Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN NĂNG LỰC TỰ HỌC VÀ NĂNG LỰC TƯ DUY CHO HỌC SINH TRONG MÔN SINH HỌC LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.15 KB, 7 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN NĂNG LỰC TỰ HỌC VÀ NĂNG LỰC TƯ DUY HỆ THỐNG HÓA
CHO HỌC SINH LỚP 9
BẰNG PHƯƠNG PHÁP “LIÊN KẾT BẢNG” TRONG PHẦN DI TRUYỀN HỌC

Phần 1 – ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Cơ cở lí thuyết
Trong lí luận về phương pháp dạy học nói chung, việc hình thành các khái niệm
được coi là vấn đề chủ đạo của hoạt động nhận thức; mỗi đơn vị kiến thức được gắn liền
với các khái niệm và nhiệm vụ của giáo viên là giúp học sinh hình thành được các khái
niệm đó. Lí luận về phương pháp dạy học sinh học nói riêng cũng khẳng định “Thực
chất của quá trình dạy học Sinh học chính là việc hình thành các khái niệm của lĩnh
vực Sinh học và xếp chúng vào hệ thống các khái niệm một cách khoa học”.
Trước đây, các khái niệm đó do giáo viên sắp xếp theo chương trình giáo khoa và
chủ động cung cấp cho học sinh theo thứ tự các bài học. Còn ngày nay, khi phương
pháp dạy học đã phát triển theo hướng đổi mới thì nhiệm vụ của giáo viên là phải hướng
dẫn học sinh đi theo những con đường logic của nhận thức để tìm ra các khái niệm đó
rồi tự sắp xếp chúng thành hệ thống.
Đặc biệt, đối với học sinh lớp 9, nămg lực tư duy và nhận thức đã phát triển nhất ở
lứa tuổi THCS thì việc rèn kĩ năng tự học cũng như kĩ năng tư duy hệ thống hóa, khái
quát hóa càng phải được chú trọng để học sinh có đủ cơ sở về kiến thức và quan trọng
hơn là phương pháp tiếp cận kiến thức làm hành trang bước sang bậc học THPT cũng
như bước vào cuộc sống thực tiễn sau khi học xong.
Vì vậy, việc giúp học sinh xây dựng kiến thức theo hệ thống là công việc quan trọng
của tất cả các môn nói chung và môn Sinh học nói riêng để học sinh có được cái nhìn
khái quát về môn học, có được thế giới quan khoa học, logic về thực tiễn cuộc sống và
việc học không còn trở thành gánh nặng đối với các em.
2. Thực trạng
Phần Di truyền học của môn Sinh học lớp 9 so với những kiến thức học từ lớp 6
đến lớp 8 có nhiều điểm khác biệt và khó. Cụ thể là:
Thứ nhất, chương trình Sinh học từ lớp 6 đến lớp 8 đều học về các cơ thể, nội dung kiến


thức nói về hình thái, giải phẫu, sinh lí… của các cơ thể. Những nội dung về hình thái,
giải phẫu thì có tranh ảnh, mẫu vật rõ ràng; những nội dung về sinh lí thì có sơ đồ, mô
hình sinh động. Vì thế, các khái niệm đều có thể tiếp cận theo con đường trực quan hoặc
có suy luận cũng chỉ xoay quanh mỗi quan hệ cấu tạo phù hợp với chức năng. Riêng nội
dung của phần Di truyền học thì lại gồm các khái niệm trừu tượng, các học thuyết…
khiến học sinh khó có thể tiếp cận bằng con đường trực quan được.


