Tải bản đầy đủ (.doc) (274 trang)

LUẬN án TIẾN sỹ VAI TRÒ của đạo đức đối với VIỆC HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG điều KIỆN đổi mới HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.35 KB, 274 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1 . Tính cấp thiết của đề tài
Con người không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực phát triển kinh tế xã hội. Sự phát triển con người thực chất là phát triển nhân cách được Đảng
ta khẳng định là cơ sở của phát triển nhanh và bền vững. Vì vậy, việc nghiên
cứu, khai thác các yếu tố tác động tới sự hình thành và phát triển nhân cách
của con người Việt Nam hiện nay đang là vấn đề thu hút sự quan tâm, chú ý
về cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn, không những đối với các nhà
nghiên cứu mà còn đối với các nhà lãnh đạo, quản lý, các tổ chức và cơ quan
giáo dục - đào tạo.
Đạo đức là một trong những giá trị tinh thần phổ quát (Chân-Thiện-Mỹ) của
nhân loại và là bộ phận trọng yếu trong đời sống tinh thần xã hội. Những phẩm
chất đạo đức cá nhân là nền tảng nhân cách của con người. Sự trưởng thành về
đạo đức biểu hiện trình độ phát triển nhân cách và là sự tiến bộ mang tính nhân
văn trong đời sống văn hóa tinh thần của cộng đồng. Trong xu thế nhân văn
hoá sự phát triển của xã hội hiện đại, đạo đức được khẳng định là một nhân tố
nội sinh quan trọng và là một phương diện không thể thiếu cho việc hình thành
nhân cách phát triển hài hoà, toàn diện của mỗi cá nhân.


Trong các giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo
đức là cốt lõi. Những giá trị đạo đức truyền thống như yêu nước, nhân ái,
tình nghĩa, yêu lao động, yêu tự do, độc lập và đặc biệt coi trọng các giá trị
văn hoá tinh thần... đã tạo nên nét bản sắc trong đời sống văn hóa tinh thần
của nhân dân ta. Nó cũng tạo nên cốt cách riêng và những phẩm chất cao
quý trong nhân cách của con người Việt Nam. Chính những giá trị đạo đức
ấy đã tạo nên sức mạnh cho con người và dân tộc Việt Nam trong lịch sử,
cần được phát huy trong sự nghiệp đổi mới hiện nay: Khai thác và nâng cao
vai trò của đạo đức là đòi hỏi mang tính nhân văn của thời đại đối với sự
phát triển con người và là một yếu tố cơ bản để giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc trong tiến trình hội nhập và phát triển.
Khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá (CNH), hiện


đại hoá (HĐH), sự chuyển biến mạnh mẽ những điều kiện kinh tế xã hội dẫn
đến sự chuyển đổi thang giá trị, chuẩn mực và quan niệm đạo đức. Theo đó,
sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam, đặc biệt là lớp người trẻ
tuổi đang chịu những ảnh hưởng từ nhiều phía: Một mặt, nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường, dân chủ hoá đời sống xã hội, những tiến bộ
khoa học công nghệ và mở rộng giao lưu, hội nhập với thế giới đã tạo điều
kiện cho con người trở nên năng động, linh hoạt và duy lý hơn; Mặt khác, nó
đang làm nảy sinh những hiện tượng xói mòn đạo đức, kích thích lối sống


thực dụng, đề cao chủ nghĩa cá nhân... Đó vừa là nguyên nhân vừa là biểu
hiện sự lệch lạc, biến dạng trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách. Thực trạng này cần được nhận thức, đánh giá một cách khách quan,
khoa học để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực từ góc
độ đạo đức.
Diễn biến phức tạp trong đời sống đạo đức của xã hội ta hiện nay đang
làm hình thành những quan niệm, thái độ khác nhau về vai trò của đạo đức
và giáo dục đạo đức đối với sự đào luyện và phát triển nhân cách của con
người Việt Nam trong xã hội hiện đại: hoặc, chỉ nhìn thấy những tác động
tiêu cực từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, định kiến với nó, thậm chí
đem đối lập một cách máy móc đạo đức với kinh tế thị trường. Quan niệm
đề cao đạo đức một cách thái quá thường đồng nhất đạo đức với nhân cách,
tuyệt đối hoá vai trò của đạo đức, xem nó là nhân tố duy nhất xem xét và
đánh giá con người. Trên thực tế. đã từng tồn tại kiểu nhân cách "thụ động",
chỉ biết "chấp nhận" và "thừa hành". Con người như vậy đã hoạt động không
phải với tư cách một cá nhân tự do có cá tính và sáng tạo. Trước yêu cầu của
cuộc sống và những đòi hỏi phát triển của sự nghiệp đổi mới đất nước, mô
hình nhân cách đó không những không còn phù hợp mà còn trở thành lực
cản đối với tiến bộ xã hội; Hoặc, chỉ coi trọng các giá trị vật chất, kỹ thuật
và xem nhẹ các giá trị văn hóa tinh thần trong đó có giá trị đạo đức. Vì thế,



