Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

SKKN Giải pháp góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thông qua một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.75 KB, 11 trang )

A .ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài.
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần
phải có những người lao động mới phát triển toàn diện về tri thức lẫn nhân cách. Vì
vậy, những đổi mới trong chương trình giáo dục phổ thông hiện nay là nhằm để nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tiễn và truyền thống Việt Nam,
tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước phát triển trong khu vực và trên thế
giới. Cho nên, giáo dục ngoài việc trang bị hệ thống kiến thức cho học sinh cần phải
trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực
thực tiễn, gọi chung là kĩ năng sống.
Đây là trách nhiệm chung của cả gia đình, nhà trường và xã hội, trong đó có vai trò
của người giáo viên. Để làm được điều này, người giáo viên ngoài những yêu cầu về
kiến thức chuyên môn, đòi hỏi phải nắm vững và có phương pháp giáo dục kĩ năng
sống phù hợp, tạo điều kiện để các em cảm nhận được không khí thân thiện với trường
lớp, với gia đình và với mọi người. Tuy nhiên, tùy theo lứa tuổi, bậc học và môn học
mà người giáo viên có những biện pháp giáo dục khác nhau.
Đối với học sinh THCS, đây là lứa tuổi có nhiều thay đổi về mặt tâm sinh lí. Các em
đang được hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm
tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống,
dễ bị lôi kéo, kích động,… Đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị
trường hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên phải chịu tác động đan xen của những yếu tố
tích cực và tiêu cực, bạo lực, lối sống ích kỉ và phát triển lệch lạc về nhân cách. Vì vậy,
việc giáo dục kĩ năng sống là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi, có trách
nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước, giúp các em có khả năng ứng
phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia
đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, hài hòa và lành mạnh.
Ở cấp học THCS, chúng ta có thể giáo dục kĩ năng sống cho các em ở tất cả môn học,
trong đó có môn Ngữ văn. Nhiều bài học của môn Ngữ văn hướng đến việc giúp các
em nhận thức được giá trị cuộc sống, hình thành lối sống, cách ứng xử có văn hóa
trong các tình huống giao tiếp đa dạng của cuộc sống.


Điều quan trọng là chúng ta làm cách nào để giáo dục kĩ năng sống vào trong môn
học một cách khéo léo, linh hoạt và phù hợp với đặc trưng môn học. Để làm được điều
này phụ thuộc rất nhiều vào nội dung, cách thức và phương pháp của mỗi thầy cô giáo
dạy Văn chúng ta. Việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào trong môn học đã được tiến
hành ở môn Ngữ văn tuy nhiên vẫn còn nhiều mới mẻ, cho nên nhiều giáo viên còn
lúng túng, vụng về trong phương pháp, cách thức tiến hành, đôi lúc còn gượng ép,
thiếu tự nhiên, dẫn đến hiệu quả chưa cao; và ngược lại có một số giáo viên còn quá sơ
sài, hoặc quá tràn lan làm ảnh hưởng đến việc truyền tải các đơn vị kiến thức môn học.

1


Chính từ những lí do trên, cùng với kinh nghiệm thực tế được tích lũy trong phương
pháp giảng dạy và cách thức tiến hành giáo dục kĩ năng sống ở môn Ngữ văn lớp 9 mà
bản thân đã thực hiện, tôi xin mạnh dạn nêu lên:
“Giải pháp góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thông
qua một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn lớp 9”
II. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
-Học sinh lớp 9 THCS nơi tôi trực tiếp giảng dạy.
-“Giải pháp góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực thông qua một
số biện pháp giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn lớp 9”
III. Mục đích nghiên cứu.
-Thông qua đề tài nhằm trang bị cho HS kiến thức, thái độ, kĩ năng phù hợp. Trên cơ
sở đó hình thành cho HS những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ những
hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng
ngày.
-Tạo cơ hội thuận lợi để HS phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức,
Có suy nghĩ và hành động tích cực, góp phần xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực.
-Nói cách khác giáo dục kĩ năng sống thông qua môn ngữ văn là rất cần thiết và có tầm

