BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN TRÀ NGUYÊN TRÂN
ĐÁNH GIÁ ĐẶC TÍNH VẬT LÝ – HÓA HỌC ĐẤT VƯỜN
TRỒNG CAM QUÝT Ở HUYỆN LAI VUNG ĐỒNG THÁP
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành : QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Người hướng dẫn khoa học : TS.Phạm Quang Khánh
Lớp: Cao học Quản lý đất đai khóa 2015
MỞ ĐẦU
Đất là một tài nguyên vô giá mà tự nhiên đã ban tặng cho con người để sinh tồn
và phát triển. Đất là tư liệu sản xuất, là đối tượng lao động, là vật mang được đặc
thù bởi tính chất độc đáo mà không vật thể tự nhiên nào có được – đó là độ phì
nhiêu (Lê Văn Khoa, 2004).
Đất được hình thành, phát triển và thoái hóa theo thời gian dưới tác động của
điều kiện tự nhiên và các hoạt động của con người (Wada, 2000).
Ở Đồng bằng sông Cửu Long, các nghiên cứu về sự thoái hoá vật lý, hoá học
và sinh học ở các vùng đất thâm canh 03 vụ lúa/năm; trên các vườn cây ăn trái nhiều
năm tuổi bước đầu nghiên cứu cho thấy sự giảm hàm lượng chất hữu cơ, độ nén
dẽ cao, hệ số thấm của nước thấp (Võ Thị Gương, 2004).
Do hiệu quả kinh tế cao, những năm gần đây nhiều nhà vườn đã cải tạo vườn
tạp, nhiều chủ vườn đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng cũ hiệu quả kinh tế thấp sang
trồng chuyên canh cây ăn trái. Bên cạnh những kết quả và lợi nhuận thu được thì
cũng có nhiều nhà vườn chưa hiểu biết rõ về kỹ thuật canh tác nên dẫn đến tình
trạng làm cho đất bị suy thoái nghiêm trọng. Đất có tình trạng lớp đất mặt bị đóng
váng dẫn đến tình trạng rễ cây không hấp thụ được nước và các chất dinh dưỡng
khác.
Quýt Hồng là cây trồng chủ lực của huyện Lai Vung vì mang lại hiểu quả kinh
tế cao. Tuy nhiên trong canh tác nhà vườn còn mang tính tự phát, áp dụng các tiến
bộ kỹ thuật chưa đồng bộ, nên chất lượng đất dễ bị suy thoái
Vì thế, việc khảo sát đánh giá đặc tính vật lý – hóa học trên vùng đất trồng
cam quýt ở huyện Lai Vung – Đồng Tháp là một vấn đề rất cần thiết. Do đó, đề tài
“Đánh giá đặc tính vật lý – hóa học đất vườn trồng cam quýt ở huyện Lai
Vung – Đồng Tháp” được thực hiện.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. Các tính chất vật lý đất trên đất trồng cam, quýt
1.1.1 Thành phần cơ giới đất
Tỷ lệ các cấp hạt giữa các phần tử cơ giới có kích thước khác nhau trong đất
được biểu thị theo phần trăm trọng lượng được gọi là thành phần cơ giới (Nguyễn
Thế Đặng và ctv, 1999).
Thành phần cơ giới còn được hiểu là tỷ lệ giữa các cấp hạt cát, thịt, sét trong
đất (Henry et al, 1990).
Thành phần cơ giới của đất là hàm lượng phần trăm của những nguyên tố cơ
học có kích thước khác nhau khi đoàn lạp đất ở trong trạng thái bị phá huỷ (Trần
Kông Tấu, 2006).
Các hạt có kích thước khác nhau trong thể rắn của đất gọi là phần tử cơ giới.
Các phần tử cơ giới hình thành chủ yếu do quá trình phong hoá đá mà ra. Tỷ lệ
phần trăm các cấp hạt có kích thước khác nhau trong đất gọi là thành phần cơ giới
(Dương Minh Viễn, 2004).
Theo Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv (2005), đất là vật thể bao gồm các kích thước
hạt có kích thước khác nhau. Chính các cấp hạt này gọi là thành phần cơ giới. Tuỳ
theo tỷ lệ các cấp hạt mà đất có tính chất khác nhau. Ba cấp hạt: cát (Sand), thịt
(Silt), sét (Clay) sẽ tạo nên kết cấu của đất. Tỷ lệ các cấp hạt khác nhau dẫn đến
sự khác nhau về đặc điểm tính chất như: tỷ trọng, dung trọng, khả năng giữ nước,
tính bền của đất... Thành phần cơ giới là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá độ phì
của đất (Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv, 2005). Đất Đồng bằng sông Cửu Long đa số là
đất phù sa màu mỡ, có thành phần cơ giới nặng nên khả năng giữ nước và hấp phụ
chất dinh dưỡng tốt chính vì thế phục vụ rất tốt cho việc sản xuất nông nghiệp.
Thành phần cơ giới đất là một chỉ tiêu quan trọng ảnh hưởng đến đặc tính
của đất như sự thấm nước, sự kiềm giữ nước, sự phát triển của rễ cây (Raymond
W. Miller et al, 2001) Trong nông nghiệp, thành phần cơ giới có ý nghĩa rất quan
trọng trong nghiên cứu phát sinh đất, loại đất và các quá trình thổ nhưỡng của đất.
Nhiều tính chất hoá học, vật lý như khả năng giữ ẩm, khả năng giữ nhiệt và động
thái nhiệt, chế độ khí và động thái khí, CEC và khả năng điều tiết chất dinh
dưỡng...đều liên quan đến thành phần cơ giới (Viện thổ nhưỡng nông hóa, 1998).
1.1.2 Tính bền cấu trúc
Độ bền đoàn lạp là tính bền của tập hợp các phần tử đất, là đặc tính cấu trúc
quan trọng của đất giúp đo lường mức độ chịu đựng của đất dưới tác động của
mưa, các lực cơ giới khi cày hoặc hoạt động tưới nước.
