Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.68 KB, 19 trang )

NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
- Nguyễn Tuân I, Tác giả, tác phẩm:
1, Tác giả:
- Nguyễn Tuân (1910 - 1987) là một trí thức giàu lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng, gắn liền với những giá trị
văn hoá cổ truyền của dân tộc: yêu tiếng mẹ đẻ, trân trọng những kiệt tác
văn chương, những giá trị văn hoá vật chất tinh thần truyền thống của cha
ông, tha thiết gắn bó với những cảnh đẹp của quê hương đất nước...
- Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết
để khẳng định cá tính độ đáo của mình. Nguyễn Tuân ham du lịch, tự gán
cho mình một chứng bệnh gọi là “chủ nghĩa xê dịch” , hai lần bị tù vì có lối
sống tự do phóng túng, không phù hợp với chế độ thuộc địa.
- Sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn, bản thân lại
theo nền Tây học, Nguyễn Tuân tiếp thu được cả truyền thống Nho học lẫn
văn minh phương Tây. Văn Nguyễn Tuân vừa cổ điển, vừa hiện đại, nhưng
nghiêng về cổ điển và truyền thống.
- Là con người rất mực tài hoa, am hiểu nhiều môn nghệ thuật (hội hoạ, điêu
khắc, sân khấu, điện ảnh...), Nguyễn Tuân thường vận dụng con mắt của
nhiều nghành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả
của nghệ thuật văn chương.
- Cách mạng tháng Tám và đời sống kháng chiến đã đổi thay cho cuộc đời
và con người Nguyễn Tuân, giúp ông gắn bó hơn với quần chúng nhân dân
lao động, với đất nước, dân tộc và thời đại của mình, càng hiểu và trân trọng
hơn vẻ đạo tài hoa nghệ sĩ của con người Việt nam, truyền thống văn hoá lâu
đời của dân tộc.
- Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình.
Ngay từ trước Cách mạng tháng Tám , ông đã quan niệm nghề văn đối lập
với tính vụ lợi kiểu con buôn, và ở đâu có đồng tiền phàm tục thì ở đó không
thể có cái đẹp. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc,
thậm chí “khổ hạnh”, và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỉ
của mình để chứng minh cho quan điểm ấy.


2. Những nét chính trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân.
Là một định nghĩa độc đáo về người nghệ sĩ, đồng thời là một nhà văn, một
nhà văn hóa lớn, sau hơn nửa thế kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã để lại một sự
nghiệp văn học lớn lao, với nhiều tác phẩm có phong cách độc đáo và giá trị
lâu dài.
a. Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm
đầu tay. Ông bắt đầu cầm bút từ khoảng 1930, từng thử bút qua nhiều thể


loại như thơ, bút kí, truyện ngắn hiện thực trào phúng nhưng mãi đến đầu
1938, ông mới thực sự nổi tiếng với những tác phẩm xuất sắc, có phong cách
độc đáo: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1939), Thiếu quê
hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941)...
b. Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay
quanh 3 đề tài chính: Đề tài “vang bóng một thời”, đề tài về đời sống trụy
lạc, đề tài về“chủ nghĩa xê dịch”.
c. Lòng yêu nước, thái độ bất mãn với xã hội thực dân đã đưa Nguyễn Tuân
đến với Cách mạng và kháng chiến, chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc
chiến đấu của dân tộc, theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước. Ông
luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, luôn muốn phát huy
cá tính và phong cách độc đáo của mình. Nguyễn Tuân chuyên viết bút kí,
tuỳ bút, trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Với các tuỳ bút
Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Sông Đà (1960), một số tập kí
chống Mĩ (1965-1975) như Hà nội ta đánh Mĩ giỏi (1972) và nhiều bài tuỳ
bút viết về cảnh sắc và hương vị đất nước, Nguyễn Tuân đã đóng góp cho
nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo, đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương
đất nước, ca ngợi nhân dân trong chiến đấu và sản xuất. Hình tượng chính
trong tác phẩm của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám là nhân dân lao
động và người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, nhưng họ không chỉ là những
công dân dũng cảm mà còn là những con người tài hoa nghệ sĩ, được mô tả

trong những khung cảnh cũng phù hợp với tính cách tài hoa nghệ sĩ ấy. Tác
phẩm của Nguyễn Tuân mang đến cho người đọc niềm tự hào của một dân
tộc không chỉ có chính nghĩa và khí phách anh hùng mà còn có tư thế sang
trọng, cao đẹp của những con người sinh ra trên một đất nước có hàng nghìn
năm văn hiến.
Nguyễn Tuân để lại một sự nghiệp văn học phong phú với những trang viết
độc đáo, tài hoa, xứng đáng được coi là một nghệ sĩ lớn. Ông được Nhà
nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996 - đợt 1).
Những nét chính trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
3. Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
a. Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có thể thâu tóm
trong một chữ “Ngông”. “Ngông” là thái độ khinh đời, ngạo đời, dựa trên tài
hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình. Nét phong cách này của
nhà văn thể hiện qua nhiều đặc điểm:
- Mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa và uyên bác,
mỗi nhân vật dù thuộc loại người nào cũng đều phải là những nghệ sĩ trong
nghề nghiệp của mình. Mọi sự vật được miêu tả, dù chỉ là cái ăn cái uống,
cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.


- Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân quan niệm đời sống cơ khí
hiện đại giết chết cái đẹp. Ông đi tìm cái đẹp của “một thời” đã qua, nay chỉ
còn “vang bóng”. Thế giới nhân vật mà ông ưa thích, hầu hết đều là những
con người thuộc về cái thời ấy, nếu họ còn sống trong hiện tại thì cũng bơ
vơ, lạc lõng như những kẻ “sinh lầm thế kỉ”.
- Nguyễn Tuân học theo “chủ nghĩa xê dịch” chẳng qua là luôn thèm khát
những cảm giác mới lạ. Đấy là “một nguồn sống bồng bột tắc lối thoát” (Tóc
chị Hoài). Vì thế, Nguyễn Tuân không thích những gì bằng phẳng, nhợt
nhạt, yên ổn. Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những
tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão,

núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội.
- Nguyễn Tuân là một con người yêu thiên nhiên tha thiết, có nhiều phát
hiện tinh tế, độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình.
- Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái “tôi” cá nhân, đã
khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể loại tuỳ bút như một điều tất yếu. Không
phải ai cũng có thể trở thành nhà tuỳ bút xuất sắc như Nguyễn Tuân, bởi tất
cả sự hấp dẫn của thể loại tuỳ bút , xét đến cùng, phụ thuộc ở chỗ cái “tôi”
cá nhân của người cầm bút có thực sự độc đáo, phong phú và tài hoa hay
không. Đây là một đóng góp của ông về mặt thể loại văn học.
- Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ
văn học. Ông có một kho từ vựng phong phú, khả năng tổ chức câu văn xuôi
đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, nhịp nhàng...Tuy vậy, văn
Nguyễn Tuân vẫn có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng, tuỳ hứng, khó
theo dõi, nhiều đoạn nặng nề do tham phô bày kiến thức, tư liệu...
b. Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có
những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới thiên về phương diện
văn hoá nghệ thuật, tiếp cận con người thiên về phương diện tài hoa nghệ sĩ,
nhưng không đối lập xưa với nay, và tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ không chỉ
ở những con người đặc tuyển, những tính cách phi thường, mà ở cả nhân dân
đại chúng như anh bộ đội, chị dân quân, ông lái đò...Giọng văn khinh bạc
nếu như còn tồn tại thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc, hay
những mặt tiêu cực của xã hội.
Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ. Với ông văn chương nghệ
thuật trước hết phải là văn chương, và nghệ thuật phải có phong cách độc
đáo. Nhưng ông không phải là người theo chủ nghĩa hình thức, mà luôn gắn
Tài với Tâm, có thiên lương trong sạch, lòng yêu nước thiết tha, nhân cách
cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
4. Tập tuỳ bút Sông Đà:



- Gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ phác thảo, xuất bản năm 1960 phản ánh
thiên nhiên và thực tế cuộc sống sinh hoạt, lao động của con người Tây bắc
trên bước đường tiến lên xây dựng CNXH:
+ Phong cảnh Tây Bắc vừa uy nghiêm hùng vĩ, vừa thơ mộng trữ tình.
+ Con người Tây Bắc dũng cảm, lao động cần cù.
- Thể hiện tâm hồn, tài năng độc đáo của Nguyễn Tuân, cho thấy sự thay đổi
trong phong cách nghệ thuật của nhà văn:
+ Trước Cách mạng: Tìm đến những miền đất lạ cho thỏa niềm khát khao
“xê dịch”, cho khuây cảm giác “thiếu quê hương”
+ Sau Cách mạng: Ông không quản khó khăn cực nhọc, lặn lội dọc ngang
khắp miền Tây Bắc heo hút xa xôi với mục đích “Đi tìm cái thứ vàng của
màu sắc sông núi Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm
trí tất cả những con người ngày nay...” (Nguyễn Tuân)
II. KIẾN THỨC CƠ BẢN:
A. HÌNH TƯỢNG SÔNG ĐÀ:
1. Sông Đà có một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường:
“Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”.
Khi tất cả dòng sông đều chảy về hướng đông, riêng con sông Đà lại chảy về
hướng Bắc. 1 con sông đầy cá tính gặp 1 nhà văn phong cách cũng rất lạ.
Chính sự đặc sắc của Đà giang đã hấp dẫn ngòi bút của Ng Tuân, trởthành
nguồn cảm hứng bất tận để ông thăng hoa những sở trường, phong cách rất
ngông của mình.
2. Sông Đà “hung bạo và trữ tình”
a. Sông Đà hung bạo:
- Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và những bức thành vách đá cao
chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả tả theo đủ cách:
+ “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”
+ Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và chỉ can nhẹ tay thôi cũng có thể
ném hòn đá từ bờ bên này qua bên kia vách...
+ “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm

thấy mình như đứngở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một cái khung cửa
sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”
-> So sánh vừa chính xác, tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như N.T
luôn lục lọi đến tận kiệtcùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được
một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.
- Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió,
cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm ...” -> bằng lối viết tài hoa, những
câu văn diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh
con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt con người.


- Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát: “nước ở đây thở và kêu như cửa
cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên ...” những cái hút nước lôi
tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi đánh chúng tan
xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì loài thủy quái
với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và uy hiếp con
người.
- Âm thanh thác nước sông Đà:
+ Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng
chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác xô sóng đá.
+ Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”,
“khiêu khích”, “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được
phóng to hết cỡ, các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên
nhiên đang ở đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó
rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu
rừng tre nứa nổ lửa... rừng lửa cùng gầm thét với Đàn trâu da cháy bùng
bùng...” -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông
Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một trận động
rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để
tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm trong nghệ thuật.

