Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Xử lý vi phạm hành chính đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.27 KB, 19 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục
tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”.
Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đã khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu,
động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với
kinh tế, chính trị, xã hội”.
Đối với tỉnh Bình Phước, sau hơn 18 năm tái lập tỉnh các hoạt động văn
hóa, thể thao và du lịch đã góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế chính trị - xã hội ở địa phương. Cùng với nhiều loại hình hoạt động trong lĩnh
vực văn hóa, phát triển về loại hình karaoke là nhu cầu cần thiết của xã hội.
đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá chính đáng của người dân, đặc biệt là của
thế hệ trẻ. Do đó, trong thời gian qua hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
Karaoke trên địa bàn tỉnh phát triển tương đối mạnh mẽ, tác động không nho
đến đời sống văn hóa tinh thần của xã hội, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng
thụ văn hóa, vui chơi, giải trí của nhân dân; công tác quản lý hoạt động
karaoke trên địa bàn tỉnh đã dần dần đi vào nề nếp. Phần lớn các chủ cơ sở
kinh doanh đã có ý thức trong việc thực hiện và chấp hành các quy định của
pháp luật. Nhiều cơ sở đã có sự đầu tư, nâng cao chất lượng dịch vụ và trang
thiết bị phục vụ. Công tác quản lý nhà nước về hoạt động văn hóa, dịch vụ
văn hóa nói chung và hoạt động karaoke nói riêng được chú trọng và tăng
cường, các hiện tượng tiêu cực trong hoạt động karaoke từng bước được hạn
chế.
Đối với thị xã Đồng Xoài, cùng với quá trình phát triển đô thị hóa
nhiều hoạt động văn hóa đã nhanh chóng phát triển với nhiều mô hình như:
Các câu lạc bộ, đội nhóm văn hóa văn nghệ do tư nhân bo vốn đầu tư; hoạt
động vũ trường; cửa hàng kinh doanh băng đĩa hình, nhạc; tụ điểm hát cho

1



nhau nghe; sân khấu ca nhạc ngoài trời; tụ điểm vui chơi giải trí dành cho
thiếu nhi; rạp chiếu phim; siêu thị sách. . . Trong giai đoạn này, loại hình
kinh doanh Karaoke phát triển khá mạnh do các chủ doanh nghiệp, chủ cơ sở
đầu tư ở mức độ vừa và nho đã góp phần làm phong phú, đa dạng hơn hoạt
động văn hóa; thu hút đông đảo mọi tầng lớp, đối tượng đến tham gia sinh
hoạt vui chơi, giao lưu trong thời gian rảnh rỗi. Những năm đầu triển khai,
một mặt đã phát huy được tính tích cực, góp phần không nho cùng các thiết
chế văn hóa của Nhà nước như: Nhà văn hóa, câu lạc bộ, thư viện, bảo tàng
đã góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân địa
phương, đồng thời nhận được sự đồng tình của xã hội đã cho thấy, khẳng định
chủ trương của Đảng và Nhà nước là đúng đắn, thiết thực.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây việc vi phạm các quy định của Nhà
nước trong hoạt động kinh doanh karaoke lại khá phổ biến từ những vi phạm
nho đến vi phạm lớn. Cùng với quá trình hội nhập, một số cơ sở kinh doanh
đã lợi dụng loại hình kinh doanh này tìm cách hoạt động biến tướng, trá hình,
gây ra hậu quả xấu. Các biểu hiện tiêu cực và các vi phạm ngày càng nghiêm
trọng như: hoạt động quá giờ quy định, sử dụng băng, đĩa ca nhạc có nội dung
cấm phổ biến, lưu hành trên thị trường; tổ chức múa khoả thân, khiêu dâm; sử
dụng hêroin, thuốc lắc; biến địa điểm kinh doanh thành nơi ăn chơi sa đoạ;
hoạt động mại dâm hoặc môi giới mại dâm; sử dụng hung khí hoặc thuê bảo
kê giết người v.v... Những biểu hiện tiêu cực trên đây làm xói mòn đạo đức,
lối sống, ảnh hưởng xấu đến truyền thống văn hoá, thuần phong mỹ tục của
dân tộc, gây mất an ninh trật tự tại địa phương và một số nơi công cộng, tạo
nên sự lo lắng và phản ứng gay gắt của quần chúng nhân dân.
Trước báo động về thực trạng hoạt động trong lĩnh vực karaoke luôn
diễn biến phức tạp, em xin chọn: “Tình huống xử lý vi phạm hành chính đối
với hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke trên địa bàn thị xã Đồng Xoài” để
làm đề tài cuối khóa “Lớp bồi dưỡng nghiệp vụ Quản lý nhà nước ngạch
chuyên viên chính năm 2016.