quan trọng đặc biệt.
IV. Điểm mới của đề tài.
-Đưa ra một KNS cơ bản có thể triển khai giáo dục cho HS và những phương pháp
dạy học tích cực có thể sử dụng trong một số tiết ở ngữ văn 9 nhằm thực hiện tốt nhất
mục tiêu giáo dục KNS trong môn Ngữ văn lớp 9, góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông.
- Giúp HS tích cực, hứng thú học tập, lĩnh hội các tri thức, chuẩn mực một cách chủ
động, tự giác.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Cơ sở lí luận:
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến
đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích
cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức
từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong
xã hội đương đại.
Kĩ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp
với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống
của cuộc sống.
Như vậy, bản chất của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và các kĩ năng xã
hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc có hiệu quả.
Giáo dục kĩ năng sống là một trong những mục tiêu đổi mới giáo dục nói chung và
giáo dục phổ thông nói riêng. Đặc biệt rèn luyện kĩ năng sống được xắc định là một

2


trong những nội dung cơ bản của phong trào thi đua”Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực”trong các trường phổ thông.
Chúng ta ai cũng biết rằng, kĩ năng sống không phải tự nhiên có được mà phải hình
thành dần trong quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Kĩ năng

không hình thành, tồn tại một cách độc lập mà hình thành, tồn tại trong mối tương tác
mật thiết có sự cân bằng giữa kiến thức và thái độ. Cho nên quá trình hình thành kĩ
năng sống phải diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục.
Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường học áp dụng phương pháp học tập
thông qua các giao tiếp tích cực với những người khác. Ở Việt Nam để nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát
triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn
trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là: học để
biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống .
Từ đó cho thấy giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông là việc
làm rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông.
Kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng
ngày của con người. Trong giáo dục chính qui ở nước ta trong những năm vừa qua, kĩ
năng sống được phân loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau:
+ Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các kĩ năng như: tự
nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin,

+ Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm các kĩ năng như:
giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, từ chối, bày tỏ sự cảm
thông, hợp tác,…
+ Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách có hiệu quả, bao gồm các kĩ năng như:
tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán, sáng tạo, giao tiếp,….
Trên thực tế, các kĩ năng sống thường không hoàn toàn tách rời nhau mà có liên quan
chặt chẽ với nhau.
II. Thực trạng của vấn đề :
1/ Thuận lợi:
- Ngành Giáo dục đã tạo điều kiện cho chúng tôi được tham gia các lớp tập huấn, các
buổi triển khai chuyên đề về giáo dục kĩ năng sống trong môn học Ngữ văn cấp học
THCS.

- Thư viện nhà trường cũng đã cung cấp tài liệu về giáo dục kĩ năng sống đối với các
môn học, trong đó môn Ngữ văn.
- Sách giáo khoa Ngữ văn hiện hành được biên soạn theo chương trình đổi mới và theo
hướng tích hợp.
- Bản thân cũng đang giảng dạy môn Ngữ văn khối lớp 9, chủ nhiệm lớp 9 cho nên đã
thường xuyên vận dụng, thực hiện giáo dục kĩ năng sống vào các tiết dạy, đặc biệt luôn
có ý thức trau dồi, tích lũy kinh nghiệm về những phương pháp tích cực, cũng như các
biện pháp giáo dục kĩ năng sống mà bản thân đã thực hiện trong quá trình giảng dạy.
3


