấy rõ ràng rằng bình đẳng giới và thu nhập thực tế rất ít
có liên quan. Có thể lấy một ví dụ minh họa cho sự liên hệ này như sau: Moldova nằm trong số
25 nước dẫn đầu về đảm bảo bình đẳng giới, Ailen nằm ngoài nhóm nước này. Tuy nhiên, Ailen
lại có chỉ số GDI đứng thứ 10, còn Moldova lại đứng thứ 113. Sở dĩ như vậy vì ở Moldova mức
thu nhập bình quân hàng năm của phụ nữ là 1.168 USD, nam giới là 1.788 USD, trong khi đó
con số tương ứng ở Ailen là 21.056 USD và 52.008 USD. Rõ ràng là, thu nhập của nam giới ở
Ailen gấp đôi thu nhập của phụ nữ, còn ở Moldova thì chênh lệch thu nhập ít hơn.
Như vậy, để đánh giá mức độ bình đẳng giới ở một quốc gia, có rất nhiều chỉ số để tính toán.
Song GEI đã đưa ra một cách tính mới và một cách nhìn nhận mới về bình đẳng giới. Dù mới
được công bố, song đến nay GEI đã được áp dụng rộng rãi ở 130 nước trên thế giới. Một kết luận
quan trọng mà GEI đem đến cho chúng ta là: không có mối liên quan trực tiếp nào giữa mức độ


bình đẳng giới và sự giàu có của một quốc gia. Do vậy, nâng cao mức thu nhập không phải là
cách duy nhất để xoá bỏ bất bình đẳng giới như nhiều người vẫn nhầm tưởng.

2. Chỉ số phát triển con người liên quan đến giới GDI (Gender related
development index)
Chỉ số phát triển con người liên quan đến giới GDI được Chương trình phát triển Liên Hiệp
Quốc (UNDP) đưa ra năm 1995.
Kể từ năm 1990, UNDP đã xây dựng các chương trình Báo cáo phát triển con người hàng năm

Human development report (HDR) nhằm nỗ lực đưa ra sự tiến bộ của các chỉ số đánh giá tiến
trình xây dựng hạnh phúc, phúc lợi trên toàn cầu. Trong sự tương phản với việc tập trung vào thu
nhập như là một thước đo tiến bộ kinh tế thì báo cáo này đã nhấn mạnh tới tầm quan trọng của
các chỉ số đo lường hạnh phúc, phúc lợi khác mà không phải luôn luôn có liên hệ mật thiết với
thu nhập, như là tuổi thọ và giáo dục.
Vào năm 1995, HDR tập trung nghiên cứu vấn đề về giới, UNDP đã đưa ra 2 chỉ số đo lường là
Chỉ số phát triển con người liên quan đến giới GDI và chỉ số đo lường vị thế giới GEM. Trong
khi GEM tập trung nghiên cứu về quyền lực và vai trò của phụ nữ trong kinh tế và đời sống
cộng đồng, GDI không phải là một chỉ số về thành tựu của phụ nữ, nhưng nó góp phần phản ánh
sự bất bình đẳng trong tổng thể của một quốc gia. GDI cũng gợi ý chỉ ra rằng bất bình đẳng giới
không phải là một vấn đề không ưa thích, không mong muốn mà bất bình đẳng giới còn ảnh
hưởng tới sự phát triển của một quốc gia.
2 chỉ số mới này là những thước đo quan trọng và công cụ tiềm năng phân tích bất bình đẳng
giới và nó ảnh hưởng tới sự phát triển tổng thể của quốc gia. Trong quan điểm nghiên cứu về bất
bình đẳng giới trong giáo dục, y tế, cơ hội kinh tế, và viễn cảnh đời sống ở nhiều quốc gia, tầm
quan trọng của các thước đo này là sự thay đổi theo thời gian và khu vực. Các thước đo này là
căn cứ mở rộng để các nhà hoạch định chính sách sử dụng trong tiến trình hoạch định, giúp chính
sách tập trung vào vấn đề bất bình đẳng giới, nguyên nhân cũng như hệ quả của nó.
b. Các lý thuyết và nguồn gốc của GDI
Nền tảng lý thuyết cho GDI được đưa ra bởi Amand và Sen (1995) . Họ nhấn mạnh rằng
nếu bất bình đẳng giới là một trong những cấu thành của sự bất bình đẳng xã hội nói chung thì
những phân tích của họ tập trung vào điều kiện kinh tế thông thường, với giả định các yếu tố
khác không đổi (Ceteris paribus). Nếu hai quốc gia có thành tựu như nhau nhưng khác nhau ở
các cấp độ bất bình đẳng giữa các nhóm thì quốc gia nào có sự bất bình đẳng thấp hơn thì vẫn
được ưa thích hơn.
GDI là một chỉ số được tính toán điều chỉnh dựa trên chỉ số được biết đến rộng rãi là HDI. Vì chỉ
số HDI phản ánh sự khác biệt giữa các quốc gia với nhau nhưng nó lại ngầm định rằng tất cả
công dân của quốc gia đó đã đạt được mức độ bình quân như nhau ở cả 3 nhân tố tuổi thọ, giáo
dục và thu nhập, thực tế là nó bỏ qua sự phân biệt giữa các nhóm người, khác biệt về giới trong
các thang đo (không phải mọi cá nhân của quốc gia đó đều có được mức độ như nhau) mà tồn tại