Tính bền cấu trúc đất phụ thuộc vào hàm lượng của chất hữu cơ, hàm lượng
sét và các oxit sắt (Trần Kim Tính, 2003).
Tính bền của đất được xem như là một trong những chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá chất lượng đất đai. Tính bền của đất có thể tác động mạnh mẽ đến đặc
tính đất cả về hoá học và lý học (Lê Văn Khoa, 2003).
1.1.3 Dung trọng
Dung trọng đất là một đặc tính quan trọng dùng để đánh giá độ phì vật lý và
hoá học đất (Trần Bá Linh và ctv, 2006). Dung trọng phụ thuộc vào thành phần
khoáng, thành phần cơ giới, hàm lượng chất hữu cơ, cấu trúc và kỹ thuật làm đất.
Độ tơi xốp của đất thường cao nhất ngay sau khi làm đất, sau đó bị nén dẽ dần và
dung trọng tăng lên, sau một thời gian dung trọng sẽ đạt cân bằng và không thay
đổi. Đất có dung trọng thích hợp nhất cho cây là 1,0 1,1 g/cm3. Đối với cây lúa,
dung trọng thấp đôi khi có hại vì đất không giữ được nước. Dung trọng >1,2 g/cm 3
và ở tầng đế cày >1,4 g/cm3 là rất thích hợp cho cây lúa (Võ Thị Gương và ctv,
2004).
Để đảm bảo cho cây trồng phát triển tốt đối với đất thịt thì dung trong 1,1
1,4 g/cm3, đối với đất sét thì dung trọng 1,4 g/cm 3 và đất cát dung trọng khoảng 1,6
g/cm3 (Raymond W. Miller et al, 2001). Theo Lê Văn Khoa (2004), giá trị dung trọng
bình quân của đất thịt có canh tác biến động trong khoảng 1,1 1,4 g/cm 3. Để cây
trồng phát triển tốt dung trọng nên giới hạn trong khoảng 1,41,6 g/cm 3 với đất cát.
Dung trọng cũng được tính toán tổng lượng nước có thể bị giữ bởi đất theo một thể
tích nào đó và cũng để đánh giá khả năng phát triển của hệ thống rễ cây trồng và độ
thoáng khí của đất (Lê Văn Khoa, 2004).
1.1.4 Tỷ trọng
Tỷ trọng thể rắn của đất là tỉ số giữa trọng lượng thể rắn đất (đất không có
khoảng trống) của một thể tích nhất định và trọng lượng của nước cùng thể tích
(Viện thổ nhưỡng nông hóa, 1998).
Tỷ trọng đất là một thông số quan trọng giúp ta có thể ước lượng thành phần
khoáng chủ yếu cũng như hàm lượng chất hữu cơ của một loại đất (Trần Bá Linh
và ctv, 2006). Theo Trần Kim Tính (2003), tỷ trọng của đất thay đổi từ 2,5 g/cm3
đến 2,8 g/cm3. Ở những loại đất khác nhau tỷ trọng sẽ khác nhau. Thường trong
những đất khoáng hay có thạch anh, fenspat, kaolinite, tỷ trọng của chúng thay đổi
trong khoảng 2,55 – 2,74 g/cm3. Tỷ trọng thể rắn của những đất nghèo mùn trên các
tầng mặt thay đổi trong khoảng 2,50 – 2,74 g/cm3. Ở những tầng tích tụ sâu hơn, do
chứa một lượng lớn hợp chất sắt nên tỷ trọng thường tăng, có trường hợp đạt 2,75
– 2,8 g/cm3. Ngược lại ở những đất giàu mùn tỷ trọng của chúng giảm đến 2,40 –
2,30 g/cm3 (Trần Kông Tấu, 2006).
Nhìn chung tỷ trọng của đất đa số nhỏ ở các loại đất mùn và thường lớn ở
những loại đất khoáng. Do vậy thông thường ở những tầng mặt thì tỷ trọng của đất
nhỏ so với các tầng sâu hơn.
1.1.5 Độ xốp
Độ xốp của đất là phần trăm thể tích của đất được chiếm bởi không khí và
nước (Trần Bá Linh và ctv, 2006). Độ xốp là tổng các tế khổng trong đất biểu thị
bằng % thể tích đất. Độ xốp đất phụ thuộc vào cấu trúc đất, thành phần cơ giới,
dung trọng và tỷ trọng đất. Khả năng thoáng khí, khả năng giữ nước phụ thuộc lớn
vào độ xốp đất. Đối với cây lúa độ xốp là chỉ tiêu không quan trọng, ngoại trừ các
mao quản, lượng tế khổng lớn chứa khí trong đất phải không dưới 25% cho đất
canh tác cây trồng cạn. Độ xốp thích hợp cho hầu hết sự tăng trưởng của cây trồng
là 50%. (Võ Thị Gương và ctv, 2004).
Sự trao đổi không khí đặc biệt là sự khuếch tán oxy có ý nghĩa rất quan trọng
cho cây trồng. Việc giảm chất hữu cơ trong đất sẽ đưa đến giảm độ xốp đất. Đất
kém thông thoáng có thể giới hạn sự phát triển của rễ, đặc biệt ảnh hưởng đến
việc hấp thu chất dinh dưỡng (Lipiec and Stepniewski, 1995).
1.1.6 Hệ số thấm (Ksat)
Hệ số thấm bảo hoà Ksat là thông số chính để dự đoán dòng chảy bảo hoà
trong đất, ngoài các tác nhân khác làm ảnh hưởng đến hệ số thấm, sa cấu và cấu
trúc đất cũng làm cho hệ số thấm bị thay đổi một cách đáng kể. Chỉ tiêu này dùng
để phân biệt khả năng thấm và thoát nước của đất. Đất có giá trị Ksat cao sẽ có tác
dụng thấm nước và thoát nước nhanh không bị ngập úng (Radeliffe and Rasmussen,
2000).