- Bằng thủ pháp nhân hóa, người đọc nhận ra từng sắc diện người trong
những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân đã dùng sức mạnh điêu khắc của
ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá ... mặt hòn nào
trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá vô tri
vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của
thiên nhiên hoang dại và hung dữ với ba trùng vi thạch trận.
+ Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”,
“mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào
bụng vào hông thuyền”...
+ Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng
nhiều cửa tử, cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn...
+ Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng
chết, luồng sống ở ngay giữa.
-> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con
người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài
năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số
một về thể loại tùy bút VN.
b. Sông Đà – trữ tình:
- Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
manh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc vương vấn lòngngười.
Từ trên tàu bay nhìn xuống “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình,


đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa
gạo ...”
- Màu sắc dòng sông thay đổi theo mùa:
+ “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, sông Lô “màu xanh
canh hến”.
+ Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu
bữa ...” -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

- Đến với sông Đà, hăm hở, say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang
“sắp đổ ra sông Đà”.Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những
cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô,
những con hươu“ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” ...
- Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt:
“Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi
niềm cổ tích tuổi xưa... lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.
-> Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc,
và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân
trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã
tạo nên những trang văn đẹp hiếm có – Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây
bút tài hoa bậc nhất của nền văn học Việt Nam.
* TÀI LIỆU THAM KHẢO 1: NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ CỦA
NGUYỄN TUÂN
Cái nhan đề Người lái đò sông Đà ùa vào ta một liên tưởng kép: Nguyễn
Tuân xưng tụng ông lái đò tài hoa trí dũng trên dòng sông thiên nhiên bạo
liệt, còn ngôn ngữ Nguyễn Tuân lại hùa nhau xưng tụng tác giả của nó như
một ông lái bậc thầy con thuyền chữ trên một dải sông văn không kém thác
ghềnh. Bài ca lao động và bài ca ngôn từ song hành trong một áng kí lạ. Thì
chính Nguyễn Tuân đã hạ bút ngay từ khúc dạo đầu: “Chúng thuỷ giai đông
tẩu, Đà giang độc bắc lưu”(Mọi con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà
ngược bắc). Câu đề từ của Nguyễn Tuân vừa thâu tóm lấy cái thần sông Đà,
vừa tóm luôn cái thần chữ của mình. Một mặt bắc lưu là sự cưỡng lại đông
tẩu, cái riêng độc đáo là sự cưỡng lại sức xói mòn của cái chung nhàm cũ.
Mặt khác, bắc lưu chỉ tồn tại trước đông tẩu, cái riêng độc đáo chỉ tồn tại
trước cái chung khi nó đồng nghĩa với cái cao hơn sự khác lạ là cái sáng tạo
(tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị). Phi giá trị, cái riêng
hóa trò chơi duy mĩ. Đó là nguyên tắc của phép lạ hóa văn chương, để vừa
chối bỏ sự nhàm lặp của cái chung, vừa hội nhập với cái chung mang giá trị
văn chương bền vững. Còn nguyên tắc riêng của phép lạ hóa ngôn ngữ

Nguyễn Tuân? Trong kho từ vị Việt, ngôn ngữ mang bản tính nguyên thủy
của một vật liệu tĩnh, lạnh, khá ổn định. Tài năng nghệ sĩ là biết vung cây


gậy thần biến nó thành chất liệu động và nóng, phập phồng sự sống. Nổi trội
trong các tài năng, văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng giẫy sự sống. Có
thể coi bài kí sông Đà này là cuộc thí nghiệm tâm đắc của ngôn ngữ nóng
Nguyễn Tuân.
Đầu tiên, sức nóng ngôn ngữ Nguyễn Tuân cũng tìm được một đối tượng
“nóng”: sông Đà. Con sông độc lạ ấy thật thích hợp với một ngòi bút độc lạ.
Ngôn ngữ Nguyễn Tuân đã lay con sông vô tri thức dậy, tưới linh hồn vào
nó, và ông khai sinh dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên đủ in
luôn tính nết vào đó: “hung bạo và trữ tình”. Nếu chỉ có một vế, con sông sẽ
lười nhác trong đơn giản. Tính cách sông Đà phải là một hệ thống những
phẩm chất đối chọi nhau như nước với lửa, và phải từ những nghịch lí
nghịch âm ấy, con sông mới có điều kiện phô bày hết vẻ phức tạp phong
phú, đầy hấp dẫn của mình.
Đầu tiên là con thác – tâm điểm dữ dội của sông Đà. Nước dữ, đã Đành. Đá
cũng dữ. Đúng ra là do đá dữ mà nước dữ. Vậy thì cần phải dựng đá dậy cho
lộ bản chất của nó ra. Và Nguyễn Tuân hạ một so sánh đắc địa: “Một hòn
(đá) ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên
tuổi trước khi giao chiến”. Trong công thức A = B của so sánh, cái độc lạ
của Nguyễn Tuân chủ yếu tỏa sắc ở vế B. Trong câu văn trên, ông chêm
động từ hất hàm vào B để mang đến cho nó một năng lượng sống, đủ khả
năng truyền hồn vào đá vô tri, rọi một cái nhìn đậm tính điêu khắc vào thói
du côn của thiên nhiên man dại. Nhưng gây cảm giác “chết người” nhất là
cái hút nước. Nguyễn Tuân tả hình ảnh những cái thuyền bị dòng sông nuốt
vào bụng, gợi cảm giác lạnh người: “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút
xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm
dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.

Người ta nói văn Nguyễn Tuân là thứ văn ham cảm giác mạnh, có lẽ vì thế
mà cái hút nước hiểm nguy kia trở thành một đam mê dưới ngòi bút của ông.
Ông tiếp tục gây áp lực lên hệ thần kinh người đọc bằng cách bắt họ phải tự
“chiêm nghiệm” cái cảm giác lạ lùng này: “Tôi sợ hãi mà nghĩ đến một anh
bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả, đã dũng
cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả
máy quay xuống đáy cái hút Sông Đà, – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách
thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu
ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia
ngược contre-plongée lên một cái mặt giếng mà thành giếng xây toàn bằng
nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp
vỡ tan ụp vào cả máy cả người quay phim cả người đang xem. Cái phim ảnh
thu được trong lòng giếng xoáy tít đáy, truyền cảm lại cho người xem phim
kí sự thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá


rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy Đành
phèn”. Hình ảnh những cái thuyền bị cái hút nước nuốt chửng, hình ảnh cái
hút nước như một cái giếng xây bằng nước sông đang xoay tít... tạo nên ở
người đọc một cảm giác hình hết sức mạnh mẽ. Họ bị đặt vào trong cuộc, và
cảm thấy bối rối vì khó bứt thoát khỏi những ám ảnh đầy ma lực mà ngôn từ
Nguyễn Tuân truyền tới họ. Và đọng lại cuối cùng trong lòng người đọc là
một sông Đà được nhìn như một hung thần, gây cảm giác hãi hùng về cuộc
quyết đấu dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra nơi đây hàng bao
thế kỉ.
Cảm giác hình gắn với cảm giác âm nên ám ảnh của văn Nguyễn Tuân càng
mạnh. Ở đây, người đọc lại hứng khởi nhận ra một đặc điểm khác của văn
Nguyễn Tuân: những câu văn của ông thường liên kết trong một tính liên
hoàn giàu giá trị thẩm mĩ, có khả năng thôi miên người đọc trong một chuỗi
dây chuyền liên tưởng ngỡ như vô tận. Tả cái thác nước, Nguyễn Tuân viết:

“Thế rồi nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa
rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm
thét với Đàn trâu da cháy bùng bùng”. Đúng là một cảnh tượng man rợ như
thời tiền sử. Để dò hết năng lượng thẩm mĩ của câu văn, liên tưởng của
người đọc phải nối nhau trong cơ chế ba chặng: tiếng thác (rống) – tiếng trâu
mộng (lồng lộn) – tiếng rừng lửa (gầm thét). Liên tưởng của Nguyễn Tuân
rất lạ: âm thanh thác được động vật hóa thành tiếng gầm “trâu mộng”, nhưng
cao tay nhất là lấy thác (thủy) so sánh với lửa (hỏa) gây một bất ngờ thẩm
mĩ. Sức mạnh hoang dã của thiên nhiên qua miêu tả của Nguyễn Tuân, cứ
như một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Nguyễn Tuân
còn chạm bút tới cái hút nước một lần nữa: “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu
sôi vào”. Hai chữ “ặc ặc” mô phỏng rất tài thứ âm thanh quái vật, khiến sông
Đà như loài thủy quái bị bóp cổ đang quằn quại.
Mặt thứ hai của sông Đà là trữ tình. Để lột tả đặc tính này của sông Đà,
Nguyễn Tuân rất tâm đắc với những so sánh. Mỗi so sánh chứa đựng một
góc nhìn độc đáo, đầy tính phát hiện của nhà văn trước đối tượng thẩm mĩ
của mình. Sông Đà như loài thủy quái với những nanh vuốt nơi mặt ghềnh,
hút nước và thạch trận dữ hiểm, được nhà văn ví như “kẻ thù số một” của
con người. Song những so sánh đam mê nhất của Nguyễn Tuân là dành cho
một Đà giang trữ tình: “Cái dây thừng ngoằn ngoèo” dưới chân người ngồi
trên tàu bay nhìn xuống, cái “áng tóc trữ tình (...) ẩn hiện trong mây trời Tây
Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt
nương xuân”; rồi lại “như một cố nhân” trong nỗi niềm du khách, như “cái
miếng sáng lóe lên” trong trò chiếu gương con trẻ, như “một bờ tiền sử”,
như “một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”... Những so sánh biến hóa không trùng
lặp, luôn gây men bằng những đột ngột, người đọc sửng sốt vì những so


sánh lạ lẫm, gây đứt quãng liên tưởng, để rồi thán phục nhận ra không thể so
sánh hay hơn, đúng hơn, và cứ thế bị thôi miên vào mê hồn trận của những

so sánh ăm ắp tràn bờ...
Vẻ đẹp ngôn ngữ Nguyễn Tuân không đơn thuần là thứ trời cho. Nhà văn
phải lao động cật lực, trong đó có khổ công quan sát. Liệu đã mấy ai đủ công
phu quan sát những biến đổi tinh vi đến thế của sông Đà, với mùa xuân thì
“dòng xanh ngọc bích” mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ”, giữa hai mùa ấy là cái
“màu nắng tháng ba Đường thi”... Sông Đà giàu ám ảnh trở thành nỗi nhớ
thật da diết của con người.
Một sông Đà góc cạnh như thế ắt cần một đối tượng giao tiếp tương xứng cỡ
ông lái đò. Hình như Nguyễn Tuân tô đậm sức hấp dẫn của sông Đà là để
ngầm đề cao chính ông lái đó tài ba, nghệ sĩ này chăng. Để tiếp ông khách
không vừa này, sông Đà “bày thạch trận trên sông” với một thế trận bài bản
theo kiểu binh pháp Tôn Tử: nào là cửa tử, cửa sinh, đánh vu hồi, đánh du
kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà... Sông Đà còn lắm mưu nhiều kế bày
bao nhiêu mẹo lược và sự nham hiểm để sẵn sàng bóp chết con người. Ông
lái đò thì nhỏ bé nhưng lại sừng sững hiện lên như một viên tướng trí dũng
song toàn trước con thủy quái khổng lồ kia, với tư thế của kẻ đã nắm chắc
“binh pháp của thần sông thần đá”. Để miêu ta cuộc giao tranh giữa người
và thác dữ, Nguyễn Tuân có ngón chơi động từ độc đáo. Trong dăm trang kí,
ông tốc tới ngót 300 động từ để đủ sức ganh tài cùng con nước cuồng nộ Đà
giang và trí lực ông lái phi thường. Tần số động từ đậm đặc nhất là ở trường
đoạn hỗn chiến giữa người và sông nước, khiến người đọc nghẹt thở. Cơn
cuồng phong động từ xô lên cùng cơn thịnh nộ sông Đà: “rống lên, nhổm cả
dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp chặt... Phía
ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên thế cưỡi hổ tung hoành: nắm chặt, ghì
cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc
thủng... Hai hệ thống động từ đối chọi, tương phản gay gắt, nhưng đọc kĩ,
vẫn thấy nổi lên thế chủ động, thế lấn lướt của ông lái đò.
Hãy xem tiếp động từ phát huy sức mạnh như thế nào trong đoạn văn sau
đây của Nguyễn Tuân: “Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên
sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghi cương

lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái
miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước
bên bờ liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ
mặt bọn mày, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên
mà chặt đôi ra để mở đường tiến...”. Quả là một bức tranh chiến trận hào
hùng, ngôn ngữ Nguyễn Tuân hả hê tụng ca con người trong cuộc quyết đấu
với thiên nhiên để giành sự sống. Văn Nguyễn Tuân mang vẻ đẹp của sự
tổng hòa văn hóa. Nàng văn của ông thật quảng giao đón du khách từ bốn


phương trời kiến thức: lịch sử, địa lí, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa,
điêu khắc, âm nhạc...
Những kiến thức liên ngành đa dạng ấy tạo bề dày uyên bác trong vốn tri
thức của nhà văn, nâng cho đôi cánh tài hoa bay bổng. Có thể coi Nguyễn
Tuân là người đã nắm vững “binh pháp của ngôn ngữ”. Với một ý thức ngôn
từ mới mẻ, hiện đại, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền hồn
cho dòng sông, và dòng sông truyền xúc cảm vào người đọc.
Song luận gì về Nguyễn Tuân cũng chớ quên văn ông không chỉ là tòa lâu
Đài chữ nghĩa mà còn là bể thẳm tâm hồn. Nhiều người từng than phiền văn
Nguyễn Tuân cầu kì, rắc rối. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tự
nhận xét: “Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm
vào họng. Đọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một
cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được” (Đôi tri
kỉ gượng). Nay ngôn ngữ Nguyễn Tuân là ngôn ngữ của một công dân đầy
trách nhiệm trước một nước Việt Nam mới. Ông lái Nguyễn Tuân đã chở
con đò chữ không chỉ bằng bàn tay khéo dùng từ, đặt câu mà còn bằng tình
yêu tha thiết thiên nhiên và con người lao động xây dựng cuộc đời. Xin
chiêm ngưỡng tấm lòng thơ của nhà văn ẩn trong câu văn òa ập nỗi niễm
này: “Nói chuyện với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề
thơ vào sông nước”.

B. HÌNH TƯỢNG ÔNG LÁI ĐÒ:
1. Đặc điểm phong cách Nguyễn Tuân về sáng tạo nhân vật
Đi vào thế giới đời thường để tìm đề tài, nhưng Nguyễn Tuân thường hướng
ngòi bút của mình chạm đến những cái dị biệt độc đáo. Cái mà ông đã cảm
nhận và viết thành văn là những cái rất đỗi bình thường nhưng đồng thời lại
rực rỡ và sáng chói cực đỉnh, một sự phi thường giữa cuộc sống tưởng như
không thể có những sự kiện, những địa danh, những nhân vật... như vậy. Có
thể dễ dàng nhận thấy điều này trong thế giới nhân vật mà Nguyễn Tuân đã
sáng tạo. Đó là một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa
vườn lan "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự
hoa thơm cỏ quý" (Hương Cuội). Một cụ Ấm, triết nhân ngồi tính bước đi
của thời gian, và "nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lí" trong hương
thơm của một chén trà (Chén trà sương). Rồi khi đọc “Chữ người tử tù” với
người hùng Huấn Cao, viết thư pháp trong ánh đuốc bừng sáng trong ngục
tối, mang "những cái hoài bão tung hoành của một đời con người"...giữa
đêm giao thời của sự sống và chết. Trung thành với quan niệm sáng tạo, với
mô tip riêng của mình như vậy, Nguyễn Tuân trong một chuyến đi thực tế tại
vùng sông Đà Tây Bắc, nhãn quan ông đã bắt gặp được mẫu hình và hồn văn
ông đã tìm được tiếng rung khi diện kiến một người lái đò người Thái (Tây
Bắc) và cuộc mưu sinh của ông. Và từ đây, bút văn của Nguyễn Tuân đã xây


dựng được hình tượng người lái đò sông Đà ẩn chứa tính cách vừa dữ dội
của một chiến binh chinh phục thiên nhiên hung dữ, vừa là con người cực kì
tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
2. Hình tượng người lái đò sông Đà
2.1. Vẻ đẹp ngoại hình ẩn dấu sự phi thường
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, người lái đò hùng dũng, oai phong như
chạm khắc trên nền hình ảnh Sông Đà réo sóng hung dữ bạo liệt. Dường như
nhà văn không bỏ sót một chi tiết nào cần miêu tả về nhân vật chính của