trong giáo dục, đào tạo và sử dụng con người, chỉ coi trọng học vấn, năng
lực chuyên môn, năng lực quản lý, kinh doanh mà bỏ qua việc giáo dục, rèn
luyện các phẩm chất đạo đức. Chính đó là nguyên nhân trực tiếp làm cho
"không ít cán bộ, đảng viên thoái hóa, quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng
phí, xa rời bản chất của giai cấp công nhân", bất chấp đạo lý vì mục đích
kiếm tiền, địa vị và quyền lực, chỉ sau một thời gian nền kinh tế nước ta
chuyển sang cơ chế thị trường.
Những hiện tượng suy thoái đạo đức, biến dạng nhân cách cùng với nó là
các tệ nạn xã hội đang là nỗi nhức nhối trong đời sống xã hội và là một trong
những nguy cơ đối với chiến lược phát triển con người của Đảng. Vì vậy,
vấn đề đạo đức và vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con
người Việt Nam là một vấn đề triết học bức xúc nảy sinh từ thực tiễn đất
nước ta hiện nay, đòi hỏi sự nghiên cứu, khái quát khoa học.
Tất cả những điều trình bày trên đây là những lý do chúng tôi chọn đề tài:
"Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam
trong điều kiện đổi mới hiện nay" để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ góc độ đạo đức học và tâm lý học, các vấn đề đạo đức, nhân cách đã
được nhiều tác giả trong nước cũng như nước ngoài bàn đến. Những công


trình chuyên bàn về đạo đức được dịch sang tiếng Việt chủ yếu là của các
tác giả ở Liên Xô và một số nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN)
trước đây. Các nhà đạo đức học mác xít đã nghiên cứu các hiện tượng đạo
đức và vai trò của đạo đức đối với đời sống xã hội của con người trên cơ sở
thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt trong
cuốn "Đạo đức học - Thử trình bày một hệ thống đạo đức mácxít của
Brandzeladzet”, nhiều hiện tượng đạo đức và vai trò của đạo đức đã được

làm sáng rõ. Tác giả đã luận giải một cách sâu sắc mối quan hệ giữa đạo đức
với tính cách của con người.
Khi nghiên cứu về con người, các nhà triết học, tâm lý học Xô Viết
thường đề cao vai trò của các yếu tố xã hội, của môi trường giáo dục, nhất là
giáo dục đạo đức, giáo dục cộng sản chủ nghĩa (CSCN) đối với sự hình
thành và phát triển nhân cách.
Trong công trình nghiên cứu tập thể "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách", các
tác giả đã nghiên cứu và trình bày nhiều vấn đề liên quan tới sự hình thành
và phát triển nhân cách trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH)
và chủ nghĩa cộng sản (CNCS). Đạo đức cá nhân được xem là một trong
những chuẩn mực của sự phát triển nhân cách, biểu hiện mối quan hệ bên
trong của con người đối với các giá trị xã hội.


Ở nước ta, đạo đức là vấn đề thường xuyên được quan tâm trong cả
nghiên cứu lý luận và đời sống xã hội. Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục và đào tạo con người, Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò của đạo
đức, coi "đạo đức là cái gốc của người cán bộ", là sức mạnh của một con
người mà nhờ có sức mạnh ấy người cán bộ cách mạng mới vượt qua mọi
khó khăn thách thức để rèn luyện và trưởng thành.
Trong nước, có một số cuốn sách bàn về đạo đức như "C.Mác - Ph.
Ăng.ghen- V.I. Lênin, bàn về đạo đức (Viện Triết học 1972), "Đảng ta bàn
về đạo đức (Viện triết học 1973). "Đạo đức mới" của Vũ Khiêu (Nxb Khoa
học xã hội 1974), (chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới" của Tương
Lai (Nxb Sự thật 1983), "Mấy vấn đề đạo đức và thẩm mĩ trong thời kỳ quá
độ" (Viện triết học 1983).
Trong những năm trước đây, dưới góc độ nghiên cứu vấn đề xây dựng
con người mới, "Tinh thần làm chủ tập thể" được xem là phẩm chất đạo đức
hàng đầu, là đặc trưng cơ bản của con người mới XHCN. Sự phát triển con
người tuy có được đề cập nhưng mới dừng ở những khái niệm chung, trừu

tượng, mang tính tư biện, chưa hướng vào sự phát triển đích thực của mỗi cá
nhân.