Hầu hết đất lúa nước đạt năng suất cao tại Nhật Bản có tốc độ thấm trong
khoảng 20 – 30mm/ngày (Takai and Mada, 1997). Riêng ở Trung Quốc để đạt được
năng suất cao, tốc độ thấm trong đất từ 9 – 15 mm/ngày (Yang and Chen, 1961).
Thực tế thì tốc độ thấm tối hảo cho năng suất lúa tuỳ thuộc vào hàm lượng chất
hữu cơ trong đất và điều kiện hoạt động thích hợp của vi sinh vật đất. Khi ruộng
lúa bị ngập liên tục (với tốc độ nhỏ hơn 5 mm/ngày) thì tốc độ phân huỷ chất hữu
cơ và sự khoáng hoá đạm rất thấp do đất trong tình trạng bị khử cao.
1.1.7 Lượng nước hữu dụng
Lượng nước hữu dụng là lượng nước được đất dự trữ lại: cây trồng sử dụng
dễ dàng nhất. Nói cách khác độ ẩm hữu dụng là sự chênh lệch giữa độ ẩm đồng
ruộng và độ ẩm cây héo. Độ ẩm có sẳn cho cây là tỉ lệ của ẩm độ hữu hiệu mà cây
trồng hấp thu dễ dàng nhất, thường chiếm khoảng 75 – 80% ẩm độ hữu dụng (Chu
Thị Thơm và ctv, 2006).
Lượng nước hữu dụng trong đất được đánh giá thông qua chỉ số pF (lực giữ
nước của nền đất) và trị số này thay đổi đối với các loại đất khác nhau (Kisu, 1978).
Các nhà khoa học đã xác định độ ẩm trong đất bằng khoảng 60 – 75% độ trữ ẩm tối
đa để có một lượng trữ không khí khoảng 15 – 35% thể tích của đất là ẩm độ thích
hợp nhất (Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv, 2005).
1.1.8 Sự kết cứng và đóng váng trên bề mặt đất
Đây là sự kết cứng bề mặt đất trong suốt thời gian đất bị khô cho đến khi đất
được bảo hòa nước trở lại. Đất dưới sự khô cứng trở nên rất cứng và không có cấu
trúc. Sự khô cứng này không bị ảnh hưởng bởi tác nhân bên ngoài (cày, dậm, trục…
do động vật máy móc hoặc con người) mà do tính chất đất tạo ra. Sự khô cứng của
đất thay đổi theo các yếu tố sau đây: Loại sét, tính trương co của đất, sức bền của
đất, sự đóng ván bề mặt đất, tình trạng ngập lũ.
Đất không có cấu trúc có cấu tạo rời rạc, điều đó làm cho trạng thái đất quá
chặt, dính, đường mao quản mỏng, nhỏ, độ xốp kém. Những đất như vậy có tính
thấm nước kém, nước dự trữ trong đất sẽ rất ít, độ dẫn mao quản cao, nước dễ
đưa lên bề mặt và mất nhiều do bốc hơi. Điều đó dẫn đến việc hình thành những
lớp váng trên mặt ruộng, sau khi mưa những lớp váng này dễ bị cứng lại gây cản
trở cây trồng và khi khô đất dễ bị nứt nẻ.
Ở các đất thịt, tác động của các hạt mưa có thể hình thành lớp váng cứng trên
mặt đất. Lớp vỏ cứng trên mặt đất này có thể dầy vài milimet nhưng nó sẽ làm
giảm khả năng thấm nước và tăng dòng chảy trên mặt gây xói mòn đất, làm giảm
khả năng nẩy mầm và phát triển của cây trồng (Lê Văn Khoa và ctv, 2003).
Sự hình thành nên lớp váng ở bề mặt (do sự bong đất mặt) thì thường được
thấy nhiều hơn trên những vùng đất có hàm lượng thịt cao, hay cát mịn và hàm
lượng sét của nó tương đối thấp (Trần Kim Tính, 2003).
Việc canh tác làm phá huỷ cấu trúc đất sẽ làm giảm lượng tế khổng lớn trong
đất và tăng các tế khổng nhỏ ở bề mặt của tầng canh tác ảnh hưởng đến tính thấm
của đất (S.S Prihar et al, 1985).
Sự kết cứng của đất tác động trực tiếp đến sự nẩy mầm của hạt giống, sự
tăng trưởng của cây trồng, khả năng thoáng khí và thoát nước của đất. Tuy nhiên, ở
một số loại đất ở Châu Âu điều này có thể được thay đổi bởi sự thêm vào một
lượng các hydroxide sắt, nhôm vào trong đất như là tác nhân liên kết (Lê Văn Khoa,
2003).
Hình 1.7: Sự đóng váng kết cứng bề mặt khi đất khô
1.2. Hoá học đất
1.2.1 Độ chua hiện tại(pHH20)
Theo Ngô Ngọc Hưng và ctv (2004), pH đất là chỉ tiêu đánh giá đất quan trọng,
vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của cây trồng, vi sinh vật đất, vận tốc
phản ứng hóa học và sinh hóa trong đất. Độ hữu dụng của dưỡng chất trong đất,
hiệu quả của phân bón cũng phụ thuộc rất nhiều vào độ chua của đất.
