Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Nghiên cứu lựa chọn một số bài tập nhằm nâng cao năng lực đánh cầu thuận tay cao sâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.81 KB, 57 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT

HỒ THIÊN PHÚC
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Đề tài:
NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC ĐÁNH CẦU THUẬN TAY CAO SÂU CHO
NAM SINH VIÊN HỌC LỚP PHỔ TU CẦU LÔNG KHÓA 40

MÃ NGÀNH: 52140206

Cần Thơ 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN MỘT SỐ BÀI TẬP NHẰM NÂNG
CAO NĂNG LỰC ĐÁNH CẦU THUẬN TAY CAO SÂU CHO
NAM SINH VIÊN HỌC LỚP PHỔ TU CẦU LÔNG KHÓA 40

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Th.S. Châu Hoàng Cầu


Hồ Thiên Phúc
MSSV: 9117012
Lớp TD11X6A1 Khóa 37

Cần Thơ 2015


PHẦN MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi trọng vị trí của công tác thể dục thể thao đối với thế hệ trẻ
xem đó là động lực quan trọng và khẳng định cần có chính sách chăm sóc
Giáo Dục - Đào Tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển hài hòa về thể chất, tinh
thần, trí tuệ và đạo đức. Đó là những con người “Phát triển về trí tuệ, cường
tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Thể dục thể thao đã và đang ngày càng góp phần to lớn vào việc bảo
vệ, nâng cao sức khỏe, phục vụ sản xuất chiến đấu và làm phong phú cuộc
sống con người.
Chính vai trò to lớn và ý nghĩa quan trọng của thể dục thể thao mà
ngay từ rất sớm, từ lúc mới giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp, lúc
này chính quyền cách mạng còn non trẻ đang phải đương đầu với muôn vàn
khó khăn, như thù trong giặc ngoài, đói kém, xã hội chưa ổn định. Vị lãnh tụ
của đất nước Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân tập luyện thể dục. Trong
lời kêu gọi toàn dân tập luyện thể dục ngày 27 tháng 3 năm 1946 Bác viết:
“Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho cả nước yếu ớt một phần. Mỗi
người dân khỏe mạnh, là góp phần cho cả nước khỏe mạnh. Vậy luyện tập thể
dục, bồi dưỡng sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”.
Đáp ứng lời kêu gọi của Bác, từ đó đến nay phong trào tập luyện thể
dục thể thao quần chúng đã phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu trong mọi tần lớp nhân dân.

Ngày nay trong công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước và
sự hội nhập của nền kinh tế thế giới. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
việc nâng cao trình độ dân trí, giáo dục cho mọi tần lớp nhân dân nhằm tạo ra
con người mới, phát triển một cách toàn diện về mọi mặt: Đức – Trí – Thể Mỹ.

1


Trong thời đại kinh tế mở cửa này thì thể dục thể thao lại có một vị trí
quan trọng trong việc mở rộng các mối quan hệ với các nước trong khu vực và
trên thế giới, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội.
Những năm gần đây thể dục thể thao Việt Nam cũng đã gặt hái được
một số thắng lợi trên các đấu trường quốc tế và khu vực như các môn: Võ, cầu
lông, điền kinh, cờ vua, bắn súng. Những thắng lợi ấy đã khẳng định sự phát
triển vượt bậc của nền thể thao Việt Nam với bạn bè quốc tế. Góp phần với
các môn thể thao khác mang vinh quang về cho đất nước trong đó không thể
không kể tới môn thể thao cầu lông.
Cầu lông thế giới phát triển rất nhanh về cách đánh, kỹ thuật mới
không ngừng ra đời. Do đó huấn luyện viên, giáo viên và người tập không chỉ
cần nghiên cứu về mặt lý luận chuyên môn mà còn phải học hỏi và hiểu biết
những cơ sở khoa học khác, chỉ có như vậy mới đáp ứng được những yêu cầu
ngày càng cao của giảng dạy và huấn luyện phù hợp với xu thế phát triển
nhanh chóng của môn thể thao cầu lông trong và ngoài nước.
Giảng dạy và huấn luyện cầu lông là một quá trình giáo dục chuyên
môn, chủ yếu bằng các bài tập nhằm hoàn thiện các phẩm chất năng lực, các
mặt của trình độ giảng dạy và huấn luyện nhằm đảm bảo cho người tập đạt
hiệu quả cao nhất trong tập luyện. Các bài tập được sử dụng trong giảng dạy
và huấn luyện phải đảm bảo tính khoa học, được nghiên cứu trong lý luận và
được kiểm chứng trong thực tiễn. Ngoài ra trong quá trình tập luyện, giáo
viên, huấn luyện viên và người tập phải nổ lực sáng tạo, bởi kiểm tra đạt kết

quả cao hiển nhiên là dấu ấn của việc giảng dạy và huấn luyện có hiệu quả.
Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề các kỹ thuật của môn thể thao
cầu lông và việc vận dụng chúng, đó là các công trình có ý nghĩa thực tiễn to
lớn trong công tác giảng dạy và huấn luyện cho người tập ở môn thể thao này.
Để phù hợp với xu hướng phát triển của cầu lông thế giới và khu vực
thì phải cải tiến và đổi mới về trang thiết bị, bài tập, phương pháp giảng dạy
và huấn luyện.
2


Trong giảng dạy và huấn luyện có nhiều kỹ thuật được vận dụng như:
kỹ thuật phát cầu, kỹ thuật đỡ phát cầu, kỹ thuật đập cầu, kỹ thuật đánh cầu,
và kỹ thuật treo cầu….
Trong đó đặc biệt kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu được xem là
một kỹ thuật quan trọng trong lối đánh tấn công có thể nhanh chóng dứt điểm
góp phần tạo nên chiến thắng. Trong quá trình tìm hiểu, quan sát thực tế các
buổi tập của sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất tại Trường Đại học Cần
Thơ tôi nhận thấy việc thực hiện kỹ thuật còn hạn chế đặc biệt là kỹ thuật
đánh cầu thuận tay cao sâu đây là một kỹ thuật cơ bản và là tiền đề cho cầu
lông thành tích cao.
Từ những lý do trên tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu lựa
chọn một số bài tập nhằm nâng cao năng lực đánh cầu thuận tay cao sâu
cho nam sinh viên học lớp Phổ tu cầu lông khóa 40”.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng, đánh cầu thuận tay cao sâu của nam sinh viên
chuyên ngành lớp Phổ tu cầu lông khóa 40. Từ đó, đưa ra biện pháp phù hợp
để nâng cao năng lực đánh cầu thuận tay cao sâu cho nam sinh viên chuyên
ngành Trường Đại học Cần Thơ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục tiêu của đề tài đặt ra chúng tôi phải tiến hành
giải quyết ba nhiệm vụ sau:
2.2.1. Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng đánh cầu thuận tay cao sâu
của nam sinh viên chuyên ngành lớp Phổ tu cầu lông khóa 40.
2.2.2. Nhiệm vụ 2: Lựa chọn một số bài tập nâng cao năng lực đánh
cầu thuận tay cao sâu của nam sinh viên chuyên ngành lớp Phổ tu cầu lông
khóa 40. Từ đó ứng dụng các bài tập trong thực tiển giảng dạy.

