Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

skkn mam non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.74 KB, 17 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2006-2007
A. Phần mở đầu.
------------------***------------------


Bản thu hoạch tốt nghiệp
điều tra hoạt động chăm sóc sức khỏe
tại trạm y tế xã
Họ và tên: bùi văn bình
Lớp: k 10d
ngày 10 tháng 9 năm 2007.
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2006-2007
I. Lý do chọn đề tài.
Ngành học Mầm non là một ngành học nằm trong hệ thống giáo dục Quốc
dân. Trẻ đến trờng Mầm non đợc học qua chơi, đợc chăm sóc nh một gia đình. Tr-
ờng Mầm non chính là một cái nôi để trẻ phát triển toàn diện về: Trí - Đức -
Thể - Mỹ. Ngôi trờng mần non chính là môi trờng thuận lợi nhất, nó là nơi dặt nền
móng đầu tiên tạo điều kiện cho sự phát triển những phôi thai sáng tạo còn ấp ủ
trong trẻ. Muốn giáo dục trẻ tốt thì nhà giáo dục cần tác độngđến trẻ từ nhiều phía
khác nhau nh: làm quen với MTXQ, làm quen với biểu tợng về toán, làm quen với
các tác phẩm văn học v.v
Tác phẩm văn học là một trong những môn học không chỉ giúp cho trẻ phát
triển tốt ngôn ngữ mà còn hình thành cho trẻ những tình cảm đạo đức tốt đẹp biết
yêu thơng con ngời , thiên nhiên , con vật , đồ vật gần gủi vởi trẻ . giúp trẻ biết
đợc cái xấu cái đẹp , cái thiện cái ác . văn học còn cung cấp cho trẻ những tri
thức và kinh nghiệm về sản xuất , kinh nghiệm về đấu tranh.
.Nói tóm lại, văn học gắn bó với tuổi thơ của trẻ, nuôi dỡng và phát triển tâm hồn
trẻ, truyền cho trẻ vẻ đẹp truyền thống của dân tộc đó là: lòng nhân ái, thuỷ chung,
yêu công lý, yêu nớc thơng nòi, lạc quan và tin vào tơng lai.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của bộ môn Văn học trong trờng Mẫu giáo
nh vậy. Tôi luôn phấn đấu suy nghĩ cải cách phơng pháp giảng dạy làm sao cho các


cháu tiếp thu bài một cách thoải mái, nhẹ nhàng và để đạt đợc mục đích trên, tôi
chọn môn Văn học làm đề tài cho việc viết sáng kiến kinh nghiệm.
II. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm ra một số biện pháp để nâng cao chất lợng dạy học bộ môn Văn học
trong trờng Mầm non . Giúp các cháu Mẫu giáo có điều kiện nắm vững một số kỹ
năng vận động, hiểu sâu, nhớ lâu hơn trong từng bài học.
- Góp phần đổi mới cách dạy và cách học. Nhằm nâng cao chất lợng giáo dục
trong nhà trờng Mẫu giáo.
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2006-2007
III. Đối tợng nghiên cứu.
Nhận thức đợc tầm quan trọng của bộ môn nh vậy và tìm ra đợc những phơng
pháp nghiên cứu khoa học, tôi đã chọn lớp Mẫu giáo 5-6 trờng Mầm non Hoằng
Kim làm đối tợng nghiên cứu.
IV. Phơng pháp nghiên cứu.
- Phơng pháp điều tra.
- Phơng pháp phỏng vấn.
- Phơng pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phơng pháp thực nghiệm s phạm.
Nhận thức đợc vai trò của bộ môn Văn học trong trờng Mẫu giáo và muốn
truyền đạt đợc nội dung của bài theo yêu cầu đề ra đến với trẻ một cách dễ dàng,
nhanh chóng. Trẻ nhanh thuộc và hiểu sâu kiến thức đa ra, tôi luôn nghiên cứu và đ-
a ra các phơng pháp dạy nh:
- Phơng pháp đọc, kể diễn cảm.
- Phơng pháp trực quan.
- Phơng pháp đàm thoại - giảng giải.
- Phơng pháp tổ chức các hoạt động khác.
Các phơng pháp này tôi đa ra một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với từng
đối tợng, từng loại bài, từng loại tiết khác nhau, tạo cho trẻ sự thoải mái. Mặt khác,
tôi luôn tìm tòi những tài liệu, những câu chuyện, bài thơ, tranh ảnh mang nội dung,
ý nghĩa thích hợp để hỗ trợ cho đề tài dạy trẻ. Giúp trẻ hiểu rõ, hiểu sâu hơn nội