Từ Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986), cùng với đổi mới
toàn diện đời sống xã hội là sự đổi mới nhận thức về vai trò và vị trí của con
người trong phát triển kinh tế, xã hội. Con người được đặt vào vị trí trung
tâm của mọi chính sách kinh tế, xã hội đòi hỏi sự quan tâm, nghiên cứu cả
cấp độ lý luận và thực tiễn. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về con
người của các nhà khoa học Việt Nam đề cập đến nhiều khía cạnh, nhiều vấn
để khác nhau như: "Nguồn lực con người": "Nhân tố con người"; "Nhân
cách"; "Lối sống"; "Văn hóa"; "Đạo đức" và các mối quan hệ giữa con người
với môi trường tự nhiên, xã hội.. Trong chương trình Khoa học Công nghệ
cấp Nhà nước KX-07. "Con người Việt Nam - mục tiêu và động lực của sự
phát triển kinh tế - xã hội" (1991- l995), có một số đề tài nghiên cứu các yếu
tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con người Việt
nam như: "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều
kiện kinh tế thị trường", (Thái Duy Tuyên),"Vai trò của nhà trường..."
(Hoàng Đức Nhuận), "Vai trò của gia đình..." (GS. Lê Thi), "Những đặc
trưng và xu thế phát triển nhân cách con người Việt Nam..." (Nguyễn Quang
Uẩn), " Ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội" (Đỗ Trọng Hùng)...
Gần đây, trên các sách, báo, tạp chí khoa học có nhiều bài bàn trực tiếp về
đạo đức, vai trò của giáo dục đạo đức và tình hình giáo dục đạo đức trong
các nhà trường [91], [103], đáng chú ý là công trình nghiên cứu của tập thể


các nhà khoa học thuộc Học viện CTQGHCM: "Sự biến đổi của thang giá trị
đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán
bộ quản lý ở nước ta hiện nay" [81]. Liên quan trực tiếp đến đề tài này là
luận án khoa học "Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển nhân

cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Trần Sỹ Phán
[87]...
Qua các tài liệu tìm được, chúng tôi thấy chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách có hệ thống và khảo sát trực tiếp vai trò của đạo đức đối với sự
hình thành nhân cách của con người Việt Nam hiện nay. Công trình luận án
này hy vọng có được những đóng góp bước đầu vào việc nghiên cứu làm rõ
vấn đề này.Tác giả ý thức rằng, đây là một vấn đề quan trọng và một hướng
nghiên cứu mới cần phải đi sâu. Những thành tựu nghiên cứu cũng như
những giá trị khoa học nhiều mặt của các công trình đã được công bố trong
và ngoài nước là tài liệu quý cho chúng tôi tham khảo và kế thừa trong quá
trình nghiên cứu đề tài luận án này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án.
3.1. Mục đích của luận án: Góp phần làm sáng tỏ vai trò của đạo đức
đối với sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam trong sự chuyển
biến mạnh mẽ của tình hình kinh tế - xã hội nước ta hiện nay; từ đó đề xuất


một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của đạo đức trong việc tạo dựng
nhân cách phát triển hài hoà, toàn diện của con người Việt Nam, đáp ứng
yêu cầu phát triển con người của sự nghiệp đổi mới đất nước.
3.2. Nhiệm vụ của luận án: Để đạt mục đích trên, luận án có nhiệm vụ
sau:
- Làm sáng tỏ về mặt lí luận sự thống nhất, khác biệt và tương tác giữa
đạo đức với nhân cách, trong đó làm nổi bật ý nghĩa tác động của đạo đức
với sự hình thành nhân cách.
- Phân tích thực trạng đạo đức, vai trò của đạo đức và một số đặc điểm
nhân cách của con người Việt Nam trong điều kiện kinh tế xã hội nước ta
hiện nay trên cơ sở đó, luận giải những khía cạnh tác động của đạo đức đối
với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam theo những đặc trưng của
mô hình nhân cách mới đang được tạo dựng trong giai đoạn hiện nay.

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của đạo đức, nhằm hình
thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.


4.1. Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên quan điểm triết học, đạo đức học
Mác - Lê nin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam.
Luận án cũng tham khảo các bài viết, các công trình nghiên cứu đã được
công bố của các tác giả trong và ngoài nước trên các lĩnh vực triết học, đạo đức
học, tâm lý học, giáo dục học, xã hội học... có liên quan tới đề tài này.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở vận
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng (CNDVBC) và
chủ nghĩa duy vật lịch sử (CNDVLS), kết hợp giữa phân tích và tổng hợp
các tài liệu lý luận cũng như thực tiễn: phối hợp với các phương pháp hệ
thống, phương pháp so sánh để làm rõ vấn đề mà luận án đề cập.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của luận án là những tác động của đạo đức
đối với sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam hiện nay. Lý luận
chung về nhân cách cũng như những vấn đề triết học về con người được đề
cập trong công trình luận án này chỉ trong chừng mực làm cơ sở cho việc
luận chứng về vai trò của đạo đức. Việc khảo sát những tác động của đạo
đức đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam cũng tập trung chủ


yếu ở giai đoạn từ 1986 tới nay với những biến đổi thực tiễn về kinh tế - xã
hội ở nước ta trong tiến trình đổi mới.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án.
Luận án đã góp phần làm sáng tỏ mối liên hệ nội tại giữa đạo đức và nhân