pH đất ảnh hưởng đến độ hữu dụng của dinh dưỡng cây trồng, độc chất
trong đất, đến hoạt động của vi sinh vật đất (Tất Anh Thư, 2006). Theo Trần Thành
Lập (1999), đất Đồng bằng sông Cửu Long thường có pH thấp, đất phù sa không
phèn thường có pH = 4,05,5. Đất có pH thấp nhất là đất phèn, trên đất phèn nặng
pH có thể <3,0, ở trị số pH này cây chịu phèn mới sống nổi. Đất bị nhiễm mặn
thường có pH từ 7 trở lên. Một lọai đất rất acid có pH thấp, đất này thiếu Ca và
Mg trao đổi, các chất Al, Fe, Mn và Bo hòa tan rất nhiều, chất Mo ít hòa tan, độ hữu
dụng của N và P rất thấp. Một loại đất kiềm có pH cao đất này nhiều Ca, Mg và
Mo, có ít Al, độ hữu dụng đạm cao (Trần Thành Lập, 1999). Trên đất mặn pH từ
6,07,5 và tỷ lệ với độ mặn (Nguyễn Văn Luật, 2003). Nếu đất có pH quá cao, đất
sẽ thiếu Fe, Mn, Cu, Zn và nhất là thiếu P và Bo. Ngoài ra vi khuẩn hoạt động tích
cực ở các pH trung bình sẽ hoạt động kém. Tổng quát mà nói thì đất có pH = 6 7 là
tốt nhất vì ở mức pH này có sự hữu dụng tối đa của chất dinh dưỡng (Ngô Ngọc
Hưng và ctv, 2004). Theo H.Eswaran (1985), đất lúa nước thường có pH trong
khoảng 4,5 và 6. pH tốt nhất cho cây lúa phát triển là pH=5,5 7,5. Đất có pH thấp
hơn 5,2 hay lớn hơn 8,2 đều ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa.
1.2.2 Độ chua tiềm tàng (pHKCl)
Độ chua tiềm tàng được tính bằng ion H+ tự do và hấp thu trên bề mặt keo
đất. Thông thường độ chua này lớn hơn độ chua hiện tại và biểu thị khả năng gây
chua tiềm tàng của đất (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).
Theo Nguyễn Đăng Nghĩa và ctv (2005), nếu trong dung dịch đất tồn tại nhiều
muối axit mạnh và bazơ mạnh sẽ làm đất có phản ứng trung tính (pH trong khoảng
từ 6,0 – 7,0). Nếu trong đất tồn tại nhiều muối axit mạnh và muối bazơ yếu thì đất
có phản ứng chua (pH < 6,0). Nếu trong đất nhiều muối bazơ mạnh và muối bazơ
yếu thì đất có phản ứng kiềm (pH > 7,5). Độ pH của đất còn phụ thuộc vào mức độ
thực hiện các phản ứng trao đổi ion giữa keo đất với dung dịch đất, giữa dung dịch
đất và rễ cây.
1.2.3 Chất hữu cơ trong đất
Nguồn gốc nguyên thủy của chất hữu cơ trong đất là mô thực vật, chất hữu
cơ gồm xác bả hữu cơ chưa phân hủy, đang phân hủy và đã phân hủy trong đó có
xác bã hữu cơ động vật, vi sinh vật. Tùy theo thành phần và hàm lượng hữu cơ
trong đất mà chúng có vai trò khác nhau (Trần Thành Lập, 1999).
Theo Nguyễn Thế Đặng và ctv (1999), chất hữu cơ là thành phần cơ bản kết
hợp với các sản phẩm phong hoá từ đá mẹ để tạo thành.
Chất hữu cơ góp phần cải thiện các tính chất lý, hoá và sinh học đất và cung
cấp nhiều chất dinh dưỡng cho cây trồng (Prihar et al, 1985).
Theo Đỗ Ánh (2002) chất mùn trong đất là một nguồn dinh dưỡng có tương
quan rất chặt chẽ với độ phì nhiêu của đất, nhất là trong điều kiện nhiệt đới ẩm
của chúng ta. Những thành tựu nghiên cứu về chất mùn ở điều kiện nhiệt đới ẩm
của Castagnol 1942, Fridland 19581964, Duchaufour 1968...đã ghi nhận, về sau Ngô
Văn Phụ (19701979) đều cho rằng mùn ở đất Việt Nam rất quan trong việc tạo độ
phì nhiêu đất (Đỗ Ánh và ctv, 2000). Viện nghiên cứu lúa quốc tế cho rằng hàm
lượng chất hữu cơ tối thích cho đất lúa nước là 4%. Nếu giảm 1% chất hữu cơ thì
lân bị giữ chặt trong đất tăng 50mg/100g đất (Đỗ Ánh và ctv, 2000).
Theo Thái Công Tụng (1971), sự ảnh hưởng của chất hữu cơ đến tính chất đất
đai.
Ảnh hưởng của màu sắc đất đai: nâu đến đen
Ảnh hưởng đến tính chất hóa học của đất như: khả năng giữ nước, độ dẻo
dính.
Ảnh hưởng đến khả năng trao đổi base như: làm cho đất đai hấp thụ được
nhiều chất base hơn, 30 90% ngoại hấp là do chất hữu cơ.
Cung cấp và tăng độ hữu dụng của chất dinh dưỡng.
Theo Trần Thành Lập (1999), đất ĐBSCL thường có hàm lượng chất hữu cơ
vào độ trung bình. Đất xám bạc màu có hàm lượng hữu cơ rất thấp 0,3 1,2%. Đất
giàu hữu cơ nhất ĐBSCL là đất than bùn, có hàm lượng hữu cơ đến 25%, đất phèn
cũng giàu chất hữu cơ ở tầng mặt.