2


I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh tình huống
Bà Đỗ Thị Tuyết đăng ký thường trú tại số 58/1193 khu phố 2, phường
Tân Đồng, Thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. Năm 2000 bà Đỗ Thị Tuyết
từ Thành phố Hồ Chí Minh đến thị xã Đồng Xoài để làm ăn sinh sống, bà
mua đất, xây nhà và thành lập Doanh nghiệp tư nhân tại địa chỉ: số 58/1193
khu phố 2, phường Tân Đồng, Thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.
Sau khi tiến hành thủ tục, bà Đỗ Thị Tuyết đã được Sở Kế hoạch và Đầu
tư tỉnh Bình Phước cấp giấy phép thành lập Doanh nghiệp tư nhân số: MLA
010160823 cấp ngày 15/5/2008, mang tên “MTV” với ngành nghề kinh
doanh: Nhà hàng tiệc cưới, vũ trường, karaoke, massage, cà phê giải khác,
kinh doanh rượu bia, thuốc lá.
2. Nội dung tình huống
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, cơ sở MTV thường để xảy ra
tình trạng mất an ninh trật tự, gây nhiều bức xúc cho người dân chung quanh.
Ngày 16/5/2013, nhân dân khu phố 2, phường Tân Đồng có đơn tố cáo phản
ảnh về những biểu hiện thiếu lành mạnh tại cơ sở này như: Nhân viên nữ mặc
trang phục hở hang khiêu dâm, gây phản cảm, có lúc nhảy múa thoát y tại
phòng karaoke cùng với khách; thường xuyên hoạt động quá giờ quy định,
mất an ninh trật tự ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân chung
quanh và làm ảnh hưởng đến phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư”.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
1. Cở sở lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh dịch vụ karaoke
1.1. Cơ sở lý luận:
Karaoke bắt nguồn từ sự kết hợp của chữ KARA có nghĩa là “không”;

với chữ OKE (viết tắt của chữ Okesutora) có nghĩa là dàn nhạc. Karaoke cấu

3


tạo bởi 2 phần: phần nhạc nền được ghi âm trước được phối đồng bộ với phần
chữ lời bài hát; phần xướng dành cho người biểu diễn (hát) trực tiếp cầm
micro biểu diễn theo nhạc và chữ chạy trên màn hình (tivi).
Nền công nghệ tiên tiến, hiện đại cùng với tốc độ đô thị hóa cao đã làm
cho môi trường bị ô nhiễm; không gian nghỉ ngơi ngoài trời bị hạn chế, chính
vì vậy sự phát triển các hoạt động giải trí trong nhà như các quán Bar, vũ
trường, phòng hát karaoke… là cần thiết. Sự vượt trội của DVD âm nhạc như
một hình thái kinh doanh của ngành công nghiệp âm nhạc mang phong cách
dân gian - hiện đại là điều kiện tiên phong cho sự phát triển của karaoke.
Karaoke thật sự bùng phát khi công nghệ đĩa Laser và DVD cho phép
những bài hát thể hiện trên màn hình tivi, trong khi âm nhạc nổi lên và xác
định vị trí của từng bài hát. Vì quyền lợi của các công ty âm nhạc, việc
thương mại hóa kinh doanh karaoke là trung gian tuyệt vời cho sự quảng cáo
các bài hát âm nhạc Pop và các ngôi sao mới.
Karaoke trong tiến trình phát triển đã có sự tiến hóa nhất định. Từ
những ngày đầu ghi trên băng đĩa; karaoke được chuyển sang đĩa DVD
(Compact disc), cuối cùng kết hợp với Video, đồ họa nhạc với lời bài hát hiện
trên màn hình nhắc cho những người không nhớ lời nhạc. Một ngành công
nghiệp đã được mở ra xung quanh karaoke và các sản phẩm kỹ thuật đã được
chuyển dụng để nâng cao trình diễn. Những dàn máy tại gia đình, các thư viện
phần mềm được hoàn thiện, các micro cho khách và những chiếc hộp có sẵn;
chúng đang sẵn sàng “vào cuộc hát karaoke”. Các phòng thu đã mở cửa cho
khách khi có yêu cầu đến để thu âm giọng hát của mình; đồng thời các cuộc
thi hát karaoke được tổ chức ở nhiều nơi. Karaoke ngày càng được biết đến
không chỉ ở Nhật mà còn lan rộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đồng thời

phát triển từ thành thị đến nông thôn. Tất cả các quốc gia đã tiếp thu nó như
một giá trị văn hóa và đưa vào hoạt động trong cuộc sống hàng ngày, được
xem là món ăn tinh thần của từng dân tộc. Việt Nam cũng đã sớm tiếp thu giá
trị văn hóa này, đến nay phát triển trên phạm vi toàn quốc.