3


2.2.3. Nhiệm vụ 3: Đánh giá hiệu quả của việc lựa chọn một số bài
tập nâng cao năng lực đánh cầu thuận tay cao sâu của nam sinh viên chuyên
ngành lớp Phổ tu cầu lông khóa 40.

4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng và nhà nƣớc về vai trò của thể dục thể
thao trong nhà trƣờng
Thể dục thể thao là một bộ phận quan trọng của nền giáo dục XHCN.
Nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện có tri thức, có đạo đức và hoàn
thiện về thể chất.
Tăng cường sức khỏe cho nhân dân, nang cao trình độ thể chất, góp
phần làm phong phú đời sống tinh thần, và giáo dục con người. Đảng ta đã
khẳng định “ Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do
con người” nhân tố con người đóng vai trò quan trọng và được đặc ở vị trí
trung tâm trong tất cả cá lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội.

Như lời Bác Hồ nói “Con người là vốn quý của xã hội, bảo vệ sức
khỏe cho con người là nhiệm vị trọng tâm hàng đầu của ngành TDTT”.
Vì vậy phải quan tâm và bồi dưỡng nhân tố con người phát triển toàn
diện, con người XHCN và Bác cũng từng nhấn mạnh “Muốn xây dựng XHCN
trước hết phải có con người XHCN”.
Đào tạo và bồi dưỡng nhân tố con người là trách nhiệm chung của
Đảng và Nhà nước, nhưng trước tiên thuộc về ngành giáo dục và đào tạo trong
đó có ngành TDTT. Mác và Aghen từng nói “Sự kết hợp trí dục và thể dục,
lao động không chỉ là một trong những phương tiện để nâng cao sản xuất mà
còn là phương thức duy nhất để đào tạo ra những con người phát triển toàn
diện” GDTC đặc biệt là GDTC cho thế hệ trẻ là một bộ phận không thể thiếu
trong nền giáo dục toàn dân, Bác Hồ nói “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước
nhà, gây dựng đời sống mới, việc sử dụng cần có sức khỏe mới thành công”
chính vì vậy mà Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm tới sự phát triển của nền
thể dục thể thao nước nhà.
Đại hội Đảng lần thứ 3 năm 1960 của Đảng Lao Động Việt Nam đã
định hướng công tác giáo dục rèn luyện thể chất đối với tuổi trẻ học đường đã
5


được hội nghị TW 2 tháng 3 năm 1963 phát triển lên một bước phù hợp với
nguyên lý của chủ nghĩa Mác LêNin và phát triển con người toàn diện.
Chỉ thị 06 tháng 10 năm 1980 của ban bí thư TW Đảng về công tác
giáo dục thể chất đã đề cập tới vấn đề quan trọng như vai trò tác dụng của
TDTT vào giáo dục quốc phòng, thể dục thể thao quần chúng, nhất là thể dục
thể thao trong trường học.
Nghị quyết đại hội 7 của ĐCSVN thang6 năm 1991 khẳng định công
tác TDTT cần coi trọng nâng cao giáo dục thể chất trong trường học.
Chỉ thị 112 CT ngày 9 tháng 5 năm 1999 của hội đồng bộ trưởng về
công tác TDTT trong những năm trước mắt: “Đối với HSSV trước mắt cần

phải dạy và học TDTT”.
1.2. Nguồn gốc và chức năng của TDTT
1.2.1. Nguồn gốc của TDTT
Thể dục thể thao ra đời và phát triển theo sự phát triển của xã hội loài
người đó là cơ sở sinh tồn của tất cả mọi hoạt động, là mọi hoạt động thực tiễn
cơ bản nhất. Thể dục thể thao được phát sinh trong những điều kiện sinh hoạt
vật chất nhất định của xã hội đặc biệt là săn bắn. Trong thời cổ xưa con người
sống thành những bầy lớn sinh sống bằng săn bắn là bộ phận sản xuất ra vật
phẩm tiêu dùng chủ yếu nhất của thời đó. Ngay cả trong quá trình giải quyết
những vấn đề thiết thân: Ăn, mặc, ở, của mình. Tất cả mọi hoạt động của con
người điều phục vụ săn bắn là cuộc thi giữa con người và con vật về sức
nhanh, sức mạnh, sức bền, thực tế đấu tranh khốc liệt để sinh tồn đó buộc con
người phải biết dạy và học. Đây chính là điều kiện khách quan để TDTT ra
đời, mặt khác do mọi hoạt động tư duy có rất sớm những kinh nghiệm hoạt
động của con người được tập hợp lại nhiều lần trong cuộc sống và dần dần
được tích lũy lại đã làm cho con người nhận thức được hiện tượng tập luyện,
vì họ hiểu rằng chạy càng nhiều thì chạy càng nhanh, càng dẻo dai hiệu quả
của sự săn bắn càng tốt hơn. Vì vậy trong tập luyện con người nhận thấy việc
tập luyện là rất cần thiết để chuẩn bị lao động, để lao động được khỏe, dẻo dai,
6


bền bỉ. Cho nên người ta tập động tác tương tự như ném, leo trèo dần dần quá
trình lao động và tập luyện con người đã tích lũy kinh nghiệm và truyền từ đời
này sang đời khác. Đây chính là điều kiện chủ quan để TDTT ra đời. Vậy
chức năng vốn có của TDTT là chuẩn bị cho lao động, đi trước lao động.
Trong thời kỳ này TDTT mang tính thực dụng trực tiếp cùng với sự phát triển
của loài người đặc biệt là sự phát triển của khoa học kỹ thuật làm giảm nhẹ
sức lao động của con người. Vì vậy vai trò của TDTT lại mang tính thực dụng
gián tiếp nó chuẩn bị thể lực cho con người. Ngoài ra, nó còn có nhiều vai trò,