Theo Lê Văn Khoa và ctv (2000), chất hữu cơ là chỉ tiêu số một về độ phì, nó
ảnh hưởng đến nhiều tính chất đất như khả năng cung cấp dinh dưỡng, khả năng
hấp phụ, giữ nhiệt và kích thích sinh trưởng cây trồng. Chất hữu cơ là nguồn cung
cấp chất dinh dưỡng chính trong hệ sinh thái đất. Để nông nghiệp phát triển bền
vững nhất thiết phải giảm sự mất mát chất hữu cơ đất, nhất là việc sử dụng đất
vùng nhiệt đới (Lê Văn Khoa và ctv, 2000). Ở vùng nhiệt đới thường có hàm lượng
chất hữu cơ thấp do kết quả của quá trình phong hoá mạnh làm chúng bị phân giải
nhanh. (Nguyễn Xuân Cự, 2005). Trong đất hàm lượng chất hữu cơ cao làm tăng
ẩm độ đất, cải thiện cấu trúc đất tăng khả năng đệm của đất (Charles A. Black,
1993). Trong quá trình khoáng hoá chất hữu cơ tạo ra nhiều dinh dưỡng cung cấp
cho cây trồng, chất hữu cơ làm giảm sự cố định K, P trong đất (Nguyễn Tử Siêm và
ctv, 1999). Chất hữu cơ có khả năng tạo phức với kim loại (Jones and Jarvis, 1981).
Chất hữu cơ có khả năng tạo phức với Al làm giảm Al trao đổi và Al hoà tan trong
dung dịch do đó làm giảm khả năng gây độc của Al cho cây trồng (Hargrove and
Thomas, 1981). Trong đất hàm lượng chất hữu cơ cao làm tăng ẩm độ đất, cải thiện
cấu trúc đất tăng khả năng đệm của đất (Charles A. Black, 1993).
1.2.4 Dung tích hấp phụ cation (CEC)
Dung tích hấp phụ cation hay còn gọi là khả năng trao đổi cation của đất càng
cao chứng tỏ đất có khả năng giữ và trao đổi các dưỡng chất tốt. Đất ĐBSCL
thường chứa nhiều sét và ít hữu cơ nên dung tích hấp phụ thuộc loại trung bình đến
khá (Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004).
CEC của đất liên quan đến khả năng chứa đựng và điều hòa dinh dưỡng và có
liên quan đến phương pháp bón phân hợp lý. Đất giàu chất hữu cơ, có CEC cao cũng
là đất có khả năng bảo quản cao dinh dưỡng cây trồng. Nếu đất chứa Al chiếm
60% CEC thì gây độc cho cây trồng. Đất bạc màu có CEC thấp thì CEC trở thành
yếu tố hạn chế (Đỗ Ánh và ctv, 2000). Theo Nguyễn Vy (2003), dung tích hấp phụ
trong các loại đất Việt Nam trong khoảng 5 30 meq/100g đất. Nhìn chung giá trị
dung tích hấp phụ càng cao thì đất càng phì nhiêu. Tuy nhiên độ phì nhiêu của đất
còn phụ thuộc vào thành phần và tỷ lệ các cation trong dung tích hấp phụ đó
(Nguyễn Vy, 2003).
1.2.5 Độ dẫn điện dung dịch đất (EC)
Độ mặn trong đất làm cản trở quá trình hút nước và dinh dưỡng của cây trồng,
giảm lượng nước hữu dụng trong đất, phá huỷ cấu trúc của đất (Tất Anh Thư,
2006).
EC được tính bằng đơn vị mmhos trên centimet, chính mmhos cũng là trị số
nghịch đảo của đơn vị đo sức cản điện (ohms). Trị số mhos/cm là một đơn vị rất
lớn, phần lớn EC của dung dịch đất thì nhỏ hơn trị số này rất nhiều (Trần Kim
Tính, 2003).
EC là độ mặn của đất, biểu thị trực tiếp hoặc gián tiếp nồng độ muối hoà tan trong
dung dịch đất. Không chỉ có đất mặn mới có lượng muối hoà tan cao, mà trong đất
phèn sự tác động của acid vào khoáng sét, nồng độ muối có thể cao và gây độc cho
cây (Đỗ Thị Thanh Ren, 1999). Theo H. Eswaran (1985), cây lúa rất nhạy cảm với
độ mặn, cây lúa sẽ không phát triển được nếu trên đất lúa nước có EC > 6
mmhos/cm. EC = 4 – 6 mmhos/cm thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của cây lúa,
nếu EC < 2 mmhos/cm thì cây lúa phát triển bình thường.
1.3. Đặc điểm vùng nghiên cứu
1.3.1. Vị trí địa lý
Huyện Lai Vung nằm phía nam
tỉnh Đồng Tháp, có diện tích 23.793,55
ha, chiếm 6,79% diện tích toàn tỉnh
Đồng Tháp. Với dân số năm 2006 là 164.953 người, mật độ dân số khoảng 693,28
người/km2.
Về hành chính, Huyện có 12 đơn vị hành chính bao gồm 01 thị trấn và 11 xã.
Toạ độ địa lý: Hình 1.9: Bản đồ đất huyện Lai
Vung
Từ 10o 08’ đến 10o 24’vĩ độ Bắc.
Từ 105o33’ đến 105o 44’ kinh độ Đông.
Tứ cận:
Phía Bắc giáp huyện Lấp Vò;
Phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long;
Phía Đông giáp thị xã Sa Đéc và huyện Châu Thành;
Phía Tây giáp Thành phố Cần Thơ;
Nhìn chung vị trí địa lý của huyện thuận lợi cho phát triển kinh tế – xã hội nói
chung và tình hình sử dụng đất nói riêng, đồng thời cũng là sức ép không nhỏ trong
sử dụng đât.
Hình 1.10. vị trí huyện Lai Vung trong tỉnh Đồng Tháp
Nằm giáp sông Hậu thuận lợi cho việc giao thông thuỷ, cung cấp nguồn nước
ngọt, bồi đắp phù sa cho đồng ruộng. Huyện có các trục giao thông quan trọng như
kênh mương khai, tuyến vận tải thuỷ quốc gia rạch Sa Đéc, rạch Lấp Vò nối với
cảng Đồng Tháp, cảng Sa Đéc, cảng Cần Thơ và thành phố Hồ Chí Minh tạo điều
kiện vận chuyển nông sản, vật tư phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của huyện.