- Giáo dục kĩ năng sống hiện nay đã được phổ biến rộng rãi trong xã hội, các phương
tiện thông tin đại chúng, cho nên hầu hết các bậc cha mẹ cũng như các em học sinh
cũng đã ý thức được việc hình thành kĩ năng sống và tầm quan trọng của kĩ năng sống
trong cuộc sống bản thân mỗi con người.
- Đặc biệt đối với môn Ngữ văn ở lớp 9 có nhiều bài học với những đơn vị kiến thức,
những tình huống đa dạng, liên quan rất nhiều đến kĩ năng sống,…. cùng với đặc trưng
môn học và những nội dung kiến thức đó đã dễ dàng giúp chúng ta giáo dục kĩ năng
sống cho các em một cách phù hợp, khéo léo.
-Nhà trường đã tổ chức cho các em những buổi hoạt động mang tính thực tế để các em
trải nghiệm thực tiễn kĩ năng sống của bản thân :Câu lạc bộ thơ – nhạc về anh bộ đội
cụ Hồ, Hội chợ xuân, Tham gia lao động Nông thôn mới, Câu lạc bộ tiếng Anh…
2/ Khó khăn:
- Một bộ phận giáo viên chưa chú trọng rèn kỹ năng sống mà chỉ chú trọng nội dung
môn học.
- Một số ít phụ huynh chưa ý thức đến tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống
cho các em trong gia đình dẫn đến thiếu quan tâm và chưa phối kết hợp cùng nhà
trường cùng giáo dục kĩ năng sống cho các em.
- Có nhiều em còn chưa yêu thích môn học, chưa ý thức về tầm quan trọng về việc rèn
luyện kĩ năng sống cho bản thân, kỹ năng giao tiếp còn hạn chế. Từ đó dẫn đến việc

thực hiện giáo dục kĩ năng sống còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, hiệu quả chưa cao.
Tuy nhiên, điều tra chất lượng học sinh lớp 9B về kĩ năng sống trước khi tiến hành
áp dụng đề tài, tôi đã thu được kết quả như sau:
Phân loại đối tượng học sinh
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
9.B
35
2
8
17
8
0
Số liệu trên cho thấy khi áp dụng các phương pháp rèn luyện kĩ năng sống trong môn
Lớp

Tổng số

Ngữ văn thì vẫn còn khá lớn số học sinh chưa nắm được những kĩ năng sống cơ bản,
cần thiết, tỉ lệ học sinh khá, giỏi vẫn chưa cao. Qua đó cho thấy giáo viên đã bước đầu
chú ý rèn luyện kĩ năng nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để giúp học sinh nắm được
kĩ năng sống. Nguyên nhân có thể do các giáo viên giảng dạy Ngữ văn chưa nhiều kinh
nghiệm, biện pháp giáo dục phù hợp, hiệu quả, chưa quan tâm sâu sát đến các đối
tượng học sinh. Nhiều học sinh còn lười biếng, phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến
việc giáo dục kĩ năng sống cho con em mình. Từ đó dẫn đến ảnh hưởng đến chất
lượng, kết quả học tập của các em.
III. Các biện pháp:

1. Biện pháp 1: Giáo viên cần xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng bài dạy có giáo
dục kĩ năng sống.
4


Biện pháp này nhằm mục đích cụ thể hóa những kĩ năng sống phù hợp cần được
giáo dục trong mỗi đơn vị bài học, đơn vị kiến thức. Trên cơ sở đó để giáo viên xác
định được mục tiêu tiết học, nắm chắc trọng tâm bài học, vận dụng phương pháp dạy
học tích cực để rèn luyện những kĩ năng sống cần thiết, phù hợp. Xây dựng được kế
hoạch cụ thể đó, giáo viên sẽ chủ động hơn trong việc soạn bài ở nhà cũng như giảng
dạy trên lớp.
Kế hoạch cần được xây dựng cụ thể, rõ ràng, bám sát nội dung bài học. Kế hoạch
phải thể hiện được việc giáo viên rèn luyện cho học sinh những kĩ năng sống nào, ở nội
dung nào của bài học. Từ đó xác định được các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
Có làm được như vậy thì giáo viên sẽ chủ động hơn trong quá trình giảng dạy ở trên
lớp.
Tiến trình xây dựng kế hoạch như sau:
+ Kết hợp với chương trình phổ thông ngày từ đầu năm học.
+ Xác định những kĩ năng sống cơ bản, cần thiết phải hình thành và rèn luyện cho học
sinh trong một bài dạy.
+ Xác định phương pháp, kĩ thuật dạy học sẽ sử dụng ở những nội dung bài học.
Sau đây là ví dụ minh họa cho kế hoạch giáo dục kĩ năng sống mà tôi đã xây dựng
trong các bài: Phong cách Hồ Chí Minh; Phương châm hội thoại; Đấu tranh cho một
thế giới hòa bình.
Các kĩ năng sống cơ bản được giáo Phương
Tuần Tiết Bài Tên bài
dục
pháp
Sử dụng
- Xác định giá trị bản thân: từ việc - Động não.