chức năng khác như: Thể dục chữa bệnh, thể dục nghề nghiệp, thể dục vệ sinh.
1.2.2. Chức năng cơ bản của thể dục thể thao
Chức năng thể dục thể thao được hiểu là những thuộc tính khách quan
vốn có của nó trong sự tác động tới con người, tới quan hệ giữa con người với
nhau trong sự thỏa mãn và phat triển nhu cầu nhất định của con người và xã
hội.
Chức năng TDTT không phải tự nó được thực hiện mà thông qua sự
hoạt động tích cực của con người, chỉ có trực tiếp tập luyện thì chức năng
TDTT mới được phát huy.
Chức năng đặc thù của thể dục thể thao:
Chức năng giáo dưỡng: Nhằm hình thành cho thế hệ trẻ kỹ năng kỹ
xảo vốn vận động cơ bản quan trọng trong cuộc sống và trang bị tri thức
chuyên môn.
Chức năng thể thao: Khai thác và mở rộng giới hạn khả năng thể lực
và các khả năng liên quan trực tiếp với con người và thể hiện ở thể thao thành
tích cao.
Chức năng giải trí và hồi phục sức khỏe: Nhằm chống lại mệt mỏi,
đáp ứng nhu cầu cảm xúc và hồi phục sức khỏe.
Chức năng chung của thể dục thể thao: Chức năng của thể dục thể
thao liên quan một cách khách quan đến những tác động không chỉ về mặt thể
thao mà cả về mặt phẩm chất tâm lý nhân cách. Vì vậy chức năng đặc thù
7


không thể tách rời những chức năng văn hóa giáo dục chung của nó, bao gồm
các chức năng sau:
Chức năng thẩm mĩ: Thỏa mãn con người về tăng cường sức khỏe,
phát triển thể chất cân đối hoàn thiện.
Chức năng chuẩn mực hóa: thể hiện ở sự đánh giá trình đọ chuẩn bị
thể lực, trình độ tài nghệ thể thao, trình độ hoàn thiện thể chất.

Chức năng công nghệ thông tin: TDTT không những là vật dẫn những
thông tin có ích đối với xã hội loài người trong lĩnh vực này, mà còn là vật
chuyển tải những giá trị TDTT sang con người, tập thể, đất nước, thế hệ khác.
1.3. Đặc điểm sinh lý của lứa tuổi sinh viên
Đa số sinh viên có độ tuổi từ 19 đến 25. Cơ thể của người từ lúc sinh
ra đến khoảng 25 tuổi phát triển theo hướng đi lên, sau đó chậm dần và suy
giảm theo quy luật sinh học. Từ đó sự thích nghi của các hệ thống cơ quan
quan trọng trong cơ thể con người đối với những điều kiện sống mới và thay
đổi môi trường cũng trở nên khó khăn. Ở lứa tuổi này về cơ bản các cơ quan
và hệ thống quan trọng nhất của cơ thể ngừng phát triển theo chiều cao vì bộ
xương đã được xương hóa, nhưng lại phát triển theo chiều ngang và tăng trọng
lượng cơ thể. Nếu được tập luyện thể dục thể thao thường xuyên thì mức độ
linh hoạt của các khớp xương có thể thay đổi. Song khả năng giải phẩu sinh lý
của khớp phải là yếu tố quyết định khi lựa chọn động tác trong tập luyện thể
dục thể thao.
Ở lứa tuổi từ 19 đến 25 cơ bắp đã phát triển tạo điều kiện thuận lợi để
tập luyện phát triển sức mạnh và sứ bền. Cơ thể con người có năng lực hoạt
động cao. Tập luyện thể dục thể thao có hệ thống, khoa học sẽ làm tăng lực co
cơ chính là nhờ tăng số lượng và tiết diện ngang cũng như tăng dần sự đàn hồi
của cơ.
Hệ thần kinh:
Các tố chất thần kinh tiếp tục phát triển chậm để đi đến hoàn thiện,
khả năng tư duy phân tích tổng hợp, trừu tượng hóa phát triển thuận lợi cho sự
8


hình thành phản xạ có điều kiện. Chức năng của hệ thống thần kinh trung
ương thể hiện ở 3 đặc trưng chủ yếu của quá trình thần kinh mà Pap – Lốp đã
chỉ ra cường độ hưng phấn và ức chế; tính cân bằng của quá trính hưng phấn
và ức chế; tính linh hoạt chuyển đổi giữa hai quá trình trên. Thời gian phản xạ

là chỉ tiêu thăm dò đặc tính kết cấu và chức năng phản xạ vận động. Nó gián
tiếp phản ánh loại hình thần kinh, trực tiếp phản ánh trạng thái tức thời và khả
năng điều khiển của vỏ não đối với cơ quan vận động của con người.
Hệ vận động:
Xƣơng: Bắt đầu giảm tốc độ phát triển, phần xụng ở đầu xương đã
được xương hóa, cột hơn sống ổn định hình dáng. Những xương thường xuyên
chiu những lực tác động cơ học lớn vì giàu chất vô cơ, vì thế xương đùi dài,
nhất là xương chày cứng rắn hơn xương cánh tay. Chiều cao cơ thể con người
phụ thuộc vào yếu tố duy truyền, vì thế trong công tác tuyển chọn tài năng thể
dục thể thao chúng ta không bỏ qua yếu tố quan trọng này.
Cơ: Các cơ lớn phát triển tương đối nhanh và các cơ nhỏ phát triển
chậm hơn. Các cơ co phát triển chậm hơn các cơ duỗi.
Hệ tuần hoàn:
Mạch đập: Hệ tuần hoàn đang phát triển và hoàn thiện. tim nam mỗi
phút đập 70 – 80 lần. Mạch đập này được tạo nên hoạt động của tim. Tần số
mạch đập bằng tần số co bóp của tim. Chỉ số mạch lúc yên tĩnh sẽ thay đổi
nhiều dưới tác động tập luyện thể dục thể thao. Bắt mạch là phương pháp đơn
giản, dễ làm và cho ra những thông tin đánh tin cậy về tình trạng chức năng
của hệ tuần hoàn, để đánh giá chức năng cơ thể của con người trong cuộc sống
cũng như hoạt động thể dục thể thao.
Huyết áp:
Là áp lực máu đè lên thành mạch được tạo nên do hoạt động của tim.
Vì có trở lực của các mao mạch cho nên trong động mạch huyết áp tăng lên
trong thời gian tâm thu và đạt mức cao nhất ở cuối thời gian tâm thu. Đó là
huyết áp tối đa tương ứng với thời gian tâm thu. Nó phụ thuộc vào các yếu tố:
9