Quốc lộ 80, quốc lộ 54 đi qua huyện, được nâng cấp sẽ thuận lợi cho sự phát
triển hệ thống giao thông bộ gắn chặt với thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Vĩnh
Long, An Giang và các địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam khác.
Huyện Lai Vung là huyện thuộc vùng ngập nông, nguồn nước ngọt dồi dào,
đất đai màu mỡ thuận lợi cho việc phát triển nền sản xuất nông nghiệp theo hướng
đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao. Có nhiều điều kiện
thuận lợi để phát triển một nền kinh tế toàn diện.
Tuy vậy, Lai Vung là huyện nằm xa các thành phố, cảng, sân bay và các trung
tâm kinh tế lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa Vùng Tàu, Đồng Nai, Bình
Dương…. Nên ít được sức lan toả của các khu vực này và khó khăn trong việc kêu
gọi đầu tư lớn từ bên ngoài cho phát triển công nghiệp.
1.3.2 Đặc điểm địa chất với vấn đề chất lượng đất đai và khả năng sử dụng
đất huyện Lai Vung.
Huyện Lai Vung có mẫu chất đơn giản tạo cho huyện một quỹ đất tương đối
đồng nhất, Huyện có các mẫu chất sau:
+ Đặc điểm địa chất huyện Lai Vung mang cấu trúc chung của tỉnh Đồng Tháp
cũng như vùng Đồng bằng sông Cửu Long, là loại trầm tích trẻ sông biển.
+ Loại đất được hình thành từ trầm tích sông, phân bổ ven sông lớn hình thành
đất phù sa chiếm hầu hết diện tích trong huyện.
Từ các đặc điểm địa chất và địa hình đã tạo nên lớp vỏ thổ nhưỡng thể hiện
cấu trúc đất đai khác nhau giữa các vùng trong huyện. Từ đó bố trí sử dụng đất sẽ
khác nhau.
1.3.3 Đặc điểm địa hình với vấn đề chất lượng đất đai và khả năng sử dụng
đất.
Căn cứ bản đồ địa hình do viện Khảo sát Thiết Kế Thuỷ lợi Nam bộ lập năm
1982 cho thấy xu thế địa hình toàn huyện tương đối bằng phẳng thuận lợi cho canh
tác nông nghiệp.
Địa hình của huyện cao ở ven sông Tiền và phía sông Hậu, trũng lòng máng ở
giữa, cao độ phổ biến (+0,9)(+0,1), cao nhất (+2,0), thấp nhất (+0,8), bề mặt địa
hình bị chia cắt bởi hệ thống kênh mương dầy đặc thuận lợi cho tưới, tiêu, song
hạn chế trong việc cơ giới hoá nông nghiệp.
Đất đai vùng ven sông Hậu là các dải đất phù sa ven sông và ven các kênh rạch
lớn lâu đời, hàng năm được phù sa bồi bắp, nguồn nước ngọt dồ dào quanh năm
thuận lợi cho việc phát triển lúa, màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn trái và
nuôi trồng thuỷ sản.
1.3.4 Đặc điểm khí hậu
Huyện Lai Vung có đặc điểm khí hậu chung của tỉnh Đồng Tháp, nằm ở Đồng
bằng sông Cửu Long, chịu ảnh hưỏng của khí hậu nhiệt đới gió mùa gần xích đạo.
a Gió:
Thịnh hành theo 2 hướng Tây Nam và Đông Bắc (tháng 5 – tháng 11), ngoài ra
còn có gió chướng (tháng 2 – tháng 4), cá biệt mùa mưa có gió lốc xoáy.
b Bốc hơi:
Tập trung lớn vào các tháng 3, 4, 5 và 6, lượng bốc hơi trung bình 35 ly/ngày,
cao nhất 6 –8 ly/ngày. Tổng lượng bốc hơi năm là 1.657,2 ly, tương ứng với lượng
mưa song lệch về thời gian.
Độ ẩm bình quân cả năm 82,5%, bình quân thấp nhất là 50,3%, trong tháng 3
có ẩm độ cao 32,0%.
c- Nắng: Vùng có số giờ nắng cao (208 h/tháng) tháng 3 có số giờ nắng cao
nhất là 9,1 h/ngày.
d Bức xạ: Bức xạ tổng cộng bình quân: 155,0 Kcal/Km2/năm.
Bức xạ trực tiếp 82 Kcal/cm2/năm
Bức xạ khuếch tán 72 Kcal/cm2/năm
Bức xạ hấp thụ 29 Kcal/cm2/năm
e Mưa:
Mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa chiếm 90 – 92% lượng mưa
cả năm, trong đó tập trung tháng 9 và tháng 10 (30 – 40% lượng mưa năm), còn lại
mùa khô chiếm 8 – 10% lượng mưa năm.
+ Mùa khô kéo dài trong 6 tháng, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa
rất thấp, chỉ chiếm khoảng 8 – 10% lượng mưa cả năm. Trong khi đó lượng bốc
hơi khá cao, nó chiếm khoảng 64 –67% tổng lượng bốc hơi cả năm.
+ Mùa mưa: kéo dài trong 6 tháng, từ tháng 5 đến tháng 10, mưa rất tập trung,
lượng mưa trong 6 tháng chiếm 8790% tổng lượng bốc hơi cả năm, chỉ riêng tháng
4 mưa lớn nhất, lượng mưa chiếm 62 63% tổng lượng bốc hơi cả năm. Ngược lại
lượng bốc hơi và nền nhiệt thấp hơn mùa khô. Lượng mưa và tập trung kết hợp
với nước nguồn đã xảy ra lũ lụt lớn trong vùng.
1.3.5. Thuỷ văn
Chịu tác động của 3 yếu tố: Lũ, mưa nội đồng và thuỷ triều biển đông, hàng
năm hình thành hai mùa rõ rệt: Mùa lũ trùng hợp với mùa mưa và mùa kiệt trùng với
mùa khô.