cách cơ sở khoa học để luận giải vai trò của đạo đức đối với sự hình thành
nhân cách con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới đất nước.
Việc khai thác vai trò của đạo đức như một yếu tố đối với hệ thống trong
cấu trúc nhân cách đức - tài và sự vận dụng tri thức liên ngành triết học, xã
hội học, tâm lý học, xã hội học... để xem xét quan hệ giữa đạo đức và nhân
cách cũng là đóng góp một cho hướng nghiên cứu cũng như lý luận về giáo
dục đạo đức, nhân cách con người, có ý nghĩa thực tiễn ở Việt Nam hiện
nay.
Luận án đã nêu những luận cứ khoa học để đề xuất các giải pháp nâng cao
vai trò của đạo đức trong việc tạo dựng nhân cách phát triển hài hoà và toàn
diện cho con người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ nói riêng.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của công trình luận án này có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong giảng dạy và nghiên cứu triết học về vấn đề đạo đức, nhân
cách, con người, ở các trường Đại học và Cao đẳng, các trường chính trị địa


phương cũng như các cơ quan làm công tác tư tưởng văn hoá, các đối tượng
khác quan tâm tới đề tài.
8. Kết cấu của luận án:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận án
gồm có 3 chương, 7 mục.
Chương 1
ĐẠO ĐỨC VỚI SỰ HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH
1.1. Nhân cách và sự hình thành nhân cách
1.1.1.Về khái niệm nhân cách.
Nhân cách là một vấn đề phức tạp, là đối lượng nghiên cứu của nhiều
khoa học như triết học, tâm lý học, giáo dục học, xã hội học, văn hoá học...
từ những cách tiếp cận khác nhau, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
khác nhau đã hình thành nên rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách.

Có tới hàng trăm định nghĩa nhân cách. Trong khuôn khổ của luận án này,
chúng tôi không trình bày tất cả các quan niệm. Chúng tôi chỉ lựa chọn
những ý kiến, những lập luận, những quan niệm tiêu biểu mà trong giới hạn
nhận thức của mình chúng tôi thấy là đúng đắn, hợp lý; đồng thời phê phán
một số quan niệm mà chúng tôi cho là sai lầm, phiến diện làm cơ sở xác


định một quan niệm phù hợp với góc độ nghiên cứu và yêu cầu của vấn đề
cần giải quyết trong luận án.
Một số khái niệm có liên quan với khái niệm "nhân cách "
Khái niệm "nhân cách" có mối liên hệ mật thiết với các khái niệm con
người", "cá nhân". "cá thể", "cá tính", nhưng không phải là những khái niệm
đồng nhất. Để làm rõ khái niệm nhân cách cần phải phân biệt nội dung cơ
bản của những khái niệm đó.
Trước hết, khái niệm "Con người (pcrsons), dùng để chỉ một chỉnh thể
sinh học - xã hội. Cơ thể con người là một thực thể sinh vật, ở bậc thang cao
nhất của sự tiến hoá vật chất. Là một loài sinh vật (Homo Sapiens), con
người có những đặc thù cấu trúc cơ thể là tiền đề vật chất cho mọi sự phát
triển của nó. Yếu tố sinh học trong con người là những yếu tố hữu sinh, hữu
cơ, những cái về mặt phát sinh gắn bó với tổ tiên động vật của con người"
[17,13]. Đặc biệt, bộ não phát triển là tổ chức vật chất cao nhất trong điều
kiện tồn tại xã hội của con người, có khả năng phản ánh thế giới, có khả
năng tiếp thu và truyền đạt cho người khác những kinh nghiệm lịch sử xã
hội.
Sự xuất hiện con người đầu tiên là do sự đột biến sinh học hay chỉ bằng
con đường biến đổi dần dần cho đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau


giữa các nhà khoa học [76], [98]. Nhưng luận điểm của Ăng ghen "lao động
sáng tạo ra con người" với hàm ý lao động là yếu tố quyết định nhất trong

quá trình chuyển biến từ con vượn thành con người có ý thức vẫn giữ
nguyên giá trị: "Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao
động là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc
của con vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con
người",và "khi bộ óc phát triển, thì các công cụ trực tiếp của bộ óc, tức là
các giác quan, cũng song song phát triển theo [74, [646].
Xét về mặt chủng loài cũng như cá thể, những tổ chức tự nhiên của con
người với tất cả những chức năng của nó đều được phát triển và hoàn thiện
trong hoạt động thực tiễn. Bằng hoạt động lao động và giao tiếp, thế giới
tinh thần của con người được hình thành là bước chuyển dịch từ sự phát
triển sinh học sang hình thành các hệ thống riêng có của xã hội. Con người
là chủ thể của ý thức mà ngay từ đầu, ý thức đã là sản phẩm xã hội. Yếu tố
xã hội trong con người là "tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện do
ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những quy định về mặt xã
hội tạo nên cá nhân con người" [17,13]. Những đặc trưng cơ bản của con
người khẳng định con người là đỉnh cao của sự phát triển tự nhiên đồng thời
là một thực thể xã hội: Có lao động, ý thức và ngôn ngữ. Kết quả là con
người được sinh thành như một chỉnh thể sinh học - xã hội. "Cái tự nhiên