Sự co bóp của tim, trở lực của mạch máu ngoại biên lớn nên huyết áp trong
thời gian tâm trương vẫn còn ở mức nhất định. Đó là huyết áp tối thiểu và nó

phụ thuộc vào huyết áp tối đa, trở lực của mạch ngoại biên và tính đàn hồi của
thành động mạch. Bình thường huyết áp tối đa từ 100 – 150 mmHg; Dưới 100
mmHg là huyết áp thấp. Trên 300 mmHg là huyết áp cao. Huyết áp tối thiểu
từ 65 – 85 mmHg là trung bình. Chỉ số huyết áp bình thường phụ thuộc vào
lứa tuổi và giới tính. Chỉ số huyết áp là chỉ số tương đối ổn định, trong tập
luyện thể dục thể thao huyết áp ít thay đổi….
Hệ hô hấp:
Xác định khả năng tối đa của đọ sâu hô hấp. Vì vậy, nó là các chỉ số
quan trọng về khả năng hoạt động của bộ máy hô hấp. Dung tích sống phụ
thuộc vào dung tích chung và sức mạnh của các cơ hô hấp, vào lực cản của
lồng ngực và phổi khi chúng co giãn. Dung tích sống của phổi bao gồm thể
tích hô hấp, thể tích khí hút vào bổ sung và thể tích dự trữ thở ra. Dung tích
sống của mổi người rất khác nhau và phụ thuộc vào kích thước cơ thể, giới
tính và lứa tuổi. Ở Việt Nam dung tích sống trung bình của lứa tuổi 20 – 25 ở
nam là 3500ml và ở nử là 2600ml. Để xác định dung tích sống, người ta sử
dụng phế dung kế. Trong thực tiển hoạt động thể dục thể thao để xác định
dung tích sống của phổi, người ta sử dụng test Rozenfall. Trong hoạt động thể
dục thể thao lượng thông khí phổi tăng dần lên phụ thuộc vào công suất hoạt
động. Hoạt động với công suất thấp, thông khí phổi tăng lên chủ yếu là do
tăng khí lưu thông. Hoạt động với công suất tăng dần thí tần số hô hấp tăng
song song với thông khí phổi, khi lượng khí lưu thông tăng lên gần giới hạn
của dung tích sống. Như vậy để có lượng khí lưu thông tăng cao, sự tham gia
của các cơ hô hấp là yếu tố quan trọng.
1.4. Các đặc điểm của tố chất thể lực lứa tuổi sinh viên
Tố chất thể lực của con người là tổng hòa các chất lượng của cơ thể
biểu hiện trong từng điều kiện cụ thể của đời sống, học tập, nghiên cứu khoa
học và hoạt động thể dục thể thao. Khả năng vận động là biểu hiện bên ngoài
10



của các tố chất thể lực. Thể dục thể thao là phương tiện để nâng cao khả năng
vận động góp phần cải tạo thể chất con người.
Các nhân tố về trạng thái chức năng của hệ thần kinh, chất lượng của
các cơ quan vận động và chức năng của các cơ quan đảm bảo năng lượng cho
cơ thể hoạt động có ảnh hưởng rất lớn đến các tố chất thể lực. Hoạt động thể
lực có thể phát triển các mặt khác nhau của năng lực hoạt động thể lực. Các
mặt khác nhau đó của khả năng hoạt động thể lực được gọi là tố chất vận
động.
Có năm tố chất thể lực cơ bản là: sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm
dẻo và khéo léo (năng lực phối hợp vận động). Dựa trên cơ sở sinh lý thể dục
thể thao và lý luận phương pháp thể dục thể thao về tố chất thể lực chúng tôi
đi sâu phân tích đặc điểm của từng tố chất thể lực.
1.4.1. Tố chất sức nhanh
Khái niệm: Sức nhanh là khả năng thực hiện động tác trong một
khoảng thời gian ngắn nhất. Sức nhanh như một tố chất thể lực có biểu hiện ở
dạng đơn giản và phức tạp.
Dạng đơn giản của sức nhanh bao gồm: Thời gian phản ứng, thời gian
của một động tác đơn lẻ, tần số hoạt động cục bộ.
Dạng phức tạp của sức nhanh là thời gian thực hiện các hoạt động thể
thao phức tạp khác. Các dạng đơn giản của sức nhanh liên quan chặt chẽ với
kết quả của sức nhanh ở dạnh phức tạp. Thời gian phản ứng, thời gian của một
động tác lẻ hoặc tần số động tác cục bộ càng cao thì tốc độ thực hiện các hoạt
động phức tạp sẽ càng cao. Song các dạng biểu hiện sức nhanh đơn giản lại
phát triển tương đối độc lập với nhau. Thời gian phản ứng có thể rất tốt, nhưng
động tác riêng lẻ lại chậm, hoặc tần số động tác lại thấp. Vì vậy sức nhanh là
tố chất tổng hợp của ba yếu tố cấu thành, là thời gian phản ứng, thời gian của
một động tác riêng lẻ và tần số hoạt động.
Yếu tố quyết định tốc độ của tất cả các dạng sức nhanh là độ linh hoạt
của các quá trình thần kinh và tốc độ co cơ.
11



Độ linh hoạt của quá trình thần kinh: Thể hiện khả năng biến đổi
nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế trong trung tâm thần kinh. Ngoài ra,
độ linh hoạt thần kinh còn bao gồm cả tốc độ dẫn truyền xung động trong các
dây thần kinh ở ngoại vi. Sự thay đổi nhanh chóng giữa hưng phấn và ức chế
làm cho các nơron vận động có khả năng phát xung động với tần số cao làm
cho đơn vị thả lỏng nhanh, đó là các yếu tố tăng cường tốc độ và tần số động
tác.
Tốc độ co cơ: Tốc đọ co cơ phụ thuộc trước tiên vào tỉ lệ sợi cơ nhanh
và sợi cơ chậm trong bó cơ, các cơ có tỉ lệ sợi cơ nhanh cao, đặc biệt là sợi cơ
nhanh nhóm II – A có khả năng tốc độ cao hơn.
Cơ sở sinh lý để phát triển sức nhanh:
Là tăng cường độ linh hoạt và tốc độ dẫn truyền hưng phấn ở trung
tâm thần kinh và bộ máy vận động, tăng cường sự phối hợp giữa các sợi cơ và
các cơ, nâng cao tốc độ thả lỏng cơ.
Phát triển tố chất sức nhanh: Đảm bảo phát triển tố chất sức nhanh,
chúng ta cần lưu ý đến quá trình sử dụng phương pháp, hệ thống bài tập và
lượng vận động phù hợp cho đối tượng tập luyện mới đem lại kết quả, song nó
được ưu tiên và chú trọng trong những giai đoạn đầu tập luyện.
Trong rèn luyện năng lực sức nhanh cần chú ý:
-

Bài tập cho phép thực hiện đến mức giới hạn.

-

Bài tập phải được tiếp thu đến mức kỹ xảo mới tập trung vào thực

hiện được tốc độ.