sự không ngang hàng giữa nam và nữ trong từng chỉ số đã được HDI đo lường. GDI thường thấp
hơn HDI phụ thuộc vào độ lớn của khoảng cách giới trong từng nhân tố cấu thành.
Là một chỉ số được điều chỉnh từ HDI, GDI cũng bao gồm 3 thành tố: tuổi thọ, giáo dục, và thu
nhập. Mỗi khoảng cách giới trong từng yếu tố cấu thành được cân nhắc trong mối liên quan tới
khả năng tối đa có thể đạt được của mỗi thành tố. Vì thế, quan trọng là không chỉ biết được độ


lớn của khoảng cách giới, mà độ rộng của kết quả có thể có rồi sau đó xác định chỉ số phân bổ
đồng đều cho từng thành tố.
Trong thành tố tuổi thọ, phụ nữ thường được giả định rằng có tuổi thọ trung bình cao hơn nam
giới là 5 tuổi. Điều này là do lợi thế cấu trúc sinh học của phụ nữ với nam giới. Độ rộng của tuổi
thọ được giả định trong HDR là 60 năm (từ 27.5 tới 87.5 tuổi cho phụ nữ, và từ 22.5 tới 82.5 tuổi
cho nam giới), bởi thế khoảng cách giới tối đa trong tuổi thọ cũng là 60 năm.
Trong thành tố tỷ lệ tuyển sinh các cấp học, phụ nữ và nam giới được giả định có số điểm tiềm
năng như nhau (100% tỷ lệ tuyển sinh), có nghĩa là bất cứ sự khác biệt nào về khoảng cách trong
tỷ lệ tuyển sinh giữa nam và nữ cũng chỉ tối đa là 100%.
Trong thành tố chỉ số thu nhập, tỷ trọng thu nhập của nam giới hay phụ nữ được tính bằng tỷ lệ
thu nhập của nam (nữ) chia cho tỷ lệ của nam (nữ) trong dân số. Ví dụ nếu phụ nữ sở hữu 20%
thu nhập và chiếm 50% dân số, thì tỷ trọng thu nhập của họ là 0.4, trong khi tỷ trọng thu nhập
của nam là 1.6 (( 1-80%)/50%). Vì thế khoảng cách giới tối đa trong tỷ lệ thu nhập là 2 ( trong
trường hợp hoặc phụ nữ hoặc nam giới chiếm toàn bộ 100% thu nhập quốc dân).
Cách tính cho chỉ số GDI là dựa theo nguyên tắc tính “phân bổ đồng đều về từng thành tựu”, nếu
có sự cân bằng về thành tựu đạt được giữa nam và nữ thì các chỉ số sẽ trùng với chỉ số đó trong
HDI.
Việc tính GDI gồm 3 bước:
 bước 1: chỉ số phụ nữ và nam giới ở từng độ tuổi được tính bằng công thức sau:
chỉ số độ đo=(giá trị thực - giá trị cực tiểu) / (giá trị cực đại – giá trị cực tiểu)
 bước 2: chỉ số phụ nữ và nam giới ở từng độ đo được kết hợp để làm sao phạt được
những khác biệt về thành tựu giữa phụ nữ và nam giới. chỉ số thu được thường được gọi
là chỉ số phân bổ đồng đều (equally distributed equivalent achievement: edea).

Chỉ số phân bổ đồng đều: edea= tỷ trọng dân số là nữ *(chỉ số độ đo của nữ 1-ɛ ) + tỷ trọng
dân số là nam*(chỉ số độ đo của nam 1-ɛ)
ɛ: đo sự ngăn chặn bất bình đẳng. Trong GDI, người ta quy ước chọn ɛ =2. Sau đây là giải
thích tại sao ɛ = 2 khi tính GDI. Giá trị ɛ là mức phạt về bất bình đẳng giới. Giá trị này càng
lớn thì xã hội đó càng bị phạt nhiều vì để bất bình đẳng.
Nếu ɛ = 0 thì bất bình đẳng không bị trừng phạt (trường hợp này GDI bằng HDI). ɛ càng tăng
thì càng cho nhiều trọng số đối với nhóm đạt được thành tựu thấp hơn. Giá trị ɛ = 2 được sử dụng để
tính GDI cũng như GEM thể hiện giá trị mức phạt trung bình đối với bất bình đẳng giới
Muốn tìm hiểu phân tích chi tiết công thức toán học của GDI, xin xem "Bất bình đẳng
giới trong Phát triển con người: Lý luận và Đo lường" của Sudhir Anand và Amartya
Sen, "Chỉ số liên quan đến giới của UNDP: Đánh giá phê phán" của Kalpana Bardhan
và Stephan Klasen, và chú thích chuyên môn trong Báo cáo Phát triển Con người 1995 và Báo
cáo Phát triển Con người 1999
 bước 3
tính GDI bằng cách kết hợp 3 chỉ số phân bổ đồng đều lại thành số bình quân không
trọng số
Mốc để tính GDI
Tiêu chí
Giá trị cực đại
Giá trị cực tiểu
Tuổi thọ phụ nữ (tuổi)
87.5
27.5
Tuổi thọ nam giới (tuổi)
82.5
22.5
Tỷ lệ biết chữ ở người lớn
100
0
(100%)



Tỷ lệ đi học kết hợp các cấp
(%)
Thu nhập kiếm được ước
tính(PPP USD)