Thứ hai, trong khi cấu trúc của các bài học từ lớp 6 đến lớp 8 giống nhau, đều là:
cấu tạo – chức năng – thích nghi – tiến hóa thì cấu trúc của các bài học trong phần di
truyền học lớp 9 lại hoàn toàn khác, các đơn vị kiến thức xoay quanh các vấn đề: các cơ
chế di truyền, quy luật di truyền… khiến cho học sinh khi mới tiếp xúc cảm thấy rất
khó và chưa thể định hướng ngay được con đường tiếp cận các nội dung kiến thức đó.
Thứ ba, nội dung mỗi bài học trong phần Di truyền học đều dài hơn so với mỗi
bài học ở các lớp dưới. Nếu với đối tượng học sinh đại trà thì việc hoàn thành mỗi bài
học trong thời gian một tiết thực sự rất khó khăn. Giáo viên có thể tiến hành đủ các hoạt
động dạy và học sinh tham gia đủ các hoạt động học song thời gian dành cho mỗi hoạt
động còn eo hẹp, việc tiếp cận và hiểu nội dung bài học thực sự chưa hiệu quả.
Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên thì đã thực hiện
nhưng việc đổi mới phương pháp học của học sinh trên thực tế còn chưa thực hiện
thường xuyên. Cụ thể là: học sinh vẫn quen học bài nào biết bài đó, những học sinh
chăm học cũng chỉ biết học thuộc những gì có trong sách vở mà chưa biết so sánh, xâu
chuỗi các kiến thức với nhau để có được cái nhìn khái quát và hệ thống về vấn đề
nghiên cứu. Với nội dung các kiến thức nhiều và dài như vậy dẫn tới thực tế là học sinh
cảm thấy “Học là một gánh nặng nhọc nhằn” và mất đi hứng thú đối với việc học, học
chỉ vì sợ điểm kém chứ không phải vì yêu thích sự khám phá tìm tòi.
Thực tế, trong một số năm học trước, tôi tự thấy mình đã giảng dạy rất nhiệt tình,
bỏ ra rất nhiều công sức và biện pháp song số học sinh thích bộ môn sinh 9 còn quá ít
ỏi, nhiều em học hết phần Di truyền học, thuộc nội dung các bài nhưng không thể trả
lời được câu hỏi: “Di truyền học nói về vấn đề gì? Các nội dung đã học có liên quan gì

với nhau?”.
Phần 2- NỘI DUNG
1. Quy trình thực hiện.
Từ những thực trạng nêu trên, qua 6 năm giảng dạy bộ môn sinh học lớp 9, qua
nhiều lần thực hiện các biện pháp khác nhau, tôi thấy mang lại hiệu quả nhất vẫn là
biện pháp hướng dẫn học sinh tự hệ thống hóa kiến thức bằng cách “Liên kết bảng” với
quy trình thực hiện như sau:
Chương I – CÁC THÍ NGHIỆM CỦA MENĐEN
• Thực hiện dạy từ tiết 2 đến tiết 5 với hai bài độc lập, các hoạt động nghiên cứu
lần lượt theo thứ tự sắp xếp trong sách giáo khoa.
• Sau khi kết thúc hai bài học, yêu cầu học sinh so sánh hai thí nghiệm bằng cách
lập bảng.
• Giúp học sinh định hướng các tiêu chí so sánh để cuối cùng lập được bảng so
sánh với cấu trúc:


Bảng 1 – Các quy luật Di truyền.
Thí nghiệm 1 của Men đen Thí nghiệm 1 của Men đen

Các tiêu chí
(3)
1. Cách tiến hành
2. Kết quả
3. Giải thích
4. Quy luật
5. Ý nghĩa
Còn lại cột số 3 thì yêu cầu học sinh để lại và sẽ hoàn thiện khi học thí nghiệm của
Moocgan.
Chương II – NHIỄM SẮC THÓ
• Bài “Nguyên phân”: Hướng dẫn học sinh hoàn thành bảng 9.2 trong SGK

• Bài “Giảm phân”: Yêu cầu học sinh lắp ghép bảng 9.2 và bảng 10 để có được
bảng sau:
Bảng 2 – Nguyên phân – Giảm phân
Các Kì
Nguyên phân
Giảm phân I
Giảm phân II
1. Kì đầu
2. Kì giữa
3. Kì sau
4. Kì cuối
• Sau khi hoàn thành nội dung bảng, yêu cầu học sinh so sánh và chốt những sự
kiện quan trọng của mỗi kì chung cho cả 3 quá trình bằng cách đánh dấu gạch
chân các cụm từ đó:
- Kì đầu: Các NST đóng xoắn, co ngắn.
- Kì giữa: NST đóng xoắn cực đại, xếp hàng trên mặt phẳng xích đạo của thoi phân bào.
- Kì sau: Các NST phân li.
- Kì cuối: Hình thành hai nhân mới.
• Bài “Di truyền liên kết”: Yêu cầu hoàn thành cột 3 của bảng 1và so sánh lại các
quy luật Di truyền.
Chương III – AND và Gen
• Dạy bài “AND” bằng các hoạt động theo thứ tự trong SGK. Sau khi học xong,
yêu cầu học sinh đánh giá xem trong bài đã nói tới những tiêu chí nào của AND.
Từ đó chốt được các tiêu chí: Thành phần nguyên tố - nguyên tắc cấu tạo, các loại
đơn phân – cấu trúc không gian – tính chất.
• Hướng dẫn học sinh về nhà ngiên cứu trước bài “AND và bản chất của Gen” và
tìm ra các tiêu chí còn lại của AND để phát triển bảng xuống phía dưới.
• Bài “AND và bản chất của Gen”: Hướng dẫn học sinh nghiên cứu bằng cách hoàn