4


Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa mở rộng giao
lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, kết
hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Chính vì thế,
karaoke được tiếp nhận, ứng dụng trong đời sống và được xem như món ăn
tinh thần của người Việt. Vào khoảng năm 1980 karaoke được du nhập vào
Việt Nam; tại Việt Nam chúng ta phải công nhận, đó chính là sự học hoi và
tiếp thu văn hóa của nhân loại và ứng dụng vào cuộc sống; điều đó “khẳng
định karaoke là một sinh hoạt văn hóa hiện đại”. Đối với tỉnh Bình Phước nói
chung và thị xã Đồng Xoài nói riêng sau khi tái lập tỉnh vào đầu năm 1997,
loại hình karaoke đã góp phần không nho vào các hoạt động văn hóa lành
mạnh của địa phương, đáp ứng như cầu hưởng thụ về văn hóa của nhân dân.
1.2. Cơ sở pháp lý:
Do sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa trong đó có
dịch vụ kinh doanh karaoke có chiều hướng “đi chệch”; tình hình quản lý các
hoạt động văn hóa có biểu hiện buông long, thiếu kiên quyết. Hệ thống các
văn bản pháp quy của Nhà nước về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ văn
hóa nói chung, karaoke nói riêng ra đời và ngày càng hoàn thiện làm cơ sở
pháp lý quan trọng nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trên lĩnh vực hoạt động này,
bao gồm:
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
- Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2008.

- Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2008.
- Nghị định số 178/2004/NĐ-CP ngày 15/10/2004 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm.

5


- Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 26/6/2006 của Chính Phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa.
- Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính
sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục,
dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
- Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ về
ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công
cộng.
- Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/710/2010 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa.
- Thông tư số 04/2009/TT-BVHTTDL ngày 16/12/2009 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về việc quy định chi tiết thi hành một số quy định tại
Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng.
- Thông tư số 09/2010/TT-BVHTTDL ngày 24/8/2010 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về quy định chi tiết thi hành một số quy định tại
Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa.
- Thông tư số 39/2010/TT-BTNMT ngày 16/12/2010 của Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc quy định Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường.

- Chỉ thị 17/2005/CT-TTg ngày 25/5/2005 của Thủ tướng chính phủ về
việc chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong quán bar, nhà hàng, karaoke, vũ
trường (bãi bo Chỉ thị 814/TTg).
Ngoài ra tùy theo tính chất mức độ của từng hành vi mà tổ chức cá nhân
kinh doanh karaoke vi phạm sẽ đồng thời bị xử lý theo quy định của pháp luật
đối với lĩnh vực có liên quan. Ví dụ như: Nếu các tổ chức cá nhân kinh doanh
karaoke không đảm bảo quy định về tiếng ồn thì bị xử lý tại Nghị định số
117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

6


Bên cạnh những văn bản có giá trị trên nhằm điều chỉnh hoạt động
karaoke thì Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công
cộng ban hành kèm theo Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của
Chính phủ quy định rõ điều kiện kinh doanh karaoke, thẩm quyền cấp phép
kinh doanh karaoke, trách nhiệm của chủ cơ sở kinh doanh karaoke, quy định
cấm đối trong hoạt động kinh doanh karaoke. Đây cũng là văn bản pháp lý
quan trọng góp phần quản lý có hiệu quả hoạt động Karaoke.
2. Diễn biến tình huống:
Ngày 16/5/2013, nhân dân khu phố 2, phường Tân Đồng có đơn tố giác
đến Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Phước phản ảnh về những
biểu hiện thiếu lành mạnh tại cơ sở kinh doanh MTV như: Nhân viên nữ mặc
trang phục hở hang khiêu dâm, gây phản cảm, có lúc nhảy múa thoát y tại
phòng karaoke cùng với khách; thường xuyên hoạt động quá giờ quy định,
mất an ninh trật tự ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân chung
quanh và làm ảnh hưởng đến phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” ở khu dân cư.
Trước tình hình đó, ngày 20/5/2013 Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và