100

0

40000

100

Chú ý: giá trị cực đại và cực tiểu (mốc) đối với tuổi thọ tính thêm 5 tuổi cho phụ nữ do tuổi thọ
của họ cao hơn. Để bảo toàn mối liên hệ giữa giá trị của nam và nữ trong mỗi chỉ số, các giá trị
bậc thang được tính và sử dụng thay cho những con số khi hoặc giá trị của nam hoặc của nữ vượt
quá ngưỡng (trong trường hợp tỷ lệ biết chữ ở người lớn gía trị ngưỡng thực tế là 99% được sử
dụng). Bậc thang này tính bằng cách nhân giá trị của nam và nữ với giá trị ngưỡng thực tế rồi
chia cho giá trị báo cáo cực đại đối với hoặc nam hoặc nữ.
Ví dụ: minh họa tính GDI theo số liệu của Bốt- xoa- na.
1.tính chỉ số tuổi thọ phân bổ đồng đều.
Bước đầu tiên là tính riêng các chỉ số đối với thành tựu của phụ nữ và nam giới về tuổi thọ, sử
dụng công thức chỉ số độ đo. ở đây số liệu là tuổi thọ phụ nữ là 48.4, tuổi thọ nam giới là 47.6, tỉ
trọng dân số nữ là 0.504. nam là 0.496
Chỉ số tuổi thọ nữ = (48.4 - 27.5) / (87.5 - 27.5) = 0.348
Chỉ số tuổi thọ nam= (47.6 - 22.5) / (82.5 – 22.5) = 0.419
Sau đó tính chỉ số phân bổ tuổi thọ đồng đều, sử dụng công thức tính edea ở trên ta có
Chỉ số tuổi thọ phân bổ đồng đều = 0,504.0,348-1 + 0,496.0,419-1 = 0.380

2.tính chỉ số giáo dục phân bổ đồng đều
Số liệu:
Trước tiên, tính riêng các chỉ số cho phụ nữ và nam giới về tỉ lệ biết chữ ở người lớn và tổng tỉ lệ
đi học kết hợp cả tiểu học, trung học và đại học. Tính các chỉ số này khá đơn giản vì các chỉ thị
được sử dụng đã được làm chuẩn từ 0 đến 100.
Tiêu thức
Phụ nữ
Nam giới
Tỉ lệ biết chữ ở người lớn
81.8%
80.4%
Chỉ số biết chữ ở người lớn
0.818
0.804
Tổng tỉ lệ đi học các cấp
70.1%
69.0%
Chỉ số đi học
0.701
0.690
Thứ hai, chỉ số giáo dục được tính riêng cho phụ nữ và nam giới, trong đó 2/3 trọng số là chỉ số biết
chữ ở người lớn và 1/3 trọng số là chỉ số đi học.
Chỉ số giáo dục = 2/3 (chỉ số biết chữ ở người lớn) + 1/3 (chỉ số đi học)
Chỉ số giáo dục phụ nữ = 2/3*0.818 +1/3*0.701=0.779
Chỉ số giáo dục nam giới=2/3*0.804 + 1/3*0.690=0.766
Cuối cùng, chỉ số giáo dục phụ nữ và nam giới kết hợp lại thành chỉ số giáo dục phân bổ đồng
đều, biết tỉ trọng phụ nữ và nam giới lần lượt là 0.504, 0.496
Chỉ số giáo dục phân bổ đồng đều = 0.504*0.779-1 + 0.496*0.766-1 = 0.773
3. tính chỉ số thu nhập phân bổ đồng đều
Trước hết, thu nhập kiếm được của phụ nữ và nam giới (PPP USD) được ước tính. Sau đó chỉ số

ày được thu thập theo từng giới. Đối với HDI, thu nhập được điều chỉnh bằng cách lấy lôgarit
của thu nhập kiếm được ước tính (PPP USD)


Chỉ số thu nhập = ((log(giá trị thực) – log(giá trị cực tiểu)) / ((log(giá trị cực đại) – log(giá trị cực
tiểu))
Biết số liệu thu nhập kiếm được ước tính của phụ nữ và nam giới lần lượt là 5913, 19094.
Theo công thức trên, chỉ số thu nhập của phụ nữ và nam giới lần lượt là: 0.681 và 0.877
Chỉ số thu nhập phân bổ đồng đều tính theo công thức chỉ số phân bổ đồng đều ta được 0.766
4. tính GDI
Đơn giản là lấy chỉ số bình quân của 3 chỉ số tuổi thọ phân bổ đồng đều, chỉ số giáo dục phân bổ
đồng đều, chỉ số thu nhập phân bổ đồng đều.
GDI =(0.380 + 0.773 + 0.766) / 3 = 0.639.
So sánh giá trị và xếp hạng theo HDI và GDI một số nước 2001
Tên nước
HDI
GDI
Giá trị
Xếp hạng
Giá trị
Xếp hạng
Na Uy
0.939
1
0.937
1
Singapo
0.884
28
0.880

28
Lucxembua
0.924
12
0.907
19
UEA
0.740
68
0.719
75
Thái Lan
0.768
74
0.766
61
Xilanca
0.735
81
0.732
70
Việt Nam (2006)
0.733
105
0.732
89
Nguồn: báo cáo phát triển con người của UNDP năm 2001
Chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số phát triển giới (GDI) của
Việt Nam và xếp hạng (1997-2006)
Năm báo cáo

HDI
Xếp hạng
GDI
Xếp hạng
HDI/quốc gia
GDI/quốc gia
1997
0.664
110/174
0.662
91/143
1998
0.671
108/174
0.668
89/143
1999
0.682
101/162
0.680
89/146
2000
0.688
109/173
0.687
89/146
2001
0.687
109/175
0.697