thiện cột thứ nhất của bảng với các tiêu chí: Quá trình tổng hợp – Nguyên tắc tổng hợp
– Chức năng.
• Từ bài “Mối quan hệ gen – ARN” đến bài “Mối quan hệ giữa gen và tính trạng”:
Yêu cầu học sinh tự nghiên cứu trước bài và chọn lọc thông tin để mở rộng bảng
về bên trái với 2 cột: ARN và Protein.
Hoạt động trên lớp:
- Các nhóm thảo luận và trình bày, sau đó giáo viên giúp học sinh hoàn thiện nội
dung bảng.
- Sau mỗi phần, yêu cầu học sinh đối chiếu và so sánh, gạch chẫn những điểm
giống nhau, còn lại là những điểm khác nhau.
Cuối chương, học sinh hoàn thiện được bảng sau:

Các tiêu chí

Bảng 3 – AND, ARN, Protein.
ADN
ARN

PROTEIN

1. Thành phần hóa học
2. Nguyên tắc cấu tạo, các
loại đơn phân
3. Cấu trúc không gian
4. Tính chất
5. Quá trình tổng hợp
6. Nguyên tắc tổng hợp
7. Chức năng
Mối quan hệ


Gen (AND) → mARN
mARN → Protein

Từ đó rút ra sơ đồ: Gen (AND) → mARN → Protein → tính trạng
Chương IV – BIẾN DỊ
Sau khi đã hướng dẫn, học sinh quen dần với cách tìm thông tin, khái quát thành
tiêu chí và lập bảng, tiếp tục hướng dẫn học sinh tự định hình cấu trúc của bảng với quy
trình sau:


• Bài “Đột biến gen”: Hướng dẫn học sinh nghiên cứu theo thứ tự SGK. Phần
hướng dẫn về nhà: yêu cầu học sinh tự định hình các tiêu chí và lập bảng hệ
thống các loại biến dị, hoàn thiện cột “đột biến gen”.
• Từ bài “Đột biến cấu trúc NST” đến bài “Thường biến”: Yêu cầu học sinh tự
nghiên cứu trước ở nhà và chọn lọc thông tin điền bảng.
• Các hoạt động trên lớp:
- Cho các nhóm thảo luận, thống nhất trong nhóm.
- Trình bày trước lớp và hoàn thiện.
- So sánh các loại biến dị theo từng tiêu chí.
- So sánh thường biến với đột biến.
Cuối chương, học sinh hoàn thiện được bảng sau:
Bảng 4 – Các loại biến dị

Các tiêu chí

Biến dị tổ
hợp

Đột biến
gen


Đột biến
Đột biến NST
Đột biến số lượng
Đột biến
NST
Dị
bội
CTNST
Đa bội thể
thể

Thường
biến

1. Định nghĩa
2. Phân loại
3. Tính chất
4. Nguyên nhân
5. Vai trò

Chương VI - ỨNG DỤNG DI TRUYỀN HỌC
• Yêu cầu học sinh tự nghiên cứu bài “Công nghệ tế bào” trước ở nhà và tự lập
bảng với cột thứ nhất.
• Trên lớp:
- Cho các nhóm trình bày ý tưởng
- Nhận xét, chốt cấu trúc phù hợp của bảng
• Các bài sau:
- Yêu cầu học sinh tự nghiên cứu trước và lựa chọn thông tin điền bảng.
- Trên lớp: Các nhóm trình bày ý kiến và hoàn thiện.

Cuối chương hoàn thiện được bảng sau:

Bảng 5 - Ứng dụng Di truyền học


Các tiêu chí

CNTB

CNG

Gây
ĐBNT

Tạo dòng
thuần

Tạo
ƯTL

Các
PPCL

1. Khái niệm
2. Quy trình
3. Thành tựu
4. Ưu điểm
5. Hạn chế
6. Phạm vi ƯD
2. Kết quả:

Việc dạy học theo quy trình như trên đã được thực hiện 2 năm và tôi tự thấy hiệu quả
tăng lên rõ rệt, thể hiện ở những minh chứng sau:
- Có nhiều học sinh yêu thích bộ môn hơn, việc ôn đội tuyển học sinh giỏi giảm được
1/3 thời gian.
- Khâu kiểm tra bài cũ: Lượng học sinh học tốt bài cũ và hiểu bài tăng so với các năm
trước trung bình khoảng 30% .
- Kết quả cá bài kiểm tra:
+ Phần trắc nghiệm: Học sinh làm đúng tới 90% (so với các năm trước là 60%).
+ Những câu hỏi so sánh, hệ thống: Số học sinh làm tốt tăng lên (60% so với các năm
trước là 40%).
+ Điểm số:
Các mức
Trước khi áp dụng biện pháp
Sau khi áp dụng biện pháp
8 đến 10 điểm
5% đến 10%
15% đến 20%
5 đến 7 điểm
50% đến 65%
65% đến 75%
Dưới 5 điểm
30% đến 40%
10% đến 15%
Phần 3 – KẾT LUẬN.
Từ những bằng chứng nêu trên, tôi thấy việc thực hiện quy trình là một giải pháp
giúp học sinh trút được gánh nặng “Học thuộc bài” cũng như giáo viên trút được gánh
nặng “Giảng bài mãi mà học sinh vẫn không hiểu”. Hiệu quả của hoạt động dạy và học
tăng lên rõ rệt.
Trong quy trình trên, học sinh đã được tiếp cận từ từ với phương pháp hệ thống hóa
bằng cách liên kết bảng theo thứ tự:

- Giáo viên lập bảng.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh lập bảng.
- Giáo viên gợi ý học sinh tự lập bảng.
- Học sinh tự lập bảng.
Từ đó, học sinh làm quen dần và thấy được việc hệ thống hóa trở nên đơn giản
hơn, nhẹ nhàng hơn và đặc biệt, các em thấy được mối quan hệ giữa các đơn vị kiến
thức, các khái niệm và so sánh được các đơn vị khái niệm đó với nhau. Toàn bộ phần Di


truyền học gần như gói gọn trong 5 bảng hệt thống trên nên giúp cho việc học và ôn tập
cũng trở nên dễ dàng.
Bên cạnh đó, học sinh qua việc chuẩn bị bài ở nhà đã dần hình thành kĩ năng tự
học, từ chỗ lập bảng theo cấu trúc có sẵn tới lập bảng theo gợi ý và cuối cùng là tự mình
lập bảng. Trên lớp, các em được chủ động trình bày ý tưởng của mình. Vì có công tác
chuẩn bị nội dung ở nhà, quỹ thời gian trên lớp tương đối dồi dào để có thể quan tâm
đến những ý tưởng cá nhân, những sáng tạo của cá nhân học sinh.
Biện pháp trên không chỉ áp dụng được với phần Di truyền học mà còn có thể áp
dụng cho các phần khác của bộ môn như: sinh học 7, sinh học 8, sinh thái học của lớp
9.
Phần 4 – KIẾN NGHỊ
1. Việc thực hiện quy trình trên đòi hỏi học sinh phải chuẩn bị bài rất kĩ trước khi
đến lớp, trên lớp phải có kĩ năng trình bày vấn đề và đòi hỏi năng lực tư duy cao. Vì
vậy, ban đầu học sinh sẽ phải đầu tư thời gian tương đối nhiều.
2. Để đảm bảo tất cả các học sinh đều chuẩn bị bài tốt, giáo viên có thể thu bài
chuẩn bị, chấm lấy điểm xác suất. Cách này vừa là động lực giúp học sinh chuẩn bị cẩn
thận hơn, vừa là nguồn cổ vũ động viên từng cá nhân trong việc sáng tạo và trình bày ý
tưởng. Mỗi ý tưởng sáng tạo cần được đánh giá và cho điểm cao.
3. Các hoạt động trên lớp để thực hiện có hiệu quả và triệt để thì cần có một số
phương tiện như: bảng nhóm, bút dạ, máy chiếu…Nhà trường cần đầu tư trang thiết bị
đầy đủ để giáo viên và học sinh có thể thực hiện các hoạt động dạy và học một cách có

hiệu quả.
Trên đây là một trong những biện pháp mà tôi đã thực hiện và thấy kết quả thu
được rất khả quan nên mạnh dạn trình bày để chia sẻ với các đồng nghiệp. Tuy nhiền,
trong nội dung mà tôi đã trình bày ở trên không thể tránh khỏi những thiếu sót và còn
nhiều chỗ chưa được hoàn thiện. Kính mong ban giám khảo và các đồng nghiệp đóng
góp ý kiến để những biện pháp của tôi có thể hoàn thiện hơn, giúp bản thân tôi và các
đồng nghiệp khác dạy cùng chuyên môn có được một giải pháp hiệu quả trong công tác.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đức Hợp, ngày 22 tháng 11 năm 2010
Xét duyệt của Ban giám hiệu
Người viết
……………………………………………………………
…………………………………………………………..
……………………………………………………………
................................................................................
Đặng Bích Nụ



×