tìm hiểu vẻ đẹp phong cách Hồ Chí
Minh (kết hợp tinh hoa văn hóa
Phong
truyền thống dân tộc và nhân loại)
cách Hồ xác định được mục tiêu phấn đấu
1
1-2
1
Chí
theo phong cách Hồ Chí Minh
Minh
trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
- Giao tiếp: trình bày, trao đổi về - Thảo luận
nội dung của phong cách Hồ Chí nhóm, trình
Minh trong văn bản.
bày 1 phút.
- Ra quyết định: lựa chọn cách vận - Phân tích
dụng các phương châm hội thoại tình huống.
Các
trong giao tiếp của bản thân.
phương
1 - 2 3- 8 1-2
- Giao tiếp: trình bày suy nghĩ, ý - Thực hành
châm hội
tưởng, trao đổi về đặc điểm, cách có hướng
thoại
giao tiếp đảm bảo các phương dẫn.
châm hội thoại.
- Động não.


5


2

3

6 -7

11-12

2

3

- Suy nghĩ, phê phán, sáng tạo,
đánh giá, bình luận về hiện trạng
nguy cơ chiến tranh hạt nhân hiện
nay.
Đấu
- Giao tiếp: trình bày ý tưởng của
tranh
cá nhân, trao đổi về hiện trạng và
cho một
giải pháp để đấu tranh chống nguy
thế giới
cơ chiến tranh hạt nhân, xây dựng
hòa bình
một thế giới hòa bình.
- Ra quyết định về những việc làm

cụ thể của cá nhân và xã hội vì một
thế giới hòa bình.
Tuyên - Tự nhận thức về quyền được bảo
bố thế vệ và chăm sóc của trẻ em và trách
giới về nhiệm của mỗi cá nhân đối với việc
sự sống bảo vệ và chăm sóc trẻ em.
còn,
- Xác định giá trị bản thân cần
quyền hướng tới để bảo vệ và chăm sóc
được bảo trẻ em.
vệ và
- Giao tiếp: thể hiện sự cảm thông
phát
với những hoàn cảnh khó khăn, bất
triển của hạnh của trẻ em
trẻ em

- Thảo luận
lớp.
- Minh họa
hình ảnh.

- Vẽ tranh.
- Thảo luận
lớp.
- Minh họa
tranh ảnh.
- Động não.
- Lập kế
hoạch nhóm.


Ví dụ: Trong bài “Tuyên bố thế thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ và phát
triển của trẻ em”, từ kế hoạch trên, tôi xác định kĩ năng sống cần rèn luyện cho các em
là kĩ năng tự nhận thức về quyền được bảo vệ và chăm sóc của trẻ em và trách nhiệm
của mỗi cá nhân đối với việc bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Tôi cho các em thảo luận
nhóm với câu hỏi: Qua bản Tuyên bố trên, em hiểu như thế nào về tầm quan trọng của
vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng như sự quan tâm của cộng đồng quốc tế về vấn
đề này?
Đồng thời, qua hoạt động thảo luận nhóm, giáo viên còn tiếp tục rèn luyện cho các
em kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp.
2. Biện pháp 2: Phân loại học sinh, quan tâm đến từng đối tượng học sinh để có
phương pháp cũng như vận dụng các kĩ thuật dạy học đúng và phù hợp với những
đối tượng học sinh đó.
Bắt đầu vào năm học mới, giáo viên cần phân loại học sinh trong lớp theo các mức:
giỏi, khá, trung bình, yếu kém bằng nhiều hình thức như kiểm tra trắc nghiệm, vấn đáp,