89/144
2002
0.691
112/177
0.689
87/144
2003
0.704
108/177
0.702
83/144
2004
0.709
109/177
0.708
80/136
2005/2006
0.733
105/177
0.732
91/177
Nguồn: UNDP. Báo cáo phát triển con người 1997-2007/2008

Hiện nay, nhu cầu đối với việc tính toán chỉ số phát triển giới (GDI) ngày càng trở nên rõ
ràng. Đo đạc được chỉ số phát triển giới sẽ cung cấp cơ sở quan trọng để từ đó các cơ quan chức
năng xây dựng các chương trình, chính sách hướng tới sự phát triển của cộng đồng nói chung và
cho từng giới nói riêng góp phần thực hiện mục tiêu vì sự phát triển của phụ nữ. Việc sử dụng
GDI trong đánh giá của các tổ chức của Liên Hợp Quốc về mức thang phát triển của mỗi quốc
gia khu vực hiện nay đã trở nên phổ biến. Trong các báo cáo phát triển gần đây của Liên hợp
quốc đều tồn tại song hành hai chỉ số trên. Mặc dù hoàn toàn dựa trên cách tính tính toán của



HDI nhưng trong một số trường hợp GDI đã thay thế HDI trong các đánh giá phát triển liên quan
tới yếu tố giới. Đặc biệt là trong thời kỳ hiện nay, khi mức độ phát triển kinh tế đã đưa nhiều
quốc gia tới ngưỡng thành công nhất định, nhưng khoảng cách giới ở đó vẫn còn là một bài toán
chưa có lời giải đáp hữu hiệu khiến cho việc thực hiện mục tiêu công bằng bình đẳng và tiến bộ
chưa thực sự mang lại lợi ích đồng đều cho cả nam giới và nữ giới.
Về mặt đo lường, việc đưa ra chỉ số GDI không yêu cầu sự tính toán phức tạp và cũng không
cần đo đạc thêm số liệu mà hoàn toàn dựa trên các kết quả thống kê về HDI nhưng có sự tính
toán tách biệt cho hai giới. Về bản chất, chỉ số GDI không đo lường bất bình đẳng giới mà nó là
sự điều chỉnh của HDI để đánh giá khoảng cách về giới. Chỉ số GDI giảm xuống khi mức độ đạt
được của cả nam giới và nữ giới giảm xuống hoặc khi sự chênh lệch về những gì đạt được của
nam và nữ tăng lên. Sự chênh lệch về những khả năng cơ bản giữa nam và nữ càng tăng thì chỉ
số GDI càng thấp khi so sánh với HDI.

3. Chỉ số đo lường vị thế giới GEM (Gender Empowerment Measure)
Đo lường vị thế giới (Gender Empowerment Measure) là một trong những chỉ báo được sử
dụng để đánh giá mức độ bất bình đẳng giới. Chỉ số này được giới thiệu trong báo cáo phát triển
con người 1995 cùng với chỉ số GDI.
Chỉ số GEM rất khác với GDI. Thay vì tập trung vào bất bình đẳng giới trong phát triển con
người như GDI, GEM là chỉ số đánh giá năng lực kinh tế và quyền năng chính trị của phụ nữ.
Điều nó phản ánh không phải là những gì đạt được trong phúc lợi của phụ nữ mà là vai trò và
tiếng nói của phụ nữ trong xã hội.
Chỉ số này tập trung đo lường dựa trên các tiêu chí được phân vào 3 nhóm chính như sau:
 sự tham gia chính trị và quyền quyết định: được đo bằng sự chia sẻ số ghế trong quốc hội,
hay tỉ lệ nữ và nam trong quốc hội.
 Sự tham gia kinh tế và quyền quyếtđịnh, đo bằng 2 chỉ thị tỉ lệ phần trăm phụ nữ và nam
giới nắm giữ các chức vụ như nhà lập pháp, cán bộ cao cấp và quản lý, và tỉ lệ phần trăm
phụ nữ và nam giới nắm giữ các chức vụ chuyên môn kỹ thuật.
 Quyền đối với các nguồn lực kinh tế: đo bằng thu nhập kiếm được ước tính của phụ nữ và

nam giới (PPP USD).
Tỉ lệ phần trăm tương đương phân bổ đồng đều EDEP được tính cho từng độ đo trọng số
này theo công thức chung sau, tương tự trung bình trọng số theo dân số:
EDEP =[ tỉ trọng dân số là nữ* (chỉ số phụ nữ 1-ɛ) + (tỉ trọng dân số nam*(chỉ số nam giới
1-ɛ 1/1-ɛ
)]
ɛ đo sự ngăn chặn bất bình đẳng. Trong GEM (tương tự như GDI), ɛ = 2, mức phạt trung
bình đối với bất bình đẳng.
Như vậy, công thức chung sẽ là :
EDEP = [tỉ trọng dân số nữ*(chỉ số phụ nữ -1) + tỉ trọng dân số nam*(chỉ số nam giới -1)]
-1