-

Thời gian bài tập ngắn sao cho khi thực hiện bài tập không bị

giảm sút tốc độ ở cuối cự ly.
Chính vì vậy, về nguyên tắc phải áp dụng các bài tập đòi hỏi thực hiện
động tác tối đa, trong đó thành phần của lượng vận động và quãng nghỉ phải
hợp lý để việc rèn luyện tốc độ tuân theo xu hướng tối đa và gần tối đa, tức là
người tập phải vượt qua tốc độ cao nhất của mình trong mổi buổi tập. Trong
khi phát triển tốc độ sử dụng chủ yếu là phương pháp lặp lại và cần tuân thủ:
12


-

Cường độ phải được duy trì ở mức tối đa.

-

Cự ly phải đảm bảo để người tập không bị giảm sút tốc độ ở cuối

-

Quãng nghỉ phải đủ để người tập hồi phục hoàn toàn mức độ

cự ly.
hưng phấn thần kinh.
Để rèn luyện sức nhanh còn áp dụng dưới hình thức các trò chơi vận
động thông qua việc gây hưng phấn thần kinh trung ương để tác động phát
triển các tố chất tốc độ. Đó cũng là phương pháp đổi loại hình bài tập để tránh

không rơi vào tình trạng lạm dụng các bài tập phát triển tốc độ quá nhiều gây
ra hiện tượng chặn tốc độ làm ức chế hệ thần kinh trung ương và làm giảm sút
tốc độ trong quá trình tập luyện sức nhanh.
Hoàn thiện các nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ tối đa người ta sử dụng
đa dạng loại hình bài tập với nhiều mục đích khác nhau như hoàn thiện kỹ
thuật, phát triển sức mạnh tốc độ, khả năng hoạt động linh hoạt của các khớp,
biên độ thực hiện động tác…
1.4.2. Tố chất sức mạnh
Khái niệm: Sức mạnh là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài hoặc
chống lại lực cản đó nhờ sự nổ lực của cơ bắp. Sức mạnh có quan hệ chặt chẽ
với các tố chất thể lực khác, với kỹ thuật động tác và tâm lý người tập.
Trong hoạt động khắc phục, lực cản là lực chống lại chuyển động.
Trong hoạt động nhượng bộ, lực cản là lực tác động theo hương chuyển động.
Cơ bắp có thể phát huy sức mạnh trong những trường hợp sau:
+ Không thay đổi chiều dài của cơ chế (chế độ tĩnh lược).
+ Giảm độ dài của cơ (chế độ khắc phục).
+ Tăng độ dài của cơ (chế độ nhượng bộ).
Phân loại: dựa vào chế độ làm việc của cơ vừa nêu trên, ta có thể phân
sức mạnh thành các loại sau:
Sức mạnh tĩnh: thể hiện ở những hoạt động tĩnh hoặc ở các hoạt động
chậm.
13


Sức mạnh tốc độ: thể hiện ở những hoạt động mạnh, giữa lực cản và
tốc độ có mối quan tỷ lệ nghịch.
Sức mạnh bộc phát: biểu hiện chỉ số mạnh lớn nhất trong một thời
gian ngắn nhất.
Ngoài ra, để so sánh sức mạnh của những người có trọng lượng cơ thể
khác nhau, người ta sử dụng khái niệm: Sức mạnh tuyệt đối và sức mạnh

tương đối. Sức mạnh tương đối là chỉ số sức mạnh trên một kg trọng lượng cơ
thể. Còn sức mạnh đạt được trị số lớn nhất trong một dao động nào đó gọi là
sức mạnh tuyệt đối.
Như vậy, những người có trình độ tập luyện như nhau, song trọng
lượng cơ thể khác nhau thì khi trọng lượng cơ thể càng lớn thì sức mạnh tuyệt
đối cang lớn, nhưng sức mạnh tương đối sẽ giảm đi.
Phát triển tố chất sức mạnh: Muốn phát triển các dạng của tố chất
sức mạnh, chúng ta cần chú ý đến quá trình sử dụng phương pháp, hệ thống
bài tập và lượng vận động phù hợp cho đối tượng tập luyện mới đem lại kết
quả phát triển cao. Như đã biết, sức mạnh tốc độ phát triển tốt phải dựa trên cơ
sở phát triển sức mạnh tuyệt đối và sức bền đầy đủ. Vấn đề này phụ thuộc vào
tốc độ chuyển trạng thái hưng phấn, mà sức mạnh tốc độ phụ thuộc vào mức
độ co cơ. Hàm lượng ATP trong cơ thể lại là nguồn năng lượng chính cung
cấp cho các hoạt động của co cơ. Chính vì vậy để nâng cao hoạt động của hệ
thần kinh – cơ bắp cần chú ý đến năng lượng cung cấp cho chúng và quá trình
tái tổng hợp lại số năng lượng đó.
Do vậy đối với các bài tập sức mạnh – nhanh cần phải có đủ thời gian
để hồi phục lại số năng lượng tiêu hao. Đặc trưng nổi bật trong các bài tập sức
mạnh là cơ thể hoạt động nhờ tiêu hao năng lượng được tích lũy sẵn trong cơ
bắp, như vậy cần phải phát triển tốt sức mạnh tuyệt đối.
Để xác định được trọng tải bên ngoài đối với mục đích phát triển sức
mạnh tuyệt đối cần dựa vào sức mạng tương đối. Qua nghiên cứu đã xác định
được sức mạnh tương đối về mức độ hoạt động của các nhóm cơ tham gia
14


thực hiện các động tác co duỗi tính theo công thức: Sức mạnh tương đối bằng
sức mạnh tuyệt đối trên trọng lượng cơ thể.
Khi phát triển khả năng nâng cao sử dụng lực trong thực hiện động tác
người ta cần chú ý đến các điều kiện:

-

Bài tập thực hiện với cường độ tối đa.

-

Bài tập phải được thể hiện về khả năng phối hợp cao.

-

Bài tập với trọng tải bên ngoài phù hợp cho độ tuổi không gây

ảnh hưởng đến phát triển thể chất, thể trạng của cơ thể nhất là đối với người
tập còn trẻ.
-

Thời gian của bài tập phải đủ sao cho khi thực hiện bài tập không

bị ức chế thần kinh.
Chính vì vậy về nguyên tắc là phải áp dụng các bài tập đòi hỏi thực
hiện động tác tối đa, trong đó thành phần của lượng vận động và quãng nghỉ
phải hợp lý để việc rèn luyện sức mạnh tuân theo hướng tăng cường độ sau đó
mới tăng trọng tải. Khi đưa ra bài tập phát triển sức mạnh chúng ta phải xác
định trên cơ sở diễn biến của hệ thần kinh – cơ bắp.
1.4.3.