Chúng ta biết rằng, trong một lớp học sẽ có rất nhiều đối tượng học sinh, nhiều hoàn
cảnh, môi trường sống khác nhau, năng lực bản thân và trình độ mỗi em cũng khác
nhau. Nếu giáo viên đưa ra những câu hỏi, hình thức hoạt động quá khó, vượt tầm so
6


với những học sinh yếu, trung bình, các em sẽ không giải quyết được, từ đó sẽ dẫn đến
tình trạng chán học, lười học, không khí giờ học cũng buồn tẻ, nhàm chán, kết quả học
tập sẽ giảm sút, gây ảnh hưởng đến lớp học. Nếu câu hỏi quá dễ sẽ không phát huy,
kích thích, khơi gợi năng lực bản thân, chất lượng học tập của những học sinh khá giỏi.
Đó là chưa kể đến sự chênh lệch giữa lớp này với lớp khác.
Đầu năm học, tôi đã cho học sinh làm một bài kiểm tra ngắn, sau khi thu được kết
quả, tôi đã xếp học sinh vào các nhóm đối tượng.
Sau khi phân loại từng đối tượng học sinh, giáo viên cần xác định các kĩ năng sống

cần thiết ở mỗi hoạt động cơ bản của bài, những phương pháp dạy học và các kĩ thuật
dạy học cho từng đối tượng học sinh cụ thể. Đồng thời, trong quá trình đặt câu hỏi,
giáo viên cần nêu câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp và phân loại được từng đối tượng
học sinh và bám sát vào nội dung bài học.
Ví dụ: Khi dạy ở lớp 9 B, tiết 6 – 7, bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”, tôi lần
lượt tiến hành các bước dạy cho từng đối tượng học sinh như sau:
- Tìm hiểu về “nguy cơ chiến tranh hạt nhân”:
GV: Nguy cơ chiến tranh hạt nhân và sức hủy diệt của nó đã được tác giả chỉ ra bằng
những dẫn chứng nào?
(Dành cho nhóm đối tượng học sinh yếu, trung bình – Rèn kĩ năng tìm kiếm thông
tin).
- Phần tổng kết:
GV: Nêu suy nghĩ, cảm nhận của em về nguy cơ chiến tranh hạt nhân hiện nay trên thế
giới?
(Dành cho tất cả các nhóm đối tượng học sinh – Rèn kĩ năng nhận thức và giao tiếp).
- Liên hệ bản thân: Em sẽ làm gì để ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, đem lại một thế
giới hòa bình?
(Dành cho nhóm học sinh từ trung bình trở lên – Rèn kĩ năng tự nhận thức, thể hiện sự
tự tin, giao tiếp).
- Phần củng cố: Giáo viên cho học sinh thảo luận câu hỏi: Vì sao văn bản này lại đặt
tên là “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”?
(Dành chủ yếu cho nhóm học sinh khá, giỏi – Rèn kĩ năng hợp tác, ra quyết định, giải
quyết vấn đề).
3. Biện pháp 3: Cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản mà giáo viên cần
rèn luyện cho học sinh ở các hình thức rèn luyện
Giáo viên cần cụ thể nội dung của những kĩ năng sống qua các hình thức ra câu hỏi,
các hoạt động, kĩ thuật dạy học mà mình tiến hành.
Đối với phần liên hệ bản thân, giáo viên chủ yếu rèn cho các em tự nhận thức, kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng thể hiện sự tự tin,…. Giáo viên cần rèn cho các em biết thể hiện
bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, các em cần cảm nhận