mình. Mỗi chi tiết đều gợi được sự liên tưởng về cái phi thường hiện ra sừng
sững thuyết phục.
Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như
một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lên chất sừng chất mun.
Cánh tay rắn chắc trẻ tráng “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc
nào cũng khuỳnh khuỳnh như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng”. Cặp mắt
tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi.
Ngoại hình của người lái đò còn được miêu tả gắn với những dấu tích trên
thân thể và mỗi dấu tích là một thành tích, một sự kiện lịch sử của cuộc đời
ông lão đã thầm lặng lập lên. Trên ngực của ông nổi lên một số"củ nâu"
thương tích trên "chiến trường Sông Đà" – một "thứ Huân chương lao động
siêu hạng".
Khó có thể trộn lẫn nhân vật được miêu tả này với những người 70 tuổi
khác, làm nghề nghiệp khác. Một ngoại hình gắn với sức lực phi thường với
cuộc sống chèo đò vượt thác đã thấm vào trong máu thịt và thể hiện ra trong
từng động tác ngay khi cuộc sống đang diễn ra bình thường. Ông lái đò là
hình ảnh một người lao động mà sông nước đã in dấu vào trong từng chi tiết
ngoại hình. Điều quan trọng là thông qua cách miêu tả này nhà văn đã ngầm
gửi một thông điệp tới người đọc là nhân vật của ông mang sự khác thường
ở chỗ nó không chỉ ở ngoại hình mà còn ở ý chí, nghị lực hướng tới , mà ở
đây tuổi tác không làm mất đi sức sống mạnh mẽ và lòng yêu mến gắn bó
với công việc.
2.2. Vẻ đẹp tâm hồn tính cách của một chiến binh- nghệ sỹ chinh phục
thác ghềnh:
2.2.1. Con người giàu trải nghiệm
Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã
ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về
xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh. Chính quãng thời gian thử
thách, đối mặt với thiên nhiên và sinh tử ấy đã tạo thành tri thức và tính cách
trong Ông lão: “trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ

tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con
thác hiểm trở . Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh


hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những cái chấm than chấm câu và những
đọan xuống dòng ”. Nhờ có tri thức ấy mà ông lão đã chiến thắng sự hung
dữ của sông Đà và trong âm vang “chiến trận” ấy người lái đò lại trở thành
vị tướng đối mặt với hung dữ và chiến thắng nó bằng những mẹo mực rất
“nhà binh” : “ông lái đã nắm chắc được binh pháp của thần sông, thần đá.
Ông đã thuộc qui luật phục kích của lũ đá”. Sự rèn luyện lao khổ và vượt
gian nan đã biến người lái đò thành con người có kỹ năng kỹ xảo lao động
tuyệt hảo tới mức tác giả ngợi ca như nghệ sỹ điêu luyện với "tay lái ra hoa"
đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi
ải nước". Và những dòng văn của Nguyễn Tuân đã khắc họa thật sinh động
hình ảnh của một con người gắn bó với lao động, yêu nghề sông nước, từng
trải và giàu kinh nghiệm.
Cái hay của những tình tiết miêu tả là tái hiện được ông lão lái đò và dòng
sông dữ thô ráp thành tràn đầy chất nghệ sỹ trong trường thiên anh hùng ca
chiến trận sông nước thiên nhiên. Rõ ràng, yếu tố hiện thực đã được nghệ sỹ
hóa tràn đầy chất thơ kiêu dũng. Và chính vì vậy tạo ra sức hút cho người
đọc và sự khác biệt của Nguyễn Tuân.
2.2.2. Con người thông minh, dũng cảm và nghệ sỹ.
Cuộc sống của người lái đò sông Đà là một cuộc chiến đấu giành giật sự cái
sống từ tay tử thần rình rập nơi những con thác luôn ẩn tàng nỗi hiểm nguy.
Vẻ đẹp dữ dội này trong phẩm chất người lái đò, được nhà văn tập trung bút
lực miêu tả qua những tình tiết vượt thác. Thông qua những tình tiết này,
Nguyễn Tuân đã dựng lên hình ảnh tài hoa nghệ sỹ chan hòa xuyên thấm
vào với vẻ đẹp kiêu hùng của hình ảnh chiến sỹ. Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của
ông lái đò gắn sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn kinh
nghiệm thủy chiến. và đồng thời song hành với bản lĩnh chiến đấu , tinh thần

dũng cảm phi thường. Xuôi theo dòng văn, người đọc cảm nhận rất rõ nét
hình ảnh người lái đò lúc nào cũng ngạo nghễ vươn lên trên cái nền thiên
nhiên hung dữ ghê rợn. Thiên nhiên ác hiểm cố nhấn chìm số phận của con
người, dập vùi họ đẩy họ đến chỗ chết, nhưng con người luôn quật cường và
chiến thắng không chỉ bằng cơ bắp mà bằng cả trí tuệ bằng tình yêu công
việc, nhờ đó hình ảnh được khắc họa trở lên tỏa sáng, sừng sững. Ở trùng
vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng:
"Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt
diễn ra. Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò
làm thanh viện" chúng liều mạng xông vào mà "đá trái” mà “ thúc gối vào
bụng và hông thuyền... Có lúc chúng đội cả thuyền lên". Nguy hiểm là vậy
nhưng ông lái đò vẫn bình tĩnh “hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi
sóng”. Ngay cả lúc bị con thủy quái này đánh miếng đòn hiểm nhất “bóp
chặt lấy hạ bộ” đau điếng nhưng vị thuyền trưởng vẫn “ hai chân vẫn kẹp lấy


cuống lái” dù mặt méo bệch vì đau đớn nhưng tiếng chỉ huy của ông vẫn sắc
lạnh, tỉnh táo, đưa con thuyền thoát khỏi nguy hiểm.
Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, bố trí nhiều cửa tử hơn: "Dòng thác
hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò bắt đầu cuộc tấn
công bằng cách "nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi" ông cho con
thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh mà lái miết một đường chéo về phía cửa
đá ấy". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị
"ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Cuối cùng ông thắng còn
bọn đá tướng thất bại thảm hại đưa cái mặt "tiu nghỉu, xanh lè thất vọng".
Trùng vây thứ ba là một không gian của trận địa tiêu diệt đối phương: bên
phải bên trái đều là "luồng chết cả". Bên cạnh đó là cahs thức bố phòng tấn
công như trong chiến trận: "bọn đá hậu vệ" canh cửa hòng "bắt chết" cái
thuyền. Trên cái phông nền chiến trận cẩn mật và đầy thách thức ấy, Ông lái
đò hiện dậy như vị tướng cầm quân với chi9ến thuật tài ba. Ông mưu trí

"phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh
mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh
qua hơi nước. Chiến thắng!
Dường như tác giả tập trung cao độ bút lực vào đoạn văn này. Những ẩn dụ,
so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt
đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Nguyễn Tuân đã
tung ra một đội quân ngôn ngữ thật hùng hậu, đa dạng, biến ảo thần kì với
liên tục những phép tu từ vô cùng sinh động: so sánh ngầm , nhân hóa ,
cường điệu ... Câu chữ tuôn chảy ào ạt , điệp điệp trùng trùng tạo ra một bức
tranh chién trận hòanh tráng về không gian, ấn tượng về hình ảnh hiểm
nguy, gay cấn về tình huống... Kết hợp với phong cách sử dụng nhiều loại
hình nghệ thuật, trong đoạn viết này Nguyễn Tuân đã cho thấy cách viết của
ông như kịch bản phim và qua bàn tay đạo diễn, nó tạo ra sự sống động hồi
hộp âu lo, thán phục... với biết bao cảm xúc nở trong lòng người đọc. Cuộc
vượt thác thật ngoạn mục tưởng như không cân sức khi lâm trận, nhưng cuối
cùng phần thắng đã thuộc về con người nhờ sự thông minh và dũng cảm. Và
từ đó, một hình ảnh bừng sáng : ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị
danh tướng, trí dũng song toàn, quyết liệt và quyết đoán, uyển chuyển linh
hoạt như một nghệ sỹ xử lý tình huống với trái tim khát khao chinh phục...
đã lập thành hào quang chiến thắng.
2.3. Con người bình dị, phong thái ung dung.
Đối với người lái đò, hiểm nguy trên dòng sông cũng chính là một phần
trong cuộc sống thường nhật của ông, được ông chấp nhận như một tất yếu ;
tác giả đã làm cho hình ảnh người lái đò lấp lánh hơn, giàu chất nghệ sĩ hơn
từ công việc đối mặt với hiểm nguy đã trở thành bình thường. Khi vượt qua
gian nguy , “sóng nước lại tan xèo xèo trong trí nhớ “sông nước lại thanh


bình . Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá , nướng ống cơm lam , và tòan
bàn tán về cá anh vũ , cá dầm xanh ... Cũng chẳng thấy ai bàn thêm một lời

nào về cuộc chiến thắng vừa qua ”. Đoạn viết về đêm hang đá tràn ngập chất
trữ tình bên lửa cháy và có cả những câu chuyện đời thường ở quá khứ ở
phía trước nhưng tuyệt nhiên không có hồi ức về hiểm nguy mà tất cả đều
lãng mạn ngọt ngào. Điều ấy như một thứ khí chất, một tính cách cấu thành
con người ông lái. Nó khác biệt với người bình thường mỗi khi đối mặt nguy
hiểm vẫn phải toan tính âu lo; và khi vượt qua rồi vẫn cảm thấy bất an vẫn
hồi hộp mỗi khi nhớ về. Và tụ lại trong con người ông lái một phẩm chất kép
: phong thái nghệ sỹ và tính cách người anh hùng sông nước. Con người mà
trái tim nghệ sỹ đập thầm lặng nhưng mạnh mẽ trong cơ thể thép, ý chí thép.
3. Ý nghĩa của hình tượng
Văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Ðặc điểm cơ bản của
hình tượng văn chương là sự thống nhất giữa tính cá biệt, cụ thể và khái
quát. Và vì điển hình là khái niệm xác định chất lượng hình tượng, cho nên
một hình tượng văn chương có tính khái quát cao và tính cụ thể đến mức độc
đáo thì hình tượng trong đó trở thành điển hình. Soi chiếu vào thực tiễn
“Người lái đò sông Đà” có thể đánh giá Nguyễn Tuân đã xây dựng thành
công một hình tượng điển hình.
Người lái đò trước hết đã thể hiện cái “cá biệt” rất rõ nét, đó là một con
người cụ thể làm nghề lái đò chuyên vượt thác sông Đà ở Lai Châu. Hoạt
động của nhân vật trong không gian thời gian xác định với những hành động
suy nghĩ rất riêng không trộn lẫn.
Tuy nhiên, bối cảnh viết truyện vào năm 1958, xu thế văn học Hiện thực
XHCN giai đoạn này đang tập trung vào chủ đề xây dựng cuộc sống mới và
con người mới. Ngòi bút văn chương của Nguyễn Tuân đã rất tinh tế khi xây
dựng được một điển hình về con người mới âm thầm tồn tại lao động chống
lại thiên nhiên hung dữ mưu sinh và tô đẹp cuộc sống. Chính vậy, hình ảnh
Ông lái đã mang tính phổ quát (đặc điểm thứ 2 của hình tượng), để trở thành
hình tượng điển hình. Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là con người
vô danh, nhưng ông thực sự đáng tôn vinh, vì có những phẩm chất của con
người lao động chân chính. Và vẻ đẹp của con người lao động, con người vô

danh được coi là khám phá của Nguyễn Tuân khi viết về cuộc sống mới, con
người mới. Qua hình tượng nhân vật trong tác phẩm có thể hình dung trên
các miền đất thiên nhiên hung dữ có hàng nghìn hàng vạn những con người
quả cảm và nghệ sỹ như người lái đò dòng sông cuối trời Tây Băc họ có mặt
sống và chiến đấu trên khắp mọi vùng đất tổ quốc Việt Nam.
Đó cũng là những con người được khắc họa trong “Đất rừng phương Nam”
của Đoàn Giỏi : Dì Tư béo, Ông lão bán rắn, Phường săn cá sấu; Và cũng là
những con người như: Chín Kiên, ông Sáu già trong “Rừng U Minh” của