Tố chất sức bền

Khái niệm: Sức bền là khả năng thực hiện lâu dài một hoạt động nào
đó. Khái niệm sức bền như một tố chất thể lực, vì vậy có tính tương đối cao,

nó được thể hiện trong một loạt hoạt động nhất định. Hay nói cách khác sức
bền là một khả năng chuyên biệt thể hiện khả năng thực hiện lâu dài một hoạt
động chuyên môn nhất định.
Sức bền không chỉ phụ thuộc vào tiềm lực năng lực của con người mà
còn phụ thuộc vào việc biết cách dự trữ năng lượng đó một cách tiết kiệm.
Tính kinh tế phụ thuộc vào:
- Cường độ hoạt động cơ.
- Kĩ thuật của hành vi vận động.
- Phương án chiến thuật lựa chọn.

15


Trong đó tiềm năng năng lượng của hoạt động sức bền phụ thuộc chủ
yếu vào:
- Khả năng hấp thụ oxy tối đa của cơ thể.
- Khả năng duy trì lâu dài mức hấp thụ oxy cao.
Phát triển tố chất sức bền: Những phương pháp hữu hiệu để phát
triển sức bền đó là:
Phƣơng pháp liên tục kéo dài: đặc điểm của phương pháp này là
không có quãng nghỉ, thực hiện với cường độ thấp cho đến trung bình và thực
hiện với khối lượng lớn, áp dụng chủ yếu vào thời kỳ chuẩn bị và giai đoạn
đầu của quá trình tập luyện. Phương pháp này nhằm cải thiện khả năng hấp
thụ oxy đạt được bằng hai cách:
Một là lượng vận động kéo dài liên tục trong điều kiện ưa khí.
Hai là lượng vận động kéo dài với cường độ thai đổi.
Các bài tập sử dụng chủ yếu là tập chạy việt dã có cường độ 40 – 60%
cường độ tối đa, cự ly chạy từ 2 – 10 km hoặc thời gian hoạt động từ 10 phút
đến trên 30n phút/giáo án. Để đánh giá khả năng chịu đựng của cơ thể chúng
ta quan tâm tới mạch đập, khi mạch đập lên đến 130 – 150 lần/phút thì bài tập

mới có hiệu quả phát triển sức bền chung.
Phƣơng pháp giãn cách tƣơng đối: đặc điểm của phương pháp này
là quãng nghỉ ngắn và quãng nghỉ không phục vụ cho sự hồi phục hoàn toàn,
cường độ từ 60 – 75% cường độ tối đa, khối lượng tương đối lớn nhờ số lần
lặp lại nhiều từ 5 – 20 lần/giáo án, số lần lập lại nhiều hay ít phụ thuộc vào cự
ly chạy – cường độ - quãng nghỉ và đặc điểm trình độ của người tập mà số lần
đưa ra cho hợp lý. Sử dụng phương pháp này nhằm phát triển sức bền ưa khí
bằng các bài tập yếm khí với tốc độ tới hạn, trên tới hạn thực hiện quãng nghỉ
ngắn sẽ diển ra khả năng hấp thụ oxy thông qua cự ly chạy từ 100 – 300m và
tổng khối lượng từ 2 – 3,5km/giáo án hoặc thời gian thực hiện bài tập kéo dài
2 đến 5 phút và lặp lại 2 – 3 tổ/ giáo án. Xác định hiệu quả của bài tập tốt là

16


mạch đập từ 150 – 170 lần/phút và hàm lượng axit lactic ở trong máu từ 2 – 4
mol/lít.
Phƣơng pháp giãn cách tuyệt đối: mục đích chính là tạo điều kiện
khả năng cơ thể hoạt động trong điều kiện thiếu dưỡng khí hỗ trợ cho việc
phát triển sức bền cơ sở, làm tiền đề và nền tảng cho phát triển sức bền chuyên
môn. Khi vận dụng cường độ ở phương pháp này chỉ sử dụng tối đa đến 84%
cường độ tối đa, nếu không sử dụng vượt quá sẽ phát triển sức bền tốc độ.
Khối lượng sử dụng phương pháp này không lơns, tối đa / giáo án tổng là 1,5
– 2 km và quãng nghỉ từ 2 đến 5 phút sau mổi lần thực hiện.
1.4.4. Tố chất mềm dẻo
Khái niệm: Mềm dẻo là khả năng thực hiện các động tác với biên độ
lớn của hệ vận động .
Mềm dẻo được thể hiện ở trình độ linh hoạt của các khớp, độ đàn hồi
của cơ bắp và dây chằn. Do đó người ta thường đánh giá mềm dẻo theo số đo
độ góc hay chiều dài.

Mềm dẻo mang tính chất chuyên biệt và phụ thuộc vào tính chất hoạt
động, môi trường bên ngoài, trạng thái cơ thể, lứa tuổi, giới tính….
Có hai loại mềm dẻo: Mềm dẻo tích cựu do sự nổ lực cơ bắp và mềm
dẻo thụ động do tác động của ngoại lực.
Phát triển tố chất mềm dẻo: Trong phát triển thể lực chung, việc tập
luyện khả năng mềm dẻo là rất cần thiết cho việc thực hiện mổi hoạt động với
tính nhịp điệu và yêu cầu chất lượng thả lỏng của cơ tốt. Có được như vậy cần
phải phát triển khả năng mềm dẻo cho mổi người tập hợp lý, thường vận dụng
vào thời kỳ đầu của giai đoạn tập luyện cho người tập còn trẻ. Khi vận dụng
các bài tập chủ yếu là các bài tập mềm dẻo trong Thể dục dụng cụ, sau đó
chúng ta sử dụng các bài tập mềm dẻo với các tư thể như: các bải tập ngồi tư
thế vuông đùi, các tư thế động tác xoạc dọc và ngang…. Tất cả các bài tập
phát triển mềm dẻo phải có khả năng phối hợp vận động cao, có chất lượng
thả lỏng cơ tốt và có tư thế gập sâu tối đa. Những bài tập sử dụng đó không
17


gây ức chế thần kinh và gây được hưng phấn cho người tập và thực hiện thời
gian không kéo dài quá, quãng nghỉ bằng các động tác thực hiện luân phiên
hoặc ngắn.
1.4.5. Tố chất linh hoạt khéo léo
Khái niệm: Sự khéo léo là khả năng thực hiện những động tác phối
hợp phức tạp, và khả năng hình thành những động tác mới phù hợp với yêu
cầu của vận động.
Về bản chất, sự khéo léo là khả năng hình thành những đường liên hệ
tạm thời đảm bảo cho việc thực hiện những động tác vận động phức tạp, vì
vậy nó có liên quan đến việc hình thành kỹ năng vận động.
Sự khéo léo được biểu hiện dưới 3 hình thức chính:
- Trong sự chính xác của động tác về không gian.
- Trong sự chính xác của động tác khi thời gian thực hiện động tác bị