được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là những kĩ năng cơ
bản và khá quan trọng. Nếu các em cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay
chính kiến nào đó, các em sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy

7


nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp học sinh sẵn sàng học và tiếp nhận
nhiều điều.
Đặc biệt, giáo viên sẽ đỡ mất thời gian, công sức trong việc soạn giảng bài dạy, sẽ dễ
dàng hơn trong quá trình rèn luyện kĩ năng cho học sinh, hình thành cho các em một
thói quen, một phản xạ có điều kiện trước mỗi nội dung, mỗi vấn đề của bài học. Từ
kiến thức bài học, các em có được kĩ năng sống tốt đẹp, cần thiết cho bản thân. Các em
có thể rút ra bài học cho bản thân từ nét đẹp cần phải học tập từ lối sống, phong cách
của Bác Hồ, hoặc lý tưởng sống cao đẹp, sự hy sinh thầm lặng của anh thanh niên
trong “Lặng lẽ Sa Pa”,…. Hơn nữa, nếu làm tốt phần này, giáo viên lại càng bám sát
đúng theo chuẩn kiến thức, kĩ năng mà Bộ giáo dục đã đề ra.
Ví dụ: Giáo viên có thể đặt những câu hỏi như: Em rút ra bài học gì cho bản thân từ
lối sống giản dị mà thanh cao của Bác?; Nêu cảm nhận của em về nét đẹp trong lối
sống, phong cách của Bác? (Bài “Phong cách Hồ Chí Minh”)
Đối với phần thảo luận nhóm, giáo viên rèn cho học sinh các kĩ năng như: hợp tác,
lắng nghe tích cực, thương lượng, giải quyết vấn đề,…
Thực tế trong cuộc sống, các em cũng sẽ gặp những tình huống tương tự như vậy.
Giáo viên cần xác định những kĩ năng sống thực sự cần thiết như vậy để các em thích
ứng và có cách xử lí kịp thời.
Tuy nhiên, giáo viên cũng cần linh động ở mỗi bài dạy, mỗi đơn vị kiến thức, mỗi
lớp, không nên vận dụng một cách quá máy móc, cứng nhắc. Giáo viên nên đơn giản
bằng cách rèn cho các em những kĩ năng gần gũi, quen thuộc, cơ bản và cần thiết nhất
như: kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tự tin, xác định giá trị của bản thân, kĩ năng giao
tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng giải quyết vấn đề,…. Vì thực tế, trong một hình thức, một

hoạt động nào đó mà nhiều kĩ năng sống đã được chúng ta rèn luyện cho các em.
4. Biện pháp 4:
Giáo viên hướng dẫn học sinh tự học ở nhà, học bài cũ và chuẩn bị bài mới trước
khi đến lớp
Sau tiết dạy, trong phần hướng dẫn học sinh học bài, chuẩn bị bài ở nhà, thông
thường các giáo viên thường ít để ý hoặc dành quá ít thời gian cho phần này. Điều này
dẫn đến tình trạng học sinh lười biếng, thói quen ỉ lại, chất lượng học tập giảm sút, làm
cho các em mất luôn những kĩ năng sống tối thiểu.
Cho nên, đối với bài cũ, ngoài việc cho các em nắm chắc kiến thức, cần hướng dẫn
các em những kĩ năng làm bài tập, đặc biệt đối với những tình huống bài tập khó, căng
thẳng. Giúp các em rèn được những kĩ năng như: ứng phó với căng thẳng, giải quyết
vấn đề, tìm kiếm sự hỗ trợ, đạt mục tiêu,… Làm tốt điều này, không những rèn luyện,
giáo dục được kĩ năng sống cho các em mà còn nâng cao được chất lượng học tập của
học sinh và chất lượng giảng dạy của giáo viên.
Ví dụ:
+ Đối với bài “Đấu tranh cho một thế giới hòa bình”, giáo viên có thể chia nhóm, giao
nhiệm vụ cho các em về nhà vẽ tranh thể hiện hiện ý tưởng và nhận thức của bản thân
về nguy cơ chiến tranh và cuộc đấu tranh vì một thế giới hòa bình.