(sinh vật) và cái xã hội ở con người không phải là song song tồn tại mà làm
môi giới cho nhau, thâm nhập vào nhau và in dấu lên toàn bộ hoạt động sống
của con người" [19, 28].
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội mang bản chất xã hội, là chủ
thể của hoạt động nhận thức và thực tiễn, của những quan hệ xã hội và giao
tiếp.Còn khái niệm nhân cách nói lên trình độ phát triển và trưởng thành về
chất lượng xã hội của con người. Con người đã từng được xem như là "hoa
của đất", thì nhân cách của con người chính là mùi hương của bông hoa ấy.
Khái niệm con người và khái niệm nhân cách không đồng nhất.
Khái niệm cá nhân, trước hết dùng để chỉ một con người với tất cả đặc

điểm cấu tạo cơ thể đại biểu cho loài thứ hai là một “nguyên tử” đơn nhất
riêng rẽ của cộng đồng xã hội [121, 25]. Với tư cách là một thành viên của
xã hội, con người được cụ thể hoá trong những cá nhân hiện thực. Ở cấp độ
này, con người được đặc trưng bằng nhiều thuộc tính như: tính chỉnh thể
sinh học - xã hội, tính ổn định trong sự tương tác với môi trường. Nói một
cách khác, mỗi cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất gồm cả một hệ thống
những đặc điểm cụ thể, riêng biệt, không lập lại giữa các cá thể về hình
dáng, sức khoẻ, năng lực, trí tuệ, ý chí, tình cảm v.v.


Khái niệm cá nhân được dùng trong mối quan hệ với cái đối lập là "xã
hội". Mỗi con người ngay từ đứa trẻ mới sinh ra đã tiềm tàng trong nó những
điều kiện và khả năng để trở thành cá nhân như: cấu tạo cơ thể, hệ thần kinh
và các giác quan...Nhưng con người chỉ được xem là một cá nhân khi nó đã
đạt tới độ trưởng thành về mặt thể lực, trí tuệ, và các phẩm chất xã hội. Chỉ
trong mối quan hệ với xã hội, con người mới là một cá nhân. Thông qua
quan hệ xã hội và những hoạt động xã hội, mỗi cá nhân khẳng định cái "tôi"
có bản sắc riêng, có đặc tính riêng và đạt được một trình độ nhận thức nhất
định như là kết quả phát triển nội tại của chính nó. Sự phát triển của cá nhân
phụ thuộc vào sự phong phú của những quan hệ xã hội mà cá nhân đó tham
dự. Trong tác phẩm "Hệ tư tưởng Đức", C. Mác đã viết: Chỉ trong cộng
đồng cá nhân mới có những phương tiện để phát triển toàn diện những năng
khiếu của mình; chỉ có trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân. Vấn đề
đặt ra là ở chỗ, phải tạo ra môi trường xã hội trong đó những phẩm chất và
năng lực không bị hoà tan mà được phát triển tới trình độ tự ý thức, tự biểu
hiện, tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của mình với tư cách chủ thể của
hoạt động, của lịch sử. Cùng với việc vạch ra quá trình hình thành cá nhân,
giải quyết một cách khoa học mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, triết học
Mác đã chỉ ra rằng: xã hội sẽ vận động đến một trình độ mà ở đó "sự phát
triển tự do và toàn diện của mọi người là điều kiện cho sự phát triển tự do và



toàn diện của mỗi người ". Con người tồn tại với tư cách một cá nhân đích
thực - cá nhân mang nhân cách phát triển và hoàn thiện.
Theo chúng tôi, cá nhân là khái niệm dùng để chỉ một cá thể người, là
một thành viên của xã hội và là chủ thể mang nhân cách. Khái niệm cá nhân
là điều kiện đầu tiên đánh dấu lĩnh vực đối tượng của việc nghiên cứu con
người. Nó chứa đựng khả năng cụ thể hoá hơn nữa bằng cách chỉ ra đặc
điểm của con người trong các khái niệm nhân cách và cá tính.
Khái niệm cá thể người, trước hết chỉ tính chất chỉnh thể, là một đơn vị
con người, tính không thể chia nhỏ về những đặc điểm của một chủ thể vật
chất là sản phẩm của sự tiến hoá giống loài, là một cấu tạo về kiểu di truyền
nhất định. Cá thể là một đại diện của loài. Thứ hai, cá thể chỉ sự riêng biệt,
cá biệt của một chủ thể riêng lẻ với các đại biểu khác của loài. Một con
người trong mối quan hệ với xã hội thì gọi là cá nhân, trong tư cách đại
diện cho loài gọi là cá thể.
Khái niệm cá tính chỉ tính độc đáo, tính không lặp lại ở mỗi cá nhân. Cá
tính của con người là một hiện tượng hoàn chỉnh, tổng hợp, đồng thời lại có
tính khác biệt (tính khác biệt là đặc trưng của cá tính). Cá tính vừa mang
những đặc trưng di truyền sinh vật, vừa là những biểu hiện tâm lý, xã hội
của cá nhân trong các hoạt động, lao động, giao tiếp; biểu hiện những nét