hạn chế.
- Khả năng giải quyết nhanh và đúng những tình huống xuất hiện bất
ngờ trong hoạt động các yếu tố ảnh hưởng, khéo léo được coi là tố chất vận
động loại 2. Phụ thuộc vào sự phát triển các tố chất khác như sức mạnh, sức
nhanh, sức bền, mức độ phát triển khéo léo liên quan chặt chẽ với trạng thái
chức năng của hệ thần kinh trung ương.
Phát triển tố chất linh hoạt khéo léo: Khi vận dụng các bài tập phát
triển năng lực linh hoạt khéo léo cần sử dụng các bài tập sau:
- Các bài tập với tư thế kéo giản trong thời gian dài khoảng 10 –
20’’ và lặp lại 3 – 4 tổ.
- Các bài tập với động tác đá lăng nhằm tăng sức kéo giãn đến mức
tối đa của cơ với biên độ lớn và thực hiện 3 – 4 tổ, mổi tổ 5 – 15 lần.
- Các bài tập với tư thế động tác nhằm tăng khả năng phối hợp vận
động.
Khi sử dụng các bài tập nhằm tăng khả năng linh hoạt khéo léo cần
vận dụng những biện pháp:
18


- Đa dạng hóa việc thực hiện động tác.
- Thay đổi điều kiện bên ngoài.
- Thực hiện động tác yêu cầu về thời gian.
- Thay đổi việc thu nhận thông tin.
Tóm lại: qua thực tiển nghiên cứu, các nhà khoa học chứng minh rằng
các tố chất thể lực có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng hổ trợ nhau phát
triển, nếu tách rời một trong những tố chất thể lực đều không có ý nghĩa phát
triển. Thật vậy, tố chất thể lực chung bao gồm 5 tố chất cơ bản: sức nhanh, sức
mạnh, sức bền, mềm dẻo và linh hoạt khéo léo. Trong 5 tố chất có tác dung và
ý nghĩa phát triển thể chất và thể trạng khác nhau, như:
- Tố chất sức nhanh: có tác dụng giúp cho người tập hoạt động

dưới các trạng thái nhanh, phát triển tốt khả năng linh hoạt của hệ thống thần
kinh – cơ bắp.
- Tố chất sức mạnh: giúp cho các hoạt động của người tập với sự
nổ lực ý chí cao để khác phục lực cản bên ngoài lớn.
- Tố chất mềm dẻo và linh hoạt khéo léo: làm cho các cơ quan tổ
chức làm việc có hiệu quả lớn hơn nhở thả lỏng và dùng sức đúng thời điểm,
thực hiện các hoạt động với biên độ của khớp lớn.
Để phát triển tốt mổi tố chất thể lực trên thì việc sử dụng hệ thống
các bài tập cho mổi tố chất cần phù hợp với đối tượng tập luyện. Tố chất sức
bền có tác dụng hỗ trợ cho tố chất sức nhanh và sức mạnh tốt hơn, mềm dẻo
và linh hoạt khéo léo có tác dụng nâng cao hiệu quả việc phát triển sức bền,
sức nhanh, sức mạnh.
1.5.

Vị trí và đặc điểm của môn cầu lông

Trên thế giới cầu lông xuất hiện từ rất sớm, và trải qua nhiều giai đoạn
lịch sử, cầu lông thế giới đã có nhiều thay đổi trong lối đánh, kỹ thuật, chiến
thuật và luật thi đấu. Trong những năm gần đây cầu lông thế giới phát triển rất
nhanh, cách đánh, kỹ thuật mới không ngừng ra đời.

19


Đặc điểm nổi bật của cầu lông là lối đánh sôi động và tốc độ, kết hợp
với điểm rơi biến hóa, sự điêu luyện kỹ thuật phối hợp ở mọi vị trí. Cơ sở của
một trận đấu là nhịp độ nhanh, năng lực tốc độ, phản ứng kịp thời. Khả năng
phối hợp vận động với ý chí tập trung cao và sự ổn định tâm lí. Thành tích thi
đấu gắn liền với quá trình diễn biến tâm lí của vận động viên. Quyết đoán,
dũng cảm, mưu trí, vững vàng là những phẩm chất tâm lý chủ yếu của vận

động viên cầu lông.
Đối với thể thao Việt Nam cầu lông cũng có những bước phát triển và
tiến bộ rõ rệt, thu hút được một số lượng lớn người tham gia tập luyện ở mọi
lứa tuổi, và thành phần xã hội.
1.6. Cơ sở lý luận kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu
Đặc điểm nổi bậc của kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu là: một kỹ
thuật tấn công quan trọng được sử dụng khi cầu đối phương đánh sang ở trên
cao bên phải, mang tính chất ổn định và tấn công lớn. Đặc điểm đó được biểu
hiện như sau:
Đánh cầu là một động tác được thực hiện với tộc độ nhanh và có lực,
cùng với ảnh hưởng trọng lực của bản thân cầu nên sau khi cầu lên đến điểm
cao nhất thì là lúc cơ thể vươn cao hết mức, điểm tiếp xúc giữa cầu và vợt
chếch trên cao sang phía bên phải, cách xa đầu khoảng 1m, thực hiện kỹ thuật
đánh cầu.
Kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu:
- Giai đoạn chuẩn bị: Trước hết phải phán đoán chuẩn xác phương
hướng và điểm rơi của cầu đối phương đánh sang, nghiêng người lùi sau, làm
sao cho cầu ở vị trí phía trên lệch ra trước vai phải cơ thể mình. Vai trái đối
diện với lưới chân trái ở trước, chân phải ở sau, trọng tâm rơi vào chân phải.
Tay trái co khuỷu giơ lên tự nhiên, tay phải cầm vợt, cánh tay co khuỷu tự
nhiên, đưa vợt lên phía trên vai phải, hai mắt chú ý nhìn cầu đến.