8


+ Sau bài “Thư (điện) chúc mừng, thăm hỏi”, giáo viên cho học sinh về nhà thực hành
viết thư (điện) chúc mừng, thăm hỏi phù hợp với đối tượng và hoàn cảnh giao tiếp.
Đối với việc chuẩn bị bài mới, giáo viên cần yêu cầu học sinh đọc bài, soạn bài trước
khi đến lớp, ghi rõ những nội dung kiến thức chưa hiểu để đến lớp cùng thầy cô giáo
giải đáp, dăn dò học sinh tìm kiếm, chuẩn bị những tư liệu cần thiết cho tiết học mới.
Ví dụ: Trước khi học bài “Phong cách Hồ Chí Minh”, giáo viên chia nhóm, giao
nhiệm vụ cho các nhóm về sưu tầm trước những mẩu chuyện, tranh ảnh,… nói về lối
sống giản dị mà thanh cao của Bác.

Từ đó rèn thêm cho các em kĩ năng hợp tác, tìm kiếm và xử lí thông tin,….
5. Biện pháp 5:
Rèn luyện kĩ năng sống thông qua việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa về văn
học.
Ngoài những tiết học Ngữ văn chính khóa, khi có điều kiện thì giáo viên nên tổ chức
cho các em các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Chúng ta biết rằng, ngoại khóa chính là
một sân chơi thoải mái, bổ ích. Ở đó, các em có dịp được giao lưu, tiếp xúc, được thể
hiện năng lực bản thân.
Giáo viên có thể tổ chức các hình thức như: câu hỏi “Vui để học” về kiến thức văn
học, đi tham quan các di tích có liên quan đến văn học, các Câu lạc bộ sáng tác thơ,
diễn kịch,… như dựng lại đoạn trích “Thúy Kiều báo ân, báo oán” (bài đọc thêm) mà
các em chưa được tìm hiểu trên lớp, trong các tiết chính khóa.
Hoặc sau khi học xong bài “Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền được bảo vệ
và phát triển của trẻ em”, giáo viên cho các em lập kế hoạch nhóm đến thăm một lớp
học tình thương hoặc trẻ em khuyết tật,…
Chính từ đó, các em sẽ thể hiện được năng khiếu của bản thân, thể hiện được kĩ năng
giao tiếp, sự cảm thộng, tự xác định được giá trị của bản thân, các em tự tin hơn trong
giao tiếp, khi đứng trước mọi người và trong cuộc sống.
IV/ Kết quả:
Sau khi tiến hành áp dụng đề tài vào giảng dạy, tôi đã cho học sinh làm bài kiểm tra
khách quan, kết quả cụ thể như sau:
- Em có thể làm gì để góp phần đấu tranh cho một thề giới hòa bình, ngăn chặn và xóa
bỏ nguy cơ chiến tranh hạt nhân?
Lớp

Tổng số

9.B

35


Giỏi
5

Phân loại đối tượng học sinh
Khá
Trung bình
Yếu
16
12
2

Kém
0

Qua bảng điều tra cũng như thực tế cho thấy đa số các em đã có hứng thú hơn đối với
môn học nói riêng và học tập nói chung, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn cuộc
sống. Điều này đã phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, người thầy
“đóng vai trò chỉ là người hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh tự tìm tòi, khám phá tri
thức”. Rèn luyện được các kĩ năng sống tích cực cho các em như tự tin, mạnh dạn khi
trình bày một vấn đề trước tập thể, tính tự lập, tinh thần tập thể,…Ngoài ra, còn giúp
9