Du lịch tỉnh Bình Phước đã chỉ đạo Đội trưởng Đội kiểm tra liên ngành văn
hóa xã hội tỉnh tiến hành triển khai kế hoạch kiểm tra, khảo sát, nắm bắt tình
hình và đã xác định nội dung đơn tố giác là có cơ sở. Vào lúc 21 giờ 45 phút,
ngày 23/5/2013, Đội kiểm tra liên ngành tỉnh phối hợp Công an phường Tân
Đồng, thị xã Đồng Xoài tiến hành tổ chức kiểm tra tại địa điểm hoạt động
Karaoke của Doanh nghiệp tư nhân MTV. Qua kiểm tra đã phát hiện các lỗi
vi phạm như sau:
- Tắt đèn tại phòng karaoke khi đang hoạt động;
- Sử dụng tiếp viên phục vụ tại cơ sở kinh doanh mà không có hợp đồng
lao động;

7


- Sử dụng 5 tiếp viên nữ ngồi chung với khách trong một phòng
Karaoke;
- Nhảy múa thoát y tại phòng karaoke.
Đội kiểm tra liên ngành văn hóa xã hội tỉnh tiến hành lập biên bản vi
phạm hành chính đối với cơ cở này.
3. Nguyên nhân:
3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
- Công tác quản lý nhà nước còn buông lõng, thiếu sự đồng bộ, chồng
chéo và thậm chí còn vô hiệu hóa lẫn nhau. Ngành này đình chỉ, thu hồi giấy
phép đăng ký kinh doanh thì ngành khác lại cấp.
- Công tác thanh tra, xử lý tệ nạn xã hội của cơ quan chức năng có nơi, có
lúc chưa kiên quyết, triệt để, đôi lúc còn "nhẹ tay", nên các chủ doanh nghiệp
“ỷ lại” vẫn ngang nhiên hoạt động và bất chấp dư luận xã hội.
3.2. Đối với chính quyền địa phương:
- Công tác quản lý kiểm tra, nắm bắt địa bàn của Công an khu vực và Đội
kiểm tra liên ngành thiếu sâu sát, chưa hướng dẫn kịp thời để chủ doanh

nghiệp nhận thức trách nhiệm của mình trong quá trình tổ chức kinh doanh.
- Khi nhận được ý kiến phản ảnh của người dân, chính quyền địa phương
còn nể nang, chưa kiên quyết trong xử lý, để tình trạng kinh doanh gây mất an
ninh trật tự kéo dài.
3.3. Đối với chủ doanh nghiệp:
- Chủ doanh nghiệp không nghiên cứu kỹ các quy định của Nhà nước
liên quan đến hoạt động kinh doanh karaoke.
- Vì hám lợi và được bảo kê doanh nghiệp đã bất chấp mọi phương thức,
thủ đoạn hoạt động để mang lại lợi nhuận cao nhất mà không cần nghĩ đến
hậu quả của xã hội.

8


4. Hậu quả và tác động:
4.1. Về phương diện đời sống tinh thần xã hội:
Đất nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường và đang trên tiến trình
hội nhập quốc tế. Sự xâm nhập văn hóa từ bên ngoài, lối sống thực dụng, văn
hóa lai căng nhanh chóng du nhập vào nước ta. Một bộ phận chủ cơ sở hám
lợi, dùng nhiều phương thức hoạt động nên dễ biến tướng thành tệ nạn xã hội
(mại dâm) làm ảnh hưởng đến môi trường văn hóa và đời sống sinh hoạt cộng
đồng, gây nhiều lo ngại và bức xúc đối với người dân.
4.2. Đối với doanh nghiệp MTV:
Khó có cơ hội để tiếp tục kinh doanh hoạt động karaoke; cơ sở vật chất,
thiết bị máy móc sẽ bị lãng phí khi chuyển sang hoạt động ở lĩnh vực khác; để
lại tiếng xấu đối chính quyền và nhân dân ở địa phương; sẽ mất uy tín trong
hoạt động ở các lĩnh vực khác và giảm thu nhập đối với gia đình.
4.3. Về lĩnh vực an ninh trật tự:
Gây rối trật tự an ninh tại địa phương, làm xáo trộn các hoạt động bình
thường hàng ngày của người dân ở địa phương.