+ Mùa kiệt nối tiếp sau mùa lũ từ tháng 12 đến tháng 6 năm sau. Chế độ thuỷ
văn trong sông, kênh chịu tác động trực tiếp của thuỷ triều biển Đông, mực nước
giảm dần đến tháng 1, 2 trở đi bắt đầu thấp hơn mặt ruộng, từ một số khu vực phía
Nam có thể lợi dụng thuỷ triều khai thác tưới tự chảy.
Biên độ các tháng mùa kiệt lớn, biên độ bình quân từ 0,4 – 1,7 m.
+ Mùa lũ : Lũ xuất hiện ở Đồng Tháp từ tháng 7 đến tháng 11 vào loại sớm
nhất ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó các huyện thị phía Nam cũng
như huyện Lai Vung, lũ về muộn hơn so với các huyện đầu nguồn ảnh hưởng đến
sản xuất, sinh hoạt. Việc tăng cường và hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi là biện pháp
quan trọng để khắc phục khó khăn này.
1.3.6. Cảnh quan môi trường
Những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sinh thái của huyện là:
Đất phèn chiếm khoảng 43,79% tổng diện tích đất tự nhiên.
Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa nắng và mùa mưa.
Nguồn nước ngọt sông Tiền rất dồi dào, chất lượng tốt.
Về cảnh quan của Lai Vung mang đặc trưng cơ bản của vùng đồng bằng Nam
Bộ, với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Địa hình bằng phẳng sông ngòi chằng
chịt, dân cư sống ven theo đường giao thông và kênh rạch, nhà ở chủ yếu là nhà tre,
lá, cơ sở hạ tầng kém phát triển. Môi trường ít bị ô nhiễm bởi chất thải công
nghiệp. Tuy nhiên, đất phèn chiếm khoảng 43,79% tổng diện tích đất, mấy năm
gần đây lũ lụt xảy ra thường xuyên, dân cư đổ mọi chất thải ra kênh rạch, môi
trường nước bị ô nhiễm. Nhân dân lại sử dụng nước mặt để sinh hoạt ăn uống nên
ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ của nhân dân nhất là sau khi ngập lụt.
Mặt khác Lai Vung có hơn 80% dân số sống bằng nghề nông trong sản xuất đã
sử dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật, nên môi trường đất, nước, không
khí ít nhiều đã bị ô nhiễm.
1.4 Đặc điểm của cây cam, quýt:
Trái cam quýt được sử dụng rộng rãi vì có chứa nhiều chất dinh dưỡng cần
thiết cho cơ thể, nhất là vitamin C. vị chua nhẹ và hơi đắng (bưởi) giúp dễ tiêu hóa
và tuần hoàn của máu. Vỏ trái giàu pectin được sử dụng làm mứt, kẹo, làm thuốc
nam hay chích lấy tinh dầu. trái được chế biến thành nhiều loại sản phẩm như
nước giải khát, xy rô, mứt, rượu…
Cam: phiến lá hình xoan hay bầu dục, dài 710 cm, rộng 34 cm, cuống dài 23
cm, cánh lá nhỏ. Hoa lớn mọc ở nách lá, trắng, rất thơm, có 2025 nhị đực, 45 cánh
hoa, bầu noãn có 1012 ngăn. Trái gần hình cầu, vỏ dầy, nhám sần, đường kính 46
cm, thường có màu đỏ cam khi chin, thơm. Thịt trái rất chua và đắng, phần lõi giữa
thì xốp. Trái nặng trung bình 45 trái/kg, nhiều hột, đa phôi.
Quýt: cây nhỏ, cao khoảng 28 mét đôi khi có gai. Lá nhỏ, hẹp, hình xoan, dài
48 cm, rộng 1,54 cm màu xanh đậm bóng ở phía trên mặt và xanh vàng nhạt ở mặt
dưới, cuống có cánh nhỏ. Hoa nhỏ, đường kính 1,52,5 mm, 5 cánh trắng, 20 nhị
đực, bầu noãn có 1015 ngăn. Trái dạng hình cầu hơi dẹp, đường kính 58 cm, vỏ
mỏng dễ lột, màu xanh vàng hay đỏ cam khi chín, nhiều nước màu cam, ngọt. Trái
nặng trung bình 67 trái/kg. Đây là giống khó trồng nhất trong các giống cam quýt.
Cây chịu nóng kém, trồng tốt nhất ở vùng có độ cao trung bình. Hột đa phôi, tử diệp
xanh.
1.4.1 Đặc điểm sinh học và thực vật
a. Rễ:
các giống cam quýt khi trồng bằng hột thường có một rễ cái và những rễ
nhánh. Từ rễ nhánh mọc ra các rễ lông yếu ớt. sự phát triển của rễ thường xen kẽ
với sự phát triển của thân cành trên mặt đất.
các nghiên cứu cho thấy, trong năm hoạt động của rễ có các thời kỳ nhất định
như:
Trước lúc mọc cành mùa xuân
Sau khi rụng trái đợt đầu đến trước lúc mọc cành mùa hè
Sau khi cành mùa thu đã phát triễn đầy đủ
Thường thì khi rễ hoạt động mạnh, rễ lông phát triễn, thân cành sẽ hoạt động
chậm và ngược lại. sự hoạt động của bộ rễ thường kéo dài cả sau các đợt cành
mọc rộ, do đó việc bón phân vào giai đoạn cành phát triễn có tác dụng cung cấp
dinh dưỡng cho cây trong giai đoạn rễ hoạt động.
Sự phân bố của bộ rễ tùy thuộc các yếu tố: tầng đất canh tác, hình thức nhân
giống, loại giống, loại gốc ghép, mực thủy cấp và kỹ thuật trồng. các yếu tố này có
ảnh hưởng làm rễ mọc sâu hay cạn, xa hay gần. Nói chung, rễ cam quýt thường
mọc cạn, đa số rễ hút dinh dưỡng phân bố gần lớp đất mặt. do đó việc giữ cho lớp
đất mặt tơi xốp êm mát có tác dụng giúp cây hút thu được dinh dưỡng tốt hơn.