cho việc học tập các môn học và tham gia các hoạt động giáo dục của học sinh trở nên
nhẹ nhàng, thoải mái, thiết thực và hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số rất ít em học lực yếu, ý thức học tập chưa
cao, lười ghi chép và làm bài, thiếu tư duy, hoạt động nhóm còn mất trật tự.
V/ Bài học kinh nghiệm:
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông được thực hiện

thông qua dạy học các môn học và tổ chức các hoạt động giáo nhưng không phải là
lồng ghép, tích hợp thêm kĩ năng sống vào nội dung các môn học và hoạt động giáo
dục; mà theo cách tiếp cận mới, đó là sự dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích
cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống
trong quá trình học tập. Với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội
dung các môn học; mà ngược lại còn làm cho các giờ học và hoạt động giáo dục trở
nên nhẹ nhàng hơn, thiết thực và bổ ích hơn đối với học sinh.
Bên cạnh đó, giáo dục kĩ năng sống là một quá trình lâu dài, toàn diện, mọi lúc, mọi
nơi. Cho nên, giáo viên cùng nhà trương cần kết hợp với gia đình để giáo dục kĩ năng
sống cho các em. Cần giáo dục để các em cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình
huống của cuộc sống. Nếu cha mẹ múôn giáo dục các em biết tự giữ kỷ luật, trứơc hết
cần đánh thức sự tự ý thức của các em, cố gắng khơi gợi để các em luôn nghĩ về bản
thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vỡ suy nghĩ tích cực về bản thân các
em. Người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em
và tạo điều kiện tốt nhất cho các em.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận.
Qua thời gian áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy, tôi cảm thấy bản thân dần dần có
ý thức giáo dục kĩ năng sống ngay từ bước soạn bài; cũng như vào trong tiết học ngay
khi có thể; không còn hời hợt, thiếu quan tâm đối với việc giáo dục kĩ năng sống vào
trong bài dạy như ngày trước.Việc áp dụng cũng không còn mang hình thức, đối phó
mà trở thành ý thức và kĩ năng của mỗi giáo viên.
Đề tài cũng đã góp phần làm đa dạng, phong phú thêm cho phương pháp dạy học
Ngữ văn theo hướng đổi mới tích cực hiện nay.
Và điều quan trọng hơn, tôi thấy bản thân các em đã có ý thức sâu sắc về việc rèn
luyên kĩ năng sống, hiểu rõ tầm quan trọng kĩ năng sống đối với cuộc sống các em.
Ngoài ra, một số biện pháp giáo dục kĩ năng sống nêu trên đã làm cho tiết dạy Ngữ
văn thêm sinh động, sôi nổi và tích cực. Kĩ năng sống đi vào tiết Ngữ văn trở nên linh
hoạt, mềm dẻo, không còn cứng nhắc, máy móc và mang tính thực tế, thiết thực hơn; đi
vào cuộc sống thực tế cũng khá tự nhiên, phù hợp.

II. Kiến nghị
Kĩ năng sống rất đa dạng và mang đặc trưng vùng, miền.Việc sử dụng phương pháp
và kĩ thuật dạy học cũng rất đa dạng, tùy thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện dạy học cụ

10


thể. Vì vậy, giáo viên cần vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo cho phù hợp với nhu
cầu, trình độ của học sinh và đặc điểm, hoàn cảnh cụ thể của từng trường.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân, mà tôi đã thực hiện, xin mạnh dạn
trình bày để quí đồng nghiệp cùng tham khảo.
Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các thầy cô giáo và bạn bè
đồng nghiệp!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ Văn 9-NXB GD.
2. Sách giáo viên Ngữ Văn 9-NXB GD.
3. Bồi dưỡng HSG Ngữ Văn THCS quyển 5.-NXB GD Việt Nam
4. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ Văn ở trường THCS - NXB GD.

Hà Tĩnh ngày 12 tháng 10 năm 2016

11



×