đặc thù của sự phát triển của mỗi con người riêng biệt, trên cơ sở tác động
lẫn nhau giữa yếu tố di truyền và hoàn cảnh. Cá tính là cái góp phần tạo nên
bản sắc, làm hình thành cái "tôi", độc đáo của mỗi con người với tư cách là
một nhân cách. Con người là những cá nhân với những thuộc tính riêng, một
mặt phản ánh những đặc trưng phổ biến xã hội - điển hình, mặt khác biểu
hiện nét cá tính đặc thù của nhân cách.
Triết học Mác không phủ nhận cá tính mà coi trình độ biểu hiện của cá

tính là một đặc trưng quan trọng cho thấy sự phát triển phong phú của nhân
cách. Con người với những cá tính mạnh mẽ, tích cực sẽ trở thành nhân cách
phát triển và sáng tạo. Nhưng triết học Mác cũng không tuyệt đối hoá cá
tính, coi đó như là một tiêu chí để phân chia thành hạng "thượng lưu hay
những cá nhân "không tên tuổi", thiếu cá tính, xuất phát từ địa vị xã hội hoặc
từ những phẩm chất cá nhân. Sự phát triển của cá tính vừa là thước đo tính
khách quan mức độ phát triển nhân cách vừa là nhân tố của sự phát triển
đó. Cá tính không đồng nhất với nhân cách.
Khái niệm nhân cách thường được sử dụng trong đời sống hàng ngày. Khi
nhận xét hay đánh giá một người nào đó người ta thường nói: "Đó là người
có nhân cách tốt" hoặc đó là "một con người mất nhân cách". Người được
coi là có nhân cách tốt thường là những cá nhân có những phẩm chất đạo
đức tiêu biểu như. tính trung thực, nhân hậu, dũng cảm, có lương tâm... cá


nhân có ảnh hưởng tốt trong các mối quan hệ xã hội được mọi người trong
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp quý mến, tin tưởng và kính trọng. Cá nhân có
nhân cách là những người mà thông qua hoạt động lao động (nghề nghiệp),
học tập, giao tiếp và ứng xử đã xác lập được uy tín đối với mọi người xung
quanh, được xã hội thừa nhận và đánh giá. Còn khi nói: "ai đó mất nhân
cách" là biểu thị thái độ phê phán đối với cá nhân có hành vi vô đạo đức,
hoặc những phần tử thoái hoá, biến chất về đạo đức trong cộng đồng.
Như thế, trong ngôn ngữ đời sống, khái niệm nhân cách được hiểu là
những phẩm chất đạo đức những giá trị làm người của con người, là sự kết
hợp phẩm chất đạo đức và năng lực là những con người có đủ đức và tài.
Trong triết học phương Đông người ta không bàn một cách trực tiếp khái
niệm nhân cách là gì? Nó bao hàm những yếu tố nào? Những triết gia tiêu
biểu của nền triết học phương Đông ngay từ thời cổ đại đã đưa ra nhiều kiến
giải sâu sắc về vấn đề bản chất, bản tính về đạo làm người... Con người được
xem như là một "tiểu vũ trụ'. Các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên

(trời - đất - vạn vật) con người quan hệ với con người (nhân) và con người
với chính bản thân mình (ngã) được đề cập trong các hệ thống triết học là
những khái niệm về con người và nhân cách ở phương Đông. Sự hài hoà
trong các mối quan hệ trở thành triết lý ứng xử của con người. Trong triết
học "nhân sinh" của Khổng Tử Và các môn phái của đạo Nho, chữ "Nhân"