Đối với sự tham gia chính trị và kinh tế và quyền quyết định, EDEP sau đó được tính bằng cách
chia cho 50. Lý do cho cách tính này là: trong một xã hội lý tưởng, với sự trao quyền bình đẳng
cho cả hai giới, biến GEM sẽ tương đương 50% - tức là tỉ trọng của phụ nữ bằng tỉ trọng của
nam giới đối với từng biến.Khi giá trị chỉ số phụ nữ hay nam giới bằng 0, EDEP theo công thức


trên không được xác định. Tuy nhiên, giới hạn của EDEP là 0 khi chỉ số tiến gần tới 0. Theo đó,
trong những trường hợp này giá trị của EDEP đặt là bằng 0.
Cuối cùng, GEM được tính đơn giản bằng trung bình của cả 3 chỉ số EDEP đã tính.
Ví dụ minh họa tính GEM theo số liệu của Liên bang Nga.
1. tính EDEP về đại diện trong quốc hội
EDEP về đại diện trong quốc hội đo lường sự trao quyền tương đối cho phụ nữ qua sự tham
gia chính trị của họ. EDEP tính bằng cách lấy tỉ trọng dân số là nữ và nam và tỉ lệ phần trăm số
đại biểu quốc hội của phụ nữ và nam giới theo công thức chung sau:
Biết tỉ trọng dân số nữ, nam lần lượt là 0.536 và 0.464, tỉ lệ đại biểu quốc hội tương ứng là 8%
và 92%
EDEP đại diện trong quốc hội = [0.536*8.0-1 + 0.464*92.0-1] -1 =13.88
EDEP ban đầu được chỉ số hóa theo giá trị lí tưởng là 50%.

Chỉ số EDEP đại diện trong quốc hội =13.88 / 50 = 0.278
2. Tính EDEP về tham gia kinh tế
Biết số liệu như sau:
Chỉ thị
Phụ nữ
Nam giới
Tỉ trọng dân số
0.536
0.464
Tỉ lệ phần trăm nắm giữ chức
39.0%
61.0%
vụ lập pháp, cán bộ cao cấp và
quản lý
Tỉ lệ phần trăm nắm giữ chức
64.7%
35.3%
vụ chuyên môn kỹ thuật
Tính được EDEP chức vụ nhà lập pháp, cán bộ cao cấp và quản lý = 46.85
Chỉ số EDEP chức vụ nhà lập pháp, cán bộ cao cấp và quản lý =46.85/50 = 0.937
EDEP chức vụ chuyên môn kỹ thuật = 46.67
Chỉ số EDEP chức vụ chuyên môn kỹ thuật = 46.67/50 = 0.933
Lấy trung bình 2 chỉ số này để được EDEP tham gia kinh tế = (0.937 + 0.933) / 2 = 0.935
3. Tính EDEP về thu nhập
Thu nhập kiếm được (PPP USD) ước tính riêng cho phụ nữ và nam giới rồi sau đó tính
chỉ số theo các mốc bậc thang như cách tính GDI (xem chi tiết ở phụ lục của Chú thích
chuyên môn này). Tuy nhiên, đối với GEM, chỉ số thu nhập dựa vào giá trị không điều
chỉnh chứ không phải vào lôgarít của thu nhập kiếm được ước tính.
Biết thu nhập kiếm được ước tính (PPP USD) của nữ và nam lần lượt là: 8476, 13581
Chỉ số thu nhập của nữ = (8476-100) / (40000 -100) = 0.210

Chỉ số thu nhập của nam = (13581 – 100) / (40000 – 100) = 0.338
Chỉ số thu nhập phân bổ đồng đều
EDEP thu nhập = 0.255
4. Tính GEM
Lấy trung bình cộng 3 chỉ số EDEP ở trên
GEM = (0.275 + 0.935 + 0.255) / 3 = 0.489
Các kết luận đưa ra:
 GEM càng cao, vi thế của giới càng công bằng trong việc sử dụng các cơ hội phát triển.
 So sánh GEM với GDI để đánh giá mức độ trang bị và sử dụng nam và nữ.
+ GEM cao, GDI thấp: Không trang bị đầy đủ năng lực nhưng lại sử dụng (bệnh cơ cấu),


+ GEM thấp, GDI cao: Có trang bị kiến thức cho con người nhưng lại không sử dụng.
 Có thể tính GDI và GEM cho các địa phương, các vùng và các nhóm dân cư khác nhau.
Bảng so sánh GEM và GDI của một số nước năm 2004
Tên nước
GDI
GEM
Giá trị
Xếp hạng
Giá trị
Xếp hạng
Singapore
0.884
28/175
0,594
26/175
Malaysia
0.790
58/175

0.503
45/175
Philipines
0.751
85/175
0.539
35/175
Thái Lan
0.768
74/175
0.457
55/175
Việt Nam (2007) 0.732
89/175
0.556
41/175
Nguồn: Tư liệu kinh tế các nước thành viên Asean
Chỉ số đo lường vị thế giới xem xét phụ nữ và nam giới có thể tham gia tích cực
như thế nào vào đời sống kinh tế chính trị và quá trình ra quyết định. Nếu chỉ số phát triển liên
quan đến giới (GDI) tập trung vào việc mở rộng khả năng thì chỉ số đo lường vị thế giới (GEM)
quan tâm tới việc sử dụng những khả năng đó để đem lại lợi ích về các cơ hội của họ trong đời
sống xã hội. GEM cố gắng đánh giá xem phụ nữ được trao quyền hay được giải phóng như thế
nào để tham gia vào những lĩnh vực khác nhau của đời sống chung trong mối tương quan với
nam giới. Nhưng do sự hạn chế về số liệu nên tiếc rằng chỉ số này không đo lường được sự trao
quyền ở một số lĩnh vực khác, ví dụ như trong đời sống hộ gia đình, cộng đồng và ở các khu vực
nông thôn. GEM mới chỉ tập trung vào các biến số cơ bản là khả năng kiếm sống về kinh tế; sự
chia sẻ những công việc (mang tính chất chuyên môn và tính chất quản lý); chia sẻ các vị trí
trong quốc hội. Cụ thể:
(1) Hệ các biến số thứ nhất được lựa chọn phản ánh sự tham gia về kinh tế và ra quyết định
kinh tế. Nó bao gồm tỷ lệ phần trăm phụ nữ và nam giới chiếm giữ các vị trí quản lý và tỷ