dung của tiết dạy đó.
B. Nội dung
I. cơ sở thực tế.
1. Thuận lợi: Trong một môi trờng đạt chuẩn Quốc gia, khang trang và khá đầy đủ
trang thiết bị, cùng với sự quan tâm giúp đỡ của Phòng giáo dục, UBND xã, cùng
với sự dìu dắt nhiệt tình của Ban Giám hiệu, của chị em đồng nghiệp, của các bậc
phụ huynh đã giúp tôi tự tin hơn khi cho trẻ tiếp xúc với Văn học. Mặt khác,tôi đợc
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2006-2007
BGH phân công cho đứng lớp 5-6 tuổi, lớp tôi trực tiếp giảng dạy có 34 cháu (trong
đó có 17 Nam và 17 Nữ) các cháu đi học thờng xuyên, mạnh dạn, hứng thú trong
học tập và vui chơi. Mỗi cháu đều có truyện thơ chữ to, phấn bảng, vở tạo hình, giấy
A4, bút chì, bút sáp để có thể vẽ lại hình ảnh trong các câu chuyện, bài thơ trẻ đợc
học, đặc biệt có trang phục để thể hiện nhân vật.
2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên thì vẫn còn có những khó khăn đáng
kể về đồ dùng nh: Con rối, con giống, đặc biệt tranh truyện, chữ to. Nhiều cháu còn
non yếu, nói lắp, nói ngọng, phần đa các cháu là con nông thôn nên còn phát âm
tiếng địa phơng rất nhiều.
Từ những thuận lời và khó khăn trên, bản thân tôi luôn luôn suy nghĩ, trăn trở
và đa ra biện pháp thực hiện sao cho phù hợp để giúp trẻ tiếp thu tác phẩm văn học
một cách tốt nhất.
II. Phân loại đối tợng cháu.
1. Phân loại đối tợng cháu: Phải nói rằng đây là một trong những bộ môn đã đợc
đổi mới qua chuyên đề. Muốn cho các cháu tiếp xúc với bộ môn Văn học tốt, thì
điều đầu tiên là tôi sẽ phân loại các cháu. Không phải trong lớp các cháu đều có
nhận thức nh nhau, nếu đặt câu hỏi dễ các cháu nhận thức nhanh sẽ không phát
triển đợc trí thông minh, nếu đặt câu hỏi khó các cháu nhận thức chậm sẽ không
tiếp thu đợc bài. Chính vì thế ngay từ đầu năm, tôi đã khảo sát khả năng đọc và hiểu
nội dung thơ, truyện ở trẻ và phân các cháu thành ba đối tợng, tôi đã thu đợc kết
quả nh sau:
Bảng 1: Khảo sát đầu năm

Tổng số trẻ Kiến thức trẻ thu nhận
34
Số cháu nhận thức nhanh,
có sáng tạo (Tốt)
Số cháu nhận thức
đợc bài (Khá)
Số cháu nhận
thức chậm (TB)
09 đạt 26,4% 15 đạt 44,1% 10 đạt 29,5%
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2006-2007
Từ kết quả trên trong từng bài dạy, tôi đã nghiên cứu phân loại câu hỏi cho
từng đối tợng và kết hợp vào các hoạt động khác giúp đỡ trẻ khi vào bài mới trẻ tiếp
thu bài một cách thoải mái. Đặc biệt trong giờ dạy tôi luôn tạo không khí học mà
chơi, chơi mà học, tạo sự nhẹ nhàng cho trẻ. Qua câu chuyện, bài thơ tôi biết kết
hợp nhiều nội dung thích hợp, phù hợp với nội dung câu chuyện, bài thơ để trẻ có
thể nhớ lâu, nhớ sâu và nhớ nhanh. Đặc biệt những cháu có nhận thức chậm trong
mọi lúc, mọi nơi, tôi luôn cho trẻ xem tranh, giảng giải nội dung của bức tranh
trong câu chuyện, bài thơ để trẻ dần dần khắc sâu trong trí nhớ của trẻ, hình thành
tính cách nhân vật trong nội dung bài thơ, câu chuyện mà cô đa ra, từ đó hớng tới
tiết học chính đạt kết quả cao.
Những cháu có tính nhút nhát, chậm hiểu, không giơ tay phát biểu ý kiến nh:
cháu Quỳnh; cháu Trang; cháu Hà; cháu Lan tôi nhẹ nhàng gọi các cháu lên
khuyến khích các cháu trả lời những câu hỏi dễ nh: Cô vừa đọc bài thơ (câu chuyện)
gì? Trong chuyện có những nhân vật gì? Con thấy nhân vật nào tốt?...vv, khích lệ để
trẻ trả lời từ đấy trẻ sẽ mạnh dạn trả lời những câu hỏi khó hơn, trìu tợng hơn.
Những cháu tiếp thu bài tốt thì đặt những câu hỏi khó hơn nh:
+ Trong chuyện có những nhân vật (con vật) nào?
+ Nhân vật đó làm gì?
+ Tính cách nhân vật đó ra sao?
để trẻ có thể suy nghĩ đặt đợc tính cách của nhân vật. Trong những câu chuyện su