20


- Giai đoạn đánh cầu: Khi đánh cầu, bắt đầu từ động tác chuẩn bị,
cánh tay phải đưa ra sau, theo đó khuỷu tay nâng lên cao hơn hẳn so với vai
để đưa vợt ra sau đầu, cổ tay duỗi tự nhiên (lòng bàn tay hướng lên trên). Sau
đó, với sự phối hợp dùng sức nhịp nhàng của động tác chân sau đạp đất, quay
người hóp bụng, lấy vai làm trục, cánh tay kéo theo cẳng tay nhanh chóng vẩy

cổ tay ra trước đánh cầu ở điểm cao nhất khi tay đã vươn thẳng.
- Giai đoạn kết thúc: Sau khi đánh cầu tay cầm vợt có thể theo đà
quán tính vung ra trước và xuống dưới phía bên trái rồi thu vợt về trước thân
người. Cùng lúc đó chân phải ở phía sau bước ra trước, trọng tâm cơ thể từ từ
rơi vào chân sau chuyển dịch sang chân trước.
Đánh cầu thuận tay cao sâu cũng có thể thực hiện với bật nhảy để
đánh cầu. Khi thực hiện động tác chuẩn bị đúng theo yêu cầu trên, sau đó
chân phải bật nhảy lên cao nhanh chóng quay người trên không, đồng thời
hoàn thành động tác vung vợt đánh cầu. Động tác đánh cầu được hoàn thành
đúng lúc cầu đang ở độ cao nhất trên không chuẩn bị rơi xuống thấp.
Người đánh cầu nếu chưa nắm được thời cơ để đánh cầu , góc độ mặt
vợt phát lực đúng mức, phương pháp dùng lực sai thì dể đánh cầu lên cao
hoặc ra ngoài sân.
Khi học tập và vận dụng kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu cần phải
chú ý những điểm sau:
+ Lúc đánh cầu cần chú ý đến hiệu quả tốc độ, tốc độ đánh cầu càng
hợp lý thì hiệu quả công kích càng mạnh. Sự phối hợp đánh cầu nhanh, mạnh
và có biến hóa điểm rơi phải điều khiển động tác đánh cầu thành thạo với
cách đánh biến hóa khác nhau.
+ Đánh cầu vừa phải vững chắc, vừa kết hợp với lực phù hợp biến đổi
góc độ, nhịp độ và điển rơi có lợi cho việc chủ động.

21


+ Di chuyển bước chân kịp thời và đúng vị trí đem lại hiệu quả cao
hơn trong đánh cầu.
Thực hiện kỹ thuật đánh cầu đòi hỏi động tác biên độ phải lớn, phối
hợp nhịp nhàng giữa chân, lưng và tay nhất là quỹ đạo và phương hướng vận
động của tay phải tương đối ổn định không giống như tấn công nhanh, xử lý

những tình huống khó khăn bằng sự điều chỉnh của tay.
Phát triển trình độ cầu lông phải đề cập đến sự phát triển theo con
đương phức tạp hóa kỹ thuật. Chính vì vậy, trong quá trình tập luyện thi đấu
mỗi người phải sử dụng tốt các kỹ thuật đơn lẽ và vận dụng nhiều các miếng
chiến thuật khác nhau, phù hợp với đối tượng và tình huống thi đấu.
Nhưng trong thực tế không có một vận động viên nào lại hoàn thiện
tất cả các kỹ thuật thi đấu ở mức độ như nhau, mỗi vận động viên điều phải sử
dụng được một kỹ thuật tấn công sắc bén để dành được điểm tuyệt đối.
Trong cầu lông có nhiều kỹ thuật đơn lẽ như kỹ thuật phát cầu, kỹ
thuật đánh cầu, kỹ thuật đập cầu. Việc rèn luyện các kỹ thuật đều phải rèn
luyện các kỹ năng, kỹ xảo, từ đó mà có các miếng chiến thuật được hình
thành nhờ sự kết hợp nhuần nhuyễn các kỹ thuật riêng lẽ nhằm giải quyết
những nhiệm vụ đề ra phù hợp với tình huống đánh cầu.
Lịch sử phát triển cầu lông đã cho thấy, có rất nhiều xu hướng đánh
cầu khác nhau trong từng thời kỳ nhất định song với xu hướng cầu lông hiện
đại là: Tích cực tấn công, sử dụng các cú đánh thuận tay để dứt điểm nhanh
chóng và đã chứng tỏ được tính ưu việt của chúng.
Thực tiển trong thi đấu các vận động viên có đẳng cấp cao ở Việt
Nam thường sử dụng lối đánh tấn công là chính và rất có hiệu quả đã đưa lại
cho họ những thứ hạng cao ở các giải thi đấu lớn. Như vậy, đã chứng tỏ được
uy lực và tầm quan trọng của lối đánh tích cực tấn công toàn diện. Muốn

22


thắng thì vận động viên chỉ có một con đường duy nhất là phải tích cực tấn
công và nhanh chóng dứt điểm.
Kỹ thuật tấn công là một phần rất quan trọng trong hệ thống kỹ thuật
cầu lông, trong thi đấu nếu vận động viên vận dụng tốt kỹ thuật tấn công có
thể làm đối phương bị động hoặc mắc sai lầm tạo điều kiện dành thắng lợi.

Do đó, tấn công là phương thức chủ yếu để vận động viên giành được
thế chủ động và dứt điểm. Bất cứ một vận động viên nào cũng phải có kỹ
thuật tấn công toàn diện.
Kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu được sử dụng rất nhiều và đóng
vai trò quan trọng trong thi đấu cầu lông. Song cầu lông hiện đại đã phát triễn
rộng với xu hướng đánh cầu đa phương hóa, đa dạng. Vì vậy, đòi hỏi ở mổi
vận động viên, người tập phải vận dụng được các kỹ thuật, chiến thuật một
cách nhuần nhuyễn. Trong mọi tình huống thi đấu kỹ thuật đánh cầu thuận tay
cao sâu là một kỹ thuật đơn lẽ và có tính ổn định cao. Mặt khác, việc lặp lại
một kỹ thuật, một phong cách chỉ mang lại cho người tập những thành tích
tạm thời. Thực tế cho thấy vận động viên khi tấn công thực hiện kỹ thuật đánh
cầu thuận tay cao sâu 3 đến 4 lần chỉ mang tính ổn định cao, hiệu quả dứt
điểm chưa tuyệt đối. Tình trạng này dẩn đến hiện tương mệt mỏi và xử lý tình
huống kém linh hoạt trong thi đấu. Vấn đề đặt ra là làm sao tăng cường được
khả năng dứt điểm và tiết kiệm thể lực cho vận động viên trong thi đấu.
Qua nghiên cứu tham khảo các tài liệu chuyên môn chúng tôi thấy
việc vận dụng hợp lý kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu kết hợp với kỹ thuật
đập cầu tạo thành một miếng chiến thuật cơ bản và tối ưu. Bước đầu vận động
viên sử dụng kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu cơ bản với các điểm rơi
khác nhau, đưa đối phương vào lối bị động và kết hợp với đập cầu dứt điểm.
Như vậy, việc vận dụng kỹ thuật đánh cầu thuận tay cao sâu vào thi
đấu là hợp lý để tạo thời cơ dứt điểm đạt hiệu quả cao. Sự phối hợp và sử
dụng nhịp nhàng, lôgic giữa chiến thuật đánh cầu thuận tay cao sâu – kỹ thuật
23


×