lệ phụ nữ và nam giới có được những nghề nghiệp mang tính kỹ thuật và chuyên môn (xác định
theo phạm trù nghề nghiệp).
(2) Hệ biến số thứ hai được lựa chọn phản ánh sự tham gia vào chính trị và quá trình ra
quyết định về chính trị. Chỉ báo đo lường biến số này được phản ánh qua tỷ lệ phụ nữ tham gia
các cơ quan công quyền ở các cấp địa phương; tỷ lệ nam giới và nữ giới ở trong quốc hội.
Tuy nhiên, GEM không phải là một chỉ số mang tính quy tắc với hệ chuẩn mực mang tính
toàn cầu. Điều cần thiết không phải là một tỷ lệ nhất định nam giới và nữ giới được lựa chọn
tham gia vào vũ đài kinh tế, chính trị mà là cung cấp sự bình đẳng về cơ hội lựa chọn cho cả nam
và nữ. GEM xem xét các kết quả của sự tham gia về kinh tế và chính trị. Những kết quả này có
thể được gây ra do những rào cản về cấu trúc đối với việc phụ nữ tiếp cận các vũ đài kinh tế,
chính trị; hoặc có thể được tạo ra do cả phụ nữ và nam giới đều mong muốn nắm giữ các vai trò
trong xã hội mà điều này lại phụ thuộc rất nhiều vào nền tảng văn hoá của mỗi quốc gia.

IV. Các tiêu chí đánh giá bình đẳng giới của các tác giả quốc tế phân theo lĩnh
vực đời sống kinh tế - xã hội
1. Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế
Nguồn: Bình đẳng giới trong giáo dục, việc làm và sở hữu doanh nghiệp: báo cáo
tổng kết tại cuộc họp Ban quản trị Hội đồng các nước OECD tại Paris, ngày 2324/5/2012.


-

-


-

-

-


-



Ngày nay, phụ nữ ngày càng có sự tham gia sâu rộng hơn trong thị trường lao động. Tuy nhiên
họ thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm đầu tiên, được trả công thấp hơn so với
nam giới, và nhiều khi làm các công việc bán thời gian.
Phụ nữ và nam giới có sự khác biệt về mọi lĩnh vực của cuộc sống như: chăm sóc sức khỏe, phúc
lợi xã hội, giáo dục và vai trò lãnh đạo, quản lý trong công việc.
Sự khác biệt giới sở dĩ tồn tại là do phụ nữ vẫn còn bị chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các công việc
không được trả công nhưng không thể tránh né như công việc gia đình: chăm sóc con cái, làm
việc nhà. Ở những nước kém phát triển, phụ nữ trẻ hầu như kém hơn so với nam giới ở vấn đề
tuyển dụng, hưởng giáo dục và đào tạo, và khi họ tham gia thị trường lao động. họ thường phải
làm rất nhiều công việc thấp kém, nhất là ở những thị trường lao động không chính thức.
Công việc chính thức và việc quán xuyến gia đình đã tạo nên sự khác biệt về giới trong thị
trường lao động. Với những gia đình có con nhỏ cần được chăm sóc thường xuyên, vì vậy phụ
nữ thường khó có cơ hội tìm kiếm việc làm.
Chính phủ ở các nước trên khắp thế giới đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy bình
đẳng giới, không những ở việc tiến hành các thảo luận về bình đẳng giới trong khi xây dựng
chính sách mà còn phải kiểm tra, đánh giá các vấn đề đó, để đảm bảo rằng cơ hội thụ hưởng các
chính sách công như nhau cho tất cả người lao động không phân biệt nam nữ. Chính phủ luôn
có những nỗ lực thay thế trong việc thúc đẩy bình đẳng giới để giúp phụ nữ cũng như nam giới
điều tiết đời sống gia đình với công việc xã hội, chăm sóc con cái.
Bà mẹ và phụ nữ với trình độ học vấn thấp khó có thể có việc làm được trả lương.
Các tiêu chí đánh giá:
Tỉ lệ phụ nữ tham gia thị trường lao động (nguồn: DỮ LIỆU VỀ LAO ĐỘNG CỦA OECD VÀ
ILO)
Để biết được mức độ bất bình đẳng trong việc tham gia thị trường lao động của phụ nữ, người ta
sử dụng chỉ số Gender gap (khoảng cách giới), ở đây tính bằng chênh lệch tỉ lệ nam giới tham