Rễ mọc ra từ hột thường khỏe, mọc sâu, nếu đất thoát nước tốt và tơi xốp rễ
có thể mọc sâu trên 4 mét. Do đó ở ĐBSCL, trên những vùng đất thấp việc trồng
cam quýt bằng hột hay gốc tháp thường bị ảnh hưởng bởi mặt thủy cấp. Nếu
không lên líp trồng cao và thiết kế bờ bao vườn để điều tiết nước, cây có thể bị suy
yếu dần và chết do thối rễ. Trái lại rễ mọc ra từ cây chiết hay cành giâm thường ăn
cạn hơn, ít bị tác hại bởi mặt thủy cấp.
b. Thân, cành:
cam quýt thuộc loại thân gỗ, dạng bụi hay bán bụi. Các cành chính thường
mọc ra ở các vị trí trong khoảng 1 mét cách mặt đất. Cành có thể có gai, nhất là khi
trồng bằng hột. tuy nhiên sau giai đoạn ra hoa trái, các gai thường ít phát triển. Ở
một vài loài, gai chỉ mọc ra từ những cành sinh trưởng mạnh.
Cành cam quýt phát triển theo lối hợp trục, khi cành mọc dài đến một khoảng
nhất định thì ngừng lại, các mầm bên dưới đỉnh sinh trưởng của ngọn cành sẽ mọc
ra, các cành thứ cấp này cũng mọc dài đến một khoảng nhất định thì ngừng và các
mầm bên dưới đỉnh sinh trưởng lại tiếp tục phát triển giống như cũ.
Trong một năm cây có thể cho 34 đợt cành. Tùy theo chức năng của cành trên
cây, có thể gọi nhự sau:
Cành mang trái:
Là những cành có mang trái, thường mọc ra trong mùa xuân, cành ngắn nhỏ,
mau tròn mình, dài trung bình < 10cm trên cành có lá hoặc vết lá, các cành có mang lá
cho trái tốt hơn. Cành mang trái mọc ra từ những cành lớn hơn gọi là cành mẹ, nững
cành mang trái mọc ở ngọn hay gần ngọn cành mẹ là những cành đậu trái tốt so với
các cành mọc bên trong. Vì phải tập trung dinh dưỡng để nuôi trái nên thường cành
mang trái không tiếp tục cho ra những cành mới trong năm kế tiếp. Sau khi thu
hoạch các cành mang trái thường héo khô đi.
Cành mẹ:
Là cành tạo ra cành mang trái, thường phát triển mạnh trong mùa hè và mùa
thu. Cành to khỏe, lâu tròn mình. Cần nắm được thời vụ ra cành mẹ của cây để có
biện pháp bồi dưỡng tích cực, giúp mọc được nhiều cành mang trái hơn trong mùa
xuân.
Cành dinh dưỡng:
Là tên chỉ chung tất cả các loại cành trong giai đoạn chưa ra hoa trái, thường
mọc ra ở các mùa trong năm.
Cành vượt:
Là loại cành mọc thẳng lên bên trong tán cây, từ những cành chính hay thân.
Cành thường mọc ra trong mùa hè phát triển mạnh, dẹp, màu xanh, lá to bóng láng,
đôi khi có gai dài. Loại cành này khi phát triển đã sử dụng nhiều chất dinh dưỡng
của cây mà không có ích lợi nhiều, chúng lại là nơi sâu bệnh thích tấn công. Do đó
khi cây còn non chưa có hoa trái thì có thể giữ lại để tạo khung tán, còn khi cây đã
trưởng thành thì nên cắt bỏ.
Nói chung sự phát triển của cành tùy thuộc nhiều vào số trái trong năm. Trong
điều kiện tự nhiên, nếu năm nay cây sai trái thì năm sau số trái ra ít đi vì số lượng
cành mọc ra không nhiều. Do đó cần phải chú ý bồi dưỡng cho cây ở giai đoạn sau
thu hoạch để giúp cây có đủ dinh dưỡng tạo nhiều cành mới.
CHƯƠNG 2
PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. PHƯƠNG TIỆN
2.1.1 Phương tiện nghiên cứu
20 mẫu đất được lấy tầng mặt canh tác (030cm)
Các dụng cụ lấy mẫu đất: khoan, ring, bao nilong, ….
Dụng cụ xử lý mẫu: hệ thống sấy mẫu, hệ thống rây, hệ thống ống hút
Robinson…
Phần mềm hỗ trợ: Word, Excel, chương trình thống kê ANOVA,….
2.1.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu Đánh giá tính vật lý – hóa học trên vùng đất trồng cam quýt ở
huyện Lai Vung – Đồng Tháp. Đề tài được thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2009
đến ngày 01 tháng 01 năm 2010.
2.1.3. Địa điểm phân tích mẫu
Khoa Quản lý đất đai, trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Các mẫu đất được lấy ở tầng mặt canh tác (030cm) từ những vườn trồng cam,
quýt điển hình tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Mẫu đất được làm khô không
khí, nghiền và qua rây theo yêu cầu của mỗi chỉ tiêu khác nhau.
2.2.1. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu vật lý
2.2.1.1. Tính bền cơ học đất
Tính bền của đất được phân tích theo phương pháp rây khô và rây ướt của Đại
học Gent, Bỉ (Verplancke, 2002). Hai nghiệm thức tác động ẩm độ khác nhau trước
khi rây ướt được thực hiện:
Phá vỡ tập hợp đất bằng cách không làm ẩm: tập hợp đất được chuyển từ
hệ thống rây khô sang hệ thống rây ướt mà không được làm ẩm