vừa có nghĩa là Người, nhân ái, vừa có nghĩa là đạo nhân, là noi theo đạo
làm người. Nhân còn là một nhân cách mô phạm lý tưởng của người quân tử
lấy "tu thân" (tu sửa và dưỡng dục đạo đức) làm trọng. Khổng Tử nói: "Khắc
kỷ, phục lễ vi nhân = vượt lên trên mình, phục tùng kỷ luật mới trở thành
Người - Con người có nhân cách [l02, 252].
Thuật ngữ "nhân cách” với ý nghĩa khoa học xuất hiện lần đầu tiên trong
tâm lý học phương Tây vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Khi đó người ta
quan niệm nhân cách là cái mặt nạ che cái "tôi" bên trong. Khi nào cái mặt
nạ đó trùng với cái "tôi" thì nhân cách phát triển đến độ chín muồi. Trong
tác phẩm, "Bàn về tâm lý học khác biệt cá nhân" của W.Stern, khái niệm
nhân cách được dùng để chỉ thuộc tính của những thực thể (Persons) có khả
năng tự xác định và tự phát triển trong thế giới vô cơ lẫn hữu cơ [xem l0,
222]. Cho đến nay, khái niệm nhân cách được hiểu theo rất nhiều nghĩa khác
nhau do sự khác nhau về cách tiếp cận, về quan điểm và khuynh hướng
nghiên cứu.
Quan niệm sinh vật hoá nhân cách
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là lý luận về nhân cách trong học thuyết
phân tâm của S. Freud ( 1856 - 1939). Học thuyết này đã có ảnh hưởng to
lớn trong đời sống xã hội và học thuật ở phương Tây. Theo Freud: trong con


người sống tồn tại những bản năng. Xu hướng của những bản năng này là
luôn luôn bùng lên kích thích con người hoạt động nhằm thoả mãn những

ham muốn, những khoái lạc mang tính sinh vật của nó. Nhưng cái bản năng
này lại vấp phải hàng rào ngăn là ý thức và một cấp tâm lý hình thành dưới
sự tác động của những sự cấm đoán của xã hội. Sự cản trở của ý thức và
những cấm kỵ xã hội đối với xung động bản năng tạo thành cơ chế "bị chèn
ép", "bị kiểm duyệt" Đó là cơ chế tâm lý của những hoạt động của con
người.
Trong lý thuyết phân tâm, nhân cách được quan niệm như là sự tương tác
giữa cái vô thức và ý thức. Ông đưa ra lý luận 3 tầng của nhân cách:
Tầng thứ nhất là bản năng. Bản năng này có trong tất cả mọi sinh vật,
động vật và người.
Tầng thứ hai là bản ngã, hay còn gọi là cái tôi, là sự thể hiện tính cách,
tâm lý của chúng ta. Bản ngã được hình thành do sự va chạm của bản năng
với những yêu cầu bắt buộc của quy phạm đạo đức, của nền giáo dục, của
văn hoá và chịu sự điều hoà, hòa hợp với những quy phạm ấy. Trong cấu
trúc nhân cách (bản năng - bản ngã - siêu ngã) thì bản ngã có vai trò như
người cầm lái con tàu nhân cách


Tầng thứ ba là siêu ngã, còn gọi là cái siêu tôi. Cái cao hơn bản ngã. Cái
siêu tôi được hình thành bởi tác động của những thiết chế xã hội, áp lực của
gia đình, của quy phạm đạo đức đối với những thúc đẩy bản năng mà bản
ngã không thể tự điều hoà được. Cái siêu tôi không hình thành một cách tự
nhiên mà do ảnh hưởng của áp lực từ bên ngoài, và sự khuất phục. Sự chấp
nhận đàn áp của nền giáo dục, của chuẩn mực đạo đức đối với bản năng
không thực hiện một cách có ý thức mà là vô thức.
Toàn bộ sự phân tích của Freud như đã nêu trên là nhằm khẳng định sự
hiện hữu của một tâm linh vô thức và thế giới vô thức này có nhiều ảnh
hưởng, can thiệp vào đời sống ý thức của chúng ta. Trong nhiều công trình
nghiên cứu của mình, Freud đều cố gắng diễn giải và chứng minh rằng: bản
năng tình dục (gọi là năng lực Libido) là bản năng quan trọng nhất. Libido là

nguồn năng lượng, là động lực thúc đẩy con người hành động. Trong trường
hợp bản năng bị chèn ép, bị đè nén sẽ dẫn tới sự suy thoái nhân cách. Khoa
học, nghệ thuật, tôn giáo là những con đường để năng lực đó được "siêu
thăng", hình thành nên nhân cách của những thiên tài sáng tạo [10,56]. Và
ông đã dẫn ra trường hợp của danh hoạ Lêonađơ Vanhxi - nhà hội hoạ kiệt
xuất đã biến say mê tình dục thành say mê hội hoạ. Cái "LIBIDO" không chỉ
là nguồn gốc năng lượng sinh vật của tính tích cực hoạt động mà còn là một
cấp độ đặc biệt trong nhân cách. Từ đó, ông đưa ra định nghĩa: Nhân cách là