III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu xử lý tình huống:
Trước thực trạng hoạt động Karaoke trên địa bàn thị xã Đồng Xoài đang
diễn biến phức tạp và hoạt động len lõi trong khu dân cư. Do đó cần xác định
các mục tiêu như sau:
- Đối với cơ quan quản lý nhà nước:
Nhằm lập lại trật tự kỹ cương trên lĩnh vực hoạt động văn hóa và ngành
nghề nhạy cảm, ngăn ngừa những biến tướng trá hình trong kinh doanh. Đề ra
những giải pháp vừa mang tính giáo dục, thuyết phục vừa kiên quyết răn đe

9


giúp chủ kinh doanh nhận thức, hiểu biết và chấp hành đúng chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Đối với chính quyền địa phương:
Tăng cường hơn nữa trách nhiệm vai trò lãnh đạo, chỉ đạo đối với Cấp
ủy Đảng, chính quyền trong công tác quản lý, kiểm tra trên địa bàn mình quản
lý.
Từ nội dung đơn thư phản ảnh của nhân dân, cần tiếp tục tuyên truyền,
vận động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh, tố giác bài trừ các tệ nạn xã
hội trên địa bàn dân cư gắn liền với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hóa” và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở.
- Đối với chủ doanh nghiệp:
Nâng cao ý thức của chủ doanh nghiệp trong việc chấp hành các quy
định pháp luật. Trong tổ chức kinh doanh cần thể hiện trách nhiệm và đạo đức
nghề nghiệp, không vì lợi nhuận trước mắt đưa họat động trá hình vào kinh
doanh, làm ảnh hưởng đến đạo đức lối sống và trật tự an toàn xã hội tại địa
phương.
2. Phân tích lựa chọn giải pháp giải quyết:

Căn cứ vào các hành vi vi phạm tại cơ sở hoạt động Karaoke của doanh
nghiệp tư nhân MTV trong quá trình kiểm tra; căn cứ theo quy định tại các
văn bản quy phạm pháp luật được quy định từng lĩnh vực ngành nghề. Đề
xuất Đội Kiểm tra liên ngành văn hóa xã hội tỉnh Bình Phước xây dựng 3
phương án như sau:
Phương án 1: (Hình thức xử phạt bình quân)
Xét thấy Doanh nghiệp MTV vi phạm hành chính lần đầu, có trách nhiệm
hợp tác khi Đội kiểm tra liên ngành văn hóa xã hội tỉnh đến kiểm tra. Đội
kiểm tra xử lý chế tài theo mức bình quân.

10


Phương án 2: (Hình thức xử phạt tăng nặng)
Doanh nghiệp phạm ít lỗi, có hành vi trốn tránh hoặc không hợp tác với
cơ quan chức năng. Lỗi vi phạm liên quan đến tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến
đời sống tinh thần và sức khoẻ, thì phương án lựa chọn sẽ xử phạt theo mức
phạt cao nhất.
Phương án 3: (Hình thức xử phạt giảm nhẹ)
Nếu xét thấy cơ sở vi phạm lần đầu, ít lỗi vi phạm không liên quan đến tệ
nạn xã hội nghiêm trọng, không để hậu quả về sức khoẻ. Sẽ xử lý bằng hình
thức chế tài mức phạt thấp nhất.
2. Sự lựa chọn phương án xử lý:
Chọn phương án 1 để xử lý tình huống vi phạm kinh doanh hoạt động
Karaoke của Doanh nghiệp tư nhân MTV.
Lý do:
- Các vi phạm của Doanh nghiệp tư nhân MTV đã làm ảnh hưởng rất lớn
đối với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam, tạo cơ hội cho thanh thiếu
niên chạy theo lối sống thực dụng, ăn chơi sa đọa dẫn đến suy thoái về đạo
đức, lối sống rồi dẫn đến tệ nạn xã hội.

- Đồng thời phải có tính răn đe, xử lý nghiêm khắc đối với các cơ sở hoạt
động thiếu lành mạnh làm xáo trộn các hoạt động thường ngày của nhân dân
trong khu vực và ảnh hưởng đến phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa mà Đảng và Nhà nước ta đang rất quan tâm.
- Tuy nhiên đây là lần đầu tiên kiểm tra phát hiện vi phạm và chủ cơ sở
đã nhận thấy sai phạm và có trách nhiệm hợp tác trong quá trình Đoàn kiểm
tra đến làm việc.
3. Kế hoạch xử lý:
Các buớc thực hiện:

11


Bước 1: Lập biên bản vi phạm hành chính đối với Doanh nghiệp tư nhân
MTV.
Buớc 2: Mời chủ doanh nghiệp đến văn phòng Đội kiểm tra liên ngành
tỉnh làm việc để xác định lỗi vi phạm, lắng nghe cở sở trình bày ý kiến và bổ
sung giấy tờ liên quan (nếu có).
Buớc 3: Lập báo cáo đề xuất Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết
định xử phạt.
Bước 4: Căn cứ vào đề xuất của Đội kiểm tra liên ngành tỉnh, Chánh
Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định xử phạt hành chính.
Bước 5: Triển khai thực hiện quyết định xử phạt hành chính, phối hợp
với chính quyền địa phương theo dõi quá trình chấp hành quyết định của
Doanh nghiệp tư nhân MTV.
4. Tổ chức thực hiện:
Căn cứ vào các quy định tại các văn bản sau:
- Nghị định số 128/2008/NĐ-CP ngày 16/12/2008 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh xử lý vi

phạm hành chính năm 2008.
- Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/710/2010 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa.
- Thông tư số 09/2010/TT-BVHTTDL ngày 24/8/2010 của Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch về quy định chi tiết thi hành một số quy định tại
Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa.
Chánh Thanh tra Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bình Phước ra
quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Doanh nghiệp tư nhân MTV
do bà Đỗ Thị Tuyết làm chủ doanh nghiệp như sau:

12


* Đối với hành vi tắt đèn tại phòng Karaoke khi đang hoạt động.
- Căn cứ điểm c, khoản 3, điều 19 của Nghị định số 75/2010/NĐ-CP
ngày 12/710/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa.
- Hình thức xử phạt: Quyết định phạt tiền 7.500.000 đồng đối với
Doanh nghiệp tư nhân MTV.
* Đối với hành vi sử dụng tiếp viên phục vụ tại cơ sở kinh doanh mà
không có hợp đồng lao động.
- Căn cứ điểm c, khoản 2, điều 19 của Nghị định số 75/2010/NĐ-CP
ngày 12/710/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa.
- Hình thức xử phạt: Quyết định phạt tiền 2.000.000 đồng đối với
Doanh nghiệp tư nhân MTV.
* Đối với hành vi sử dụng 5 tiếp viên nữ ngồi chung với khách trong
một phòng Karaoke.
- Căn cứ điểm c, khoản 3, điều 22 của Nghị định số 75/2010/NĐ-CP

ngày 12/710/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa.
- Hình thức xử phạt: Quyết định phạt tiền 4.000.000 đồng đối với
Doanh nghiệp tư nhân MTV.
* Đối với hành vi tiếp viên nhảy múa thoát y tại phòng Karaoke.
- Căn cứ điểm d, khoản 5, điều 22 của Nghị định số 75/2010/NĐ-CP
ngày 12/710/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hóa.
- Hình thức xử phạt: Quyết định phạt tiền 15.000.000 đồng đối với
Doanh nghiệp tư nhân MTV.

13


* Tổng cộng 04 lỗi vi phạm với mức phạt tiền là: 28.500.000đồng.
5) Hình thức phạt bổ sung: Tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh
karaoke không thời hạn đối với Doanh nghiệp tư nhân MTV.
IV. ĐÁNH GIÁ XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Kết quả đạt được:
- Đã xử lý nghiêm khắc đối với Doanh nghiệp tư nhân MTV, từ đó
cảnh tỉnh các cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke và các loại hình văn hóa khác.
- Tạo niềm tin đối với nhân dân khi phát hiện và tố giác, phản ảnh các
hoạt động không đúng pháp luật, vi phạm thuần phong, mỹ tục truyền thống
của dân tộc Việt Nam.
- Ổn định tình hình an ninh trật tự tại địa phương, lập lại trật tự kỷ
cương phép nước, nâng cao nhận thức đối với người dân khi kinh doanh các
loại hình dịch vụ văn hóa công cộng.
2. Kết quả chưa đạt được:
Khi Đội kiểm tra liên ngành văn hóa xã hội tỉnh tiến hành kiểm tra tại
cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke của Doanh nghiệp tư nhân MTV, thì các cơ

sở khác được thông tin báo động và đã tạm dừng hoạt động. Đội kiểm tra liên
ngành văn hóa xã hội tỉnh không thể tiến hành kiểm tra ở một số cơ sở khác
trên địa bàn thị xã Đồng Xoài.
3. Nguyên nhân:
- Có sự chỉ đạo tích cực và cương quyết của Giám đốc Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch và sự phối hợp đầy trach nhiệm của các ngành liên quan cũng
như chính quyền địa phương của phường Tân Đồng, thị xã Đồng Xoài.
- Quần chúng nhân dân tích cực tố giác những tiêu cực của các cơ sở
kinh doanh dịch vụ văn hóa trên địa bàn đang sinh sống.