gia thị trường lao động tính chung cho tất cả những người nam trong độ tuổi lao động (15-64)
và tỉ lệ lao động là nữ giới (đơn vị là %). Chỉ số này càng cao chứng tỏ sự bất bình đẳng càng
lớn.
Theo đó, các khu vực có sự bất bình đẳng lớn là: Nam Á với chỉ số qua các năm 1990, 2000,
2010 lần lượt là 48%, 42% và 38%; Trung Đông và Bắc Phi lần lượt tương ứng là 59%, 55%,
51%; trong khi ở nhóm nước OECD các chỉ số lần lượt là 22%, 19%, 14%. Nhìn chung chỉ số
này giảm dần về độ lớn qua các năm 1990, 2000, 2010 chứng tỏ sự bất bình đẳng trong việc
tham gia thị trường lao động đã được cải thiện. Tuy nhiên ở một số khu vực sự chênh lệch về tỉ
lệ tham gia thị trường lao động của nam giới so với phụ nữ còn quá cao (trên dưới 50%), chứng
tỏ sự bất bình đẳng giới là rất lớn.
tính trung bình trong các nước OECD vào năm 2010, tỉ lệ phụ nữ tham gia thị trường lao động
là 65% so với 58% những năm 1990. Tuy nhiên, cần cân nhắc sự khác nhau giữa các nước. Năm
2010, tỉ lệ này là hơn 75% ở Trung Quốc, các nước Nordic và Switzerland tới dưới 50% ở Ấn
Độ, Mexico, Nam phi và Thụy Sĩ.
Ở nhóm các nước Trung Đông và Bắc Phi (nhóm các nước MENA), tuy có sự giảm đáng kể
khoảng cách phân biệt giới trong giáo dục và y tế, nhưng sự cải thiện đầu ra trên thị trường lao
động còn mờ nhạt, sự tăng lên tỉ lệ phụ nữ tham gia thị trường lao động qua 2 thập kỷ qua
(1990-2010) còn ít: từ 22% năm 1990 lên 30% năm 2010.
Tỉ lệ phụ nữ nắm giữ vai trò lãnh đạo, quản lý:
Đo bằng tỉ lệ phần trăm phụ nữ là lãnh đạo, quản lý.


Theo báo cáo tỉ lệ phụ nữ làm các công việc quản lý, lãnh đạo năm 2007 của một số nước của
OECD thì:
- Tính trung bình, ở các nước OECD, chỉ có 1/3 giám đốc, nhà quản lý là phụ nữ, tỉ lệ này cao
nhất ở Pháp, Phần Lan và Mỹ (khoảng 35%),
 Khác biệt giới về thời gian lao động :
- Các tiêu chí đánh giá: tỉ lệ phần trăm phụ nữ và nam giới tham gia công việc bán thời gian (là
công việc thường làm dưới 30 giờ một tuần);
- Phụ nữ thường là làm ít công việc toàn thời gian hơn nam giới, nhiều khi họ làm các công việc

bán thời gian và thời vụ:
Đo lường bằng khoảng cách giới trong tiêu chí này là % chênh lệch tỉ lệ làm việc bán thời gian
của nam so với nữ.
 Khác biệt về tiền lương:
- Đo lường bằng chênh lệch trong tiền lương được chi trả cho phụ nữ và nam giới, tức là lấy tỷ lệ
tiền lương của nam giới trong tổng tiền lương trừ đi tỷ lệ tiền lương của phụ nữ trong tổng tiền
lương.
2. Bình đẳng giới trong giáo dục
Hiểu biết chung:
Giáo dục là vấn đề trung tâm để phát triển con người, và bình đẳng giới trong giáo dục là điều
cần thiết cho việc thiết lập các chính sách xã hội sau này và xây dựng bình đẳng giới trong các
lĩnh vực khác của đời sống.
- Để khám phá vấn đề bình đẳng giới trong giáo dục, chúng ta phải phân biệt được các tiêu
chuẩn đánh giá và kết quả đạt được.
- Hầu hết các nước trên thế giới đểu cung cấp một hệ thống giáo dục phổ cập bậc tiểu học, tuy
nhiên có sự khác biệt về các cấp học, và điều đó khiến chính sách cần phải sáng suốt trong việc
nâng cấp chất lượng giáo dục.
-Nữ thường tốt hơn nam ở các môn học đọc hiểu, nam thì lại thường có xu hướng tốt hơn ở các
môn liên quan tính toán, logic. Và sự khác biệt về những định kiến mà chúng ta thường hình
dung về sự khác biệt giới là sự giải thích cho những sự khác biệt do giới này. Chẳng hạn như,
khi hình dung về công việc y tá, người ta thường nghĩ tới các cô y tá, các công việc khác thường
được liên tưởng như nữ giáo viên, nữ nhà văn…, trong khi bàn về các nhà khoa học, các kỹ sư,
các lập trình viên, các bác sĩ chuyên khoa, người ta nghĩ ngay tới nam giới.
- Nữ thường tỏ ra có thành tích tốt hơn trong học thuật và được kỳ vọng được nắm giữ những vị
trí cao về việc làm, tuy nhiên thực tế lại có sự phân biệt giới rõ rệt về thăng tiến nghề nghiệp, cơ
hội nghề nghiệp.
- Ở những nước thu nhập thấp, phụ nữ trẻ hầu như không những không được tiếp cận nhiều các
công việc tính lương mà còn cả cơ hội thụ hưởng giáo dục và đào tạo đều kém hơn so với nam
giới.
- Giáo dục và học tập ở các nước đang phát triển đối với trẻ em nữ và phụ nữ là một hiện

tượng xã hội phức tạp. Ngoài các hạn chế tính đến bởi sự khác biệt môi trường giáo dục, cần
phải xét đến các yếu tố bình đẳng giới trong giáo dục liên quan tới thể chế xã hội, thể chế kinh
tế, chính trị và các thể chế khác. Nói cách khác, như một sự sắp xếp trật tự xã hội và tiến trình
xã hội, giáo dục và trường học cho trẻ em gái và phu nữ được xem trong cơ chế gia đình, xã hội,
nền kinh tế, chính trị và các môi trường pháp lý khác được công nhận.