những tình cảm, những cố gắng và những tư tưởng phát sinh ra những mâu
thuẫn giữa tính hiếu chiến của chúng ta, động cơ thúc đẩy việc tìm kiếm để
thoả mãn nhu cầu một cách sinh học và sự kiềm chế xã hội chống lại chúng
[dẫn theo 43, 345].
Những giá trị khoa học cũng như những sai lầm trong lý thuyết phân tâm
của Fleud đã có nhiều nhà lý luận phê phán và cũng có nhiều nhà lý luận,
nhà nghệ thuật tán đồng, khai thác. Chúng tôi không có ý định đi sâu vào
vấn đề này. Chỗ hợp lý liên quan đến đề tài này là: con người cũng giống
con vật ở sự tồn tại những bản năng, ham muốn, dục vọng có tính sinh vật.
Cả con người và con vật đều phải thích nghi với môi trường sống, với thực
tại thế giới bên ngoài. Nhưng ở con vật chỉ tồn tại những bản năng thuần
tuý. Còn bản năng ở con người là bản năng đã được ý thức, in dấu những
tác động xã hội của giáo dục, của các quy phạm đạo đức. Sự thoả mãn ích
kỷ dần dần được thay thế bằng sự thoả mãn được xã hội hoá: "Con người chỉ
trở thành người với một cố gắng không ngừng để xã hội hoá. Đời sống xã
hội chỉ có thể có được nếu chúng ta chịu tuân theo những khuôn mẫu xã hội,
những khuôn mẫu này sẽ ức chế và thay đổi những thúc đẩy nguyên thuỷ
của chúng ta. Tất cả sự giáo dục mà chúng ta nhận lãnh chỉ nhằm giải quyết
sự xung khắc giữa bản tính thiên nhiên của chúng ta với văn hóa - nền tảng
của đời sống tập thể [93, 47] .



Những nhà khoa học phát triển học thuyết phân tâm của Freud cũng đưa
ra một số quan niệm khác nhau về nhân cách.
Theo thuyết "siêu đẳng bù trừ" của Adler, nhân cách là sự vươn lên mức
hoàn thiện vì con người luôn có mặc cảm kém cỏi. Sự cố gắng vươn lên ấy
làm cho một số người trở thành ưu việt hơn người khác. Lòng mong muốn
trội hơn người khác, muốn có quyền uy đối với người khác được xem là
những đức tính bẩm sinh quy định nhân cách của con người.
Theo mô hình phân biểu học của Jung (1876 - 1961), nhà tâm lý học Thụy
Điển, đặc trưng của nhân cách trước hết là xúc cảm và tình cảm. Ông cho
rằng, đặc điểm thể tạng và đặc điểm sinh lý là nhân tố quy định nhân cách.
Trong nghiên cứu của nhà tâm lý học hành vi K.Lewin, nhân cách được
xem như là trường tâm lý bên trong" của con người [l0, 73].
Nhà tâm lý học thuộc trường phái nhân văn người Mỹ A. Maslow (19081970) cho rằng: mọi nhu cầu của con người như giao tiếp, tình yêu, lòng
kính trọng, nhu cầu sinh lý, nhu cầu tự thực hiện đều có: tính chất bản năng.
"Tính người" của các nhu cầu và các xung động của con người được hình
thành và phát triển trong quá trình phát sinh chủng loài và các nhu cầu đều
dựa trên cơ sở di truyền nhất định. Nhân cách trong quan niệm của Maslow
là sự trung hoà sinh lý tâm lý học (xem 64].


Có thể liệt kê ra nhiều quan niệm về nhân cách theo nhiều hướng khác
nhau của các nhà tâm lý học phương Tây. Nhưng điểm chung trong các quan
niệm của họ là: nhân cách dường như là những biểu hiện. những trạng thái,
quá trình thuộc về yếu tố sinh học. Họ gần như phủ nhận vai trò của yếu tố
xã hội hoá không đánh giá đúng tác động của những yếu tố đó.
Quan niệm sinh vật hoá nhân cách còn biểu hiện ở những người theo chủ
nghĩa sinh vật tự nhiên. Họ đã lý giải các hiện tượng xã hội, các hoạt động
xã hội của con người bằng quy luật sinh học. Theo quan điểm này thì mọi

quá trình hình thành và phát triển của xã hội; mọi hoạt động, quan hệ xã hội
của con người và nhân cách của nó đều do yếu tố sinh học quyết định.
Chẳng hạn như K.Lorenz, một nhà hành vi học người Áo. Từ những kết quả
nghiên cứu hành vi trên động vật ông cho rằng: chỉ có thể lý giải được
những mâu thuẫn trong tồn tại của con người khi nào "người ta thừa nhận
rằng hành vi của con người... bao gồm trong đó tất cả những tính quy luật...
mà chúng ta được biết rõ ràng nhờ việc nghiên cứu những hành vi của động
vật" [dẫn theo19, 26].
Một số người khác lại cho rằng, những thành tựu khoa học, kỹ thuật làm
cho cuộc đấu tranh sinh tồn yếu đi và xuất hiện tình hình là không chỉ những
kẻ thích nghi nhất, mà ngay cả những kẻ lẽ ra phải chết trong hoàn cảnh
trước đây thì nay vẫn được sống sót. Họ coi nguồn gốc của mọi tai hoạ xã


×