14


- Đội kiểm tra liên ngành văn hóa xã hội tỉnh đã tổ chức nắm bắt tình
hình kịp thời và có kế hoạch kiểm tra đảm bảo tính bí mật và nhanh chóng
trong khi thi hành nhiệm vụ.
- Các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, nhất là hoạt động karaoke, vũ
trường có sự liên kết ngầm và báo động cho nhau bằng điện thoại di động khi
có sự kiểm tra của cơ quan chức năng.
IV. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
1. Những kiến nghị:
Các cấp chính quyền, các liên ngành chức năng...cần rà soát lại hệ
thống các văn bản pháp luật liên quan để kịp thời sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh
hoàn thiện phù hợp với địa phương cũng như tình hình mới. Trong các điều
khoản về xử phạt vi phạm hành chính cần tính đến các mức phạt đủ sức răn
đe, tránh việc tái vi phạm của các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa.
Tổ chức và sắp xếp lại bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước, có cơ
chế, chính sách thu hút những cán bộ có tài, có tâm, có tầm. Kiện toàn đội
ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra, giám sát của ngành từ tỉnh đến cơ sở, đảm bảo
đủ về số lượng cho hoạt động đạt hiệu quả. Tăng cường bồi dưỡng kiến thức

quản lý, kiến thức chuyên môn; khoa học công nghệ thông tin. Tăng đầu tư
ngân sách và kinh phí hoạt động, tạo điều kiện trang thiết bị đáp ứng công tác
quản lý kiểm tra đạt hiệu quả.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phối hợp chặt chẽ với các
ngành có liên quan như: Công an, Lao động - Thương binh và xã hội, Dịch vụ
- Thương mại, y tế, chính quyền địa phương... với một số nhiệm vụ trọng tâm,
cụ thể như sau:
1.1. Về cấp tỉnh:
Ngành chủ quản là Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch là đơn vị chủ trì,
phối hợp với các cấp, các đoàn thể và Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, các

15


xã, phường, thị trấn đẩy mạnh công tác tuyên truyền việc thực hiện Quy chế
hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng theo tinh thần
Nghị định 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của chính phủ; Nghị định số
75/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong hoạt động văn hoá và các quy định pháp luật khác có liên
quan nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật về lĩnh vực này,
phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường công tác quản lý Nhà nước
đối với các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng.
Xây dựng kế hoạch kiểm tra, tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động
văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá; kiên quyết xử lý các tổ chức, cá nhân
kinh doanh dịch vụ văn hoá cộng cộng có hành vi vi phạm không đủ điều kiện
hoạt động theo quy định của pháp luật. Định kỳ 6 tháng, 1 năm hoặc đột xuất
khi có yêu cầu báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh về tình hình hoạt động kinh
doanh dịch vụ văn hoá công cộng. Tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ làm công
tác quản lý hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng của
các huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn.

Đối với Công an tỉnh phải có lực lượng tham gia các đoàn thanh tra,
kiểm tra liên ngành để thanh tra, kiểm tra các hoạt động văn hóa và kinh
doanh dịch vụ văn hoá công cộng trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt hướng dẫn lực
lượng an ninh các cấp tiến hành kiểm tra về an ninh, trật tự đối với các cơ sở
kinh doanh karaoke, vũ trường theo quy định của Nghị định số 73/2010/NĐCP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định về điều kiện an ninh, trật tự đối
với một số ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các quy định của pháp luật
khác có liên quan.
Đối với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, phối hợp với Sở Văn
hoá, Thể thao và Du lịch, các Sở, ngành liên quan, Uỷ ban nhân dân các
huyện, thành phố, Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn tăng cường công
tác phòng chống tệ nạn xã hội; phối hợp với lực lượng an ninh các cấp xử lý

16


nghiêm các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng vi phạm các quy
định về lao động.
Đề nghị Uỷ ban Mặt Trận Tổ quốc tỉnh, các tổ chức, đoàn thể cần đẩy
mạnh cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu
dân cư" gắn với việc xây dựng xã, phường, thị trấn, thôn, làng lành mạnh
không có tệ nạn xã hội. Thường xuyên đẩy mạnh các hoạt động giám sát; hỗ
trợ đắc lực các cơ quan chức năng trong công tác quản lý; kịp thời phát hiện
và phản ánh những vụ việc tiêu cực xảy ra trên địa bàn.
Đối với các Sở, ban, ngành, đoàn thể trong phạm vi nhiệm vụ và quyền
hạn của mình, tổ chức tuyên truyền, phổ biến Quy chế hoạt động văn hoá và
kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng ban hành kèm theo Nghị định
103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009, Quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hoá ban hành kèm theo Nghi định số 75/2010/NĐ-CP
ngày 12/7/2010 của Chính phủ và các văn bản pháp luật khác có liên quan
trong cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý.