tầm Cô có thể cho trẻ nhận thức khá có sáng tạo đặt tên cho câu chuyện.
Nói tóm lại, trong quá trình giảng dạy tôi luôn tìm tòi những phơng pháp dạy
phù hợp với từng đối tợng cháu với mục đích giúp trẻ hiểu bài, phát triển tốt lời nói,
từ ngữ câu và hình thành những tính cách, t tởng, tình cảm tốt đẹp ở trẻ, từ đó giúp
trẻ yêu thích môn Văn học hơn.
2. Vào bài gây hứng thú.
Muốn gây đợc hứng thú cho trẻ, ngay từ đầu giờ học tôi đã suy nghĩ trong
từng bài dạy làm sao để có những mở bài sinh động, gây đợc hấp dẫn đối với trẻ
Sáng kiến kinh nghiệm Năm học : 2006-2007
bằng nhiều hình thức khác nhau nh: hoặc sa bàn, con rối, con giống có thể dùng
hành động mô phỏng. Đặc biệt là tranh truyện, tôi cho trẻ xem tranh bìa, tranh vẽ
mô tả câu chuyện tôi cho trẻ xem và giải thích từng trang tranh để trẻ hiểu qua về
nội dung thơ (truyện) đó.
Ví dụ: Với câu chuyện Ba cô gái .
đầu tiên tôi cho trẻ xem tranh bìa để giới thiệu tên chuyện( chỉ vào từng chữ trong
tranh bìa ) sau đó tôi chỉ vào từng nhân vật và giới thiệu : đây là bà mẹ sinh ra ba
chị em gái, đây là cô cả , dây là cô hai còn đây là cô ba.
Bà mẹ thì hết lòng thơng yêu các con , các con đều lớn lên và đã di lấy chồng hết,
nhng các con có thơng mẹ không? Khi mẹ ốm có về thăm mẹ không? Cô mời các
con hãy nghe cô kể câu chuyện này nhé.
Hoặc tôi có thể cho trẻ khác chơi trò chơi ghép tranh, thực hiện nh một phần thi: Bật
qua 2-3 vòng để lấy miếng ghép, nhìn ký hiệu sau miếng ghép trùng với ký hiệu
miếng ghép trên bảng nh (các chữ cái đã học hoặc các hình học ,các con vật )
vừa tạo sự hấp dẫn, hứng thú cho trẻ vừa tạo sự tò mò, ham hiểu biết ở trẻ. Tạo sự
suy đoán ở trẻ xem sắp xếp tạo thành bức tranh vẽ gì? vẽ nh thế nào? Bức tranh có
trong câu chuyện (bài thơ) gì?
Ví dụ: Tôi dạy bài thơ : Trăng ơi từ đâu đến
Tôi cho trẻ lên ghép bức tranh có nội dung
+ Trăng tròn trên sân nhà
+ Trăng tròn chiếu xuống mặt nớc

+ Cảnh trăng trên sân một vài trể đang chơi đá bóng
Tóm lại, tôi luôn tạo sự tò mò, ham hiểu biết ở trẻ, giúp trẻ có hứng thú khi học bài.
3. Vận dụng các phơng pháp dạy học linh hoạt, sáng tạo.
Để truyền đạt đợc kiến thức cho trẻ, trớc hết tôi phải nắm vững nội dung bài giảng,
nắm chắc phơng pháp cụ thể cho từng loại bài, từng loại tiết để vận dụng phơng
pháp dạy phù hợp.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×