-

-

-

- Căn cứ để xây dựng bình đẳng giới trong giáo dục là dựa trên các báo cáo về các chương trình
giáo dục, chúng ta có thể nhận thấy rằng giáo dục phụ thuộc vào nhận thức về các khía cạnh liên
quan đến điều kiện kinh tế và điều kiện văn hóa. Tuy nhiên các cấp độ sáng kiến cải thiện chính
sách chủ yếu tập trung trực tiếp vào môi trường học đường. Những sáng kiến nhấn mạnh những
thành tựu đạt được của giáo dục và kết quả đầu ra, hoặc điều kiện học đường. Tuy nhiên không
thể xem xét bình đẳng giới trong giáo dục trong những cách tiếp cận đơn lẻ mà phải tiếp cận
một cách tổng hợp về giáo dục và nhà trường một cách rõ ràng trong sự tương tác về xây dựng
chính sách, chương trình dự án và tổ chức thực hiện.
Các tiêu chí đánh giá bình đẳng giới trong giáo dục
Tỉ lệ tuyển sinh ( Gross enrolment ratio GER) các cấp, GPI (gender parity index) tương ứng với
các chỉ số:
Theo báo cáo của OECD meeting năm 2012:
Mặc dù ở hầu hết các nước trên thế giới, giáo dục tiểu học đã trở nên bắt buộc với tuổi trung bình
bắt đầu đi học là 6 tuổi thì ở Tây phi, tỉ lệ tuyển sinh tiểu học là 70% và ở Nam phi và Trung
Phi, tỉ lệ này chỉ khoảng 80%. Theo các theo dõi đánh giá ở Tây, Đông và Trung Phi và Nam Á
thì có sự khác biệt về tỉ lệ này (số trẻ em nữ đến tuổi đi học được đến trường ít hơn trẻ em nam).

10 nước có sự bất bình đẳng cao nhất đều nằm trong các nhóm nước trên. Chẳng hạn như ở Tây
Phi, tỉ lệ tuyển sinh tiểu học năm 2000 đạt 60%, năm 2010 đạt khoảng 70%, GPI (sự cân bằng
giữa nữ giới và nam giới) ở đây là tỉ lệ trẻ em gái/ trẻ em trai được đi học năm 2000 chỉ đạt 0.8.
Ở cấp trung học, trẻ em gái càng bị bất lợi hơn với tỉ lệ tuyển sinh thấp. ví dụ như ở Đông và
Trung Phi, tỉ lệ tuyển sinh chỉ đạt 30% năm 2000, và 40% năm 2010, GPI đạt 0.8. Ở Tây Phi,
GER đạt khoảng 25% năm 2000 và 40 % năm 2010, GPI năm 2000 chỉ đạt hơn 0.6, GPI năm
2010 đạt gần 0.8.
Ở các cấp cao hơn, giới nữ càng tham gia ít hơn nam giới.
Bởi vậy cần xây dựng các chính sách giảm bớt sự bất bình đẳng này, nhất là ở cấp tiểu học và
trung học. Nâng cao nhận thức của gia đình và trẻ em trong việc hiểu lợi ích mà giáo dục mang
lại. Giảm thiểu chi phí giáo dục trực tiếp và chi phí gián tiếp. Giảm hiện tượng bỏ học băng
cách nâng cao nhận thức về việc thụ hưởng lợi ích giáo dục.
3.Các tiêu chí đánh giá bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị (tham chính, quyền năng
chính trị)
Một số tiêu chí đã được xây dựng trong chỉ số GEI, GEM.
4. Bình đẳng giới trong gia đình
Điều 18. Bình đẳng giới trong gia đình (luật Bình đẳng giới 2006 của Việt Nam)
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn
nhân và gia đình.
2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử
dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình.
3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp
kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp
luật.
4. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao
động, vui chơi, giải trí và phát triển.
5. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.
IV. Danh mục tài liệu tham khảo



1. Preet Rustagi, Significance of Gender-relatedDevelopment Indicators: An Analysis of
Indian States.
2. Gender Equality Policy and Guide forThe EEA Financial Mechanism&The Norwegian
Financial Mechanism, adopted on 07 april 2006
3. Lilja Mósesdóttir, Evaluating Gender Equality in the Icelandic Labour Market, 2001.
4. Shahra Razavi Research Coordinator United Nations Research Institute for Social
Development (UNRISD), World Development Report 2012: Gender Equality and Development
An Opportunity Both Welcome and Missed (An Extended Commentary), 5/10/2011.
5. ITUC, Gender (in)equality in the labour market: an overview of global trends and
developments
6. Caroline Forrell, Gender Equality, Social Values and Provocaion Law in the United States,
Canada and Australia, Journal of Gender, Social Policy & the Law, 2006.
7. USAID, gender equality and female empowerment policy, march 2012.
8. Mari-Anne Okkolin University of Jyväskylä, Educational Agency – Conceptualising the
Assessment and Evaluation of Gender Equality and Education
9. Kalpana BardhanBerkeley, CA USA Stephan Klase
King'sCollege Cambridge UK, UNDP.s Gender-Related Indices: A Critical Review, August
24, 1997.
10. OECD, gender equality in education, employment and entrepreneurship: Final Report to the
MCM 2012, 23-24 may 2012.
11. Government offices of Sweeden, gender equaity in the labour market and business sector.
12. UNESCO‐IIEP, Gender Equality in Education: Looking beyond Parity An IIEP
Evidence‐Based Policy Forum, Paris, france, 3-4 october 2011.



×