1.2. Về cấp huyện, thị xã, cơ sở:
Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã chỉ đạo Phòng Văn hoá và Thông tin
triển khai, tăng cường quản lý các hoạt động kinh doanh dịch văn hoá công
cộng theo đúng Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá
công cộng; phối hợp với Uỷ ban nhân dân các xã, phường, thị trấn đẩy mạnh
công tác quản lý hoạt động quảng cáo rao vặt; kiên quyết xử lý các tổ chức cá
nhân vi phạm pháp luật; chỉ đạo Công an xã, phường phối hợp với công chức
Văn hoá xã, phường kiểm tra, giám sát và quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh
doanh dịch vụ văn hoá công cộng trên địa bàn, phối hợp với các cơ quan chức
năng của tỉnh kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động văn hoá và
kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng, định kỳ 3 tháng, 6 tháng báo cáo cho
Uỷ ban nhân dân tỉnh (thông qua Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch) về tình
hình hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng.

17


2. Kết luận:
Quản lý nhà nước về văn hóa là quản lý bằng chính sách và pháp luật
gắn chặt với công tác giáo dục tư tưởng và vận động, tuyên truyền kết hợp với
quản lý nhà nước về kinh tế. Tăng cường quản lý nhà nước trên lĩnh vực dịch
vụ văn hóa nhằm xây dựng và giữ gìn một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, làm cho văn hóa thực sự là nền tảng của tinh thần, là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Trong xu thế đất nước hội nhập, sự lựa chọn phát triển nền văn hóa gắn
với tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại là con đường đúng đắn để bảo
vệ độc lập và chủ quyền đất nước. Những thế lực thù địch đang phá hoại đất
nước ta bằng con đường “diễn biến hòa bình”, đưa văn hoá độc hại cùng với
lối sống sa đọa, làm băng loại những giá trị đạo đức. Chính vì vậy quản lý văn
hóa là nhiệm vụ quan trọng không chỉ của riêng ngành văn hóa mà còn là của

toàn đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Tập trung kiểm tra, truy quét tệ nạn xã hội đối với các cơ sở kinh doanh
có những biểu hiện vi phạm, có đơn thư phản ảnh của quần chúng nhân dân;
có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các cơ sở tái phạm nhiều lần. Việc
thanh tra, kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, không mang
tính hình thức tạo tâm lý coi thường pháp luật của chủ doanh nghiệp.
Tuy nhiên, chúng ta không chỉ chú trọng mặt “chống” mà cần quan tâm
hơn nữa mặt “xây”, vì đây là cách làm hiệu quả, là giải pháp cơ bản, bền vững
nhất. Xây dựng được môi trường văn hóa lành mạnh là chúng ta đã thực hiện
“chống” lại những hiện tượng phi văn hóa đang diễn biến phức tạp trong xã
hội.
Vì môi trường văn hóa lành mạnh, vì lợi ích cộng đồng, mỗi cá nhân,
mỗi doanh nghiệp, chúng ta cần tôn trọng kỹ cương phép nước, hãy “sống và
làm việc theo pháp luật” nhằm hướng tới một xã hội tốt đẹp, văn minh hơn./.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị 17/2005/CT-TTg ngày 25/5/2005 của Thủ tướng chính phủ
về việc chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong quán bar, nhà hàng, karaoke,
vũ trường (bãi bo Chỉ thị 814/TTg).
2. Quyết định số 1592/QĐ-UBND, ngày 09/8/2012 của Ủy ban Nhân
dân tỉnh Bình Phước về việc phê duyệt Đề án phát triển Văn hóa, Thể thao và
Du lịch tỉnh Bình Phước đến năm 2020, tầm nhìn năm 2025.
3. Quyết định số 13/2012/UBND ngày 23/5/2013của UBND tỉnh Bình
Phước về việc phê duyệt Đề án quy hoạch karaoke, vũ trường tỉnh Bình
Phước đến năm 2020.
4. Tài liệu bồi dưỡng quản lý nhà nước chương trình chuyên viên
chính./.


19



×