Nguyễn Văn Bổng... họ đã đối mặt với thiên nhiên hung dữ, tận dụng sức
mạnh thiên nhiên làm lên cuộc sống và tham gia chiến đấu chống kẻ thù ở
miền Nam giai đoạn này. Với văn học nước ngoài, Người lái đò sông Đà có
những nét tương đồng với nhân vật ông già đánh cá trong “Ông già và biển
cả” của Hêminguây và hàng loạt những nhân vật đấu tranh sinh tồn trong
các chuyện ngắn của Jăc Lơn-đơn.
Sáng tạo hình tượng người lái đò, Nguyễn Tuân đã thể hiện thái độ yêu mến,
tự hào và cảm phục trước những con người lao động bình dị nhưng tiềm ẩn
“chất vàng mười” quí giá của Tổ quốc và vùng Tây Bắc.
Cũng bằng hình tượng nhân vật người lái đò, Nguyễn Tuân đã mang đến
thông điệp: chủ nghĩa anh hùng đâu phải tìm kiếm đâu xa,nó có ngay trong
cuộc sống đời thường ở những vùng khuất lấp và những người bình dị có trí
dũng tài ba họ có thể tạo hình tạc mẫu cho nghệ thuật văn chương.
** TÀI LIỆU THAM KHẢO: VỀ HÌNH TƯỢNG ÔNG LÁI ĐÒ SÔNG
ĐÀ
Nguyễn minh châu đã coi Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ.
Ông là nhà văn tài năng và có phong cách nghệ thuật độc đáo trong nền văn
học Việt Nam hiện đại và cũng là một cây bút luôn luôn tìm kiếm khám phá
vẻ đẹp tài hoa sang trọng của cuộc sống. Nguyễn Tuân luôn “xê dịch” để đi
tìm “chất vàng mười” còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây và ông đã tìm

được “chất vàng mười” đó ở hình tượng người lái đò sông Đà trong bài kí
cùng tên của nhà văn. Bài kí có hai nhân vật : con sông Đà và người lái đò
trên dòng sông ấy thế nhưng theo cách nhìn của nhà văn bức tranh hùng vĩ
diễm lệ của sông Đà chỉ là cái nền để tác giả ca ngợi sự tài hoa khéo léo
cũng như bản lĩnh toát ra từ hình tượng ông lái đò.
1. So sánh người lái đò với thế giới nhân vật trong văn Nguyễn Tuân
trước cách mạng.
Là một nhà văn dễ có cảm hứng trước những vẻ đẹp phi thường tuyệt mĩ,
trước cốt cách thanh cao của con người cho nên thế giới nhân vật của
Nguyễn Tuân trước cách mạng thường là những con người tài hoa nhân
cách, thiên lương trong sáng. Đó là một cụ kép có dung mạo như một ông
tiên : tóc bạc, lông mày bạc, chòm râu bạc thấp thoáng ở vườn lan, nguyện
đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự cho hoa thơm, cỏ
quý “ hương cuối”, hay một Huấn Cao cổ đeo gông chân vướng xiềng ngày
mai về kinh để chịu án đại hình vậy mà trong đêm tối nơi nhà ngục vẫn
buông bút nghiêng cả cuộc đời mình đi gạn lọc lấy dòng máu tài hoa gửi lại
cho cuộc đời. Sau cách mạng Nguyễn Tuân vẫn đi tìm một vẻ đẹp tài hoa
nhưng ông không tìm trong vang bóng một thời nữa mà đã hướng ngòi bút
của mình về cuộc sống mới của đất nước nhân dân. Nguyễn Tuân không chỉ
thấy vẻ đẹp ở tầng lớp trí thức mà còn ngay ở tầng lớp lao động bình dân để


ừ đó xây dựng thành công hình tượng người lái đò nghệ sĩ trong nghề nghiệp
chèo đò vượt thác. Với Nguyễn Tuân hai chữ “nghệ sĩ” không chỉ trong lĩnh
vực nghệ thuật mà chỉ cả những người đạt đến trình độ điêu luyện tài hoa
trong nghề nghiệp, ở đây người lái đò tây bắc được nhà văn khắc họa thực
sự là một nghệ sĩ từ vóc dáng đến tính cách.
2. Tên tuổi và ngoại hình.
– Nhà văn đã xóa mờ gần hết những nét riêng biệt của chân dung ông lái đò,
ông lái đò không tên, không tiểu sử điều này không phải ngẫu nhiên.

Nguyễn Tuân muốn tạo ra một chân dung vô danh để lẫn vào đám đông
nhưng chính con người bình dị ẩn khuất giữa núi rừng ấy lại chứa đựng
“chất vàng 10” đích thực của tâm hồn và tài năng. Cảm hứng ngợi ca lao
động, ngợi ca con người của Nguyễn Tuân hướng vào những vẻ đẹp dễ
khuất lấp ấy.
– Nhà văn chỉ khắc họa đôi nét về ngoại hình, dù chỉ là mấy nét phác họa
của Nguyễn Tuân nhưng chân dung ông lái đò hiện ra vô cùng ấn tượng.
+ tay dài lêu nghêu như cái sào, chân lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh như kép
lấy cái cuống lái tưởng tượng. Ngoại hình của ông mang yếu tố đặc biệt của
con người lao động trên sông nước.
+ không dừng lại ở đây nhà văn còn so sánh liên tưởng : người cao to gọn
quánh như chất sừng, chất mun. Nếu bịt cái đầu bạc hói đi người ta cứ ngỡ
tưởng đó là một chàng trai. Nhỡn giới vời vợi, giọng ào ào như tiếng trước
mặt ghềnh. Những so sánh liên tưởng đó cho ta thấy vẻ đẹp tráng kiệt, dũng
mãnh khỏe khoắn mang bóng dáng của những con người phi thường, khác
thường, người anh hùng nơi sông Đà giang.
3. Nghề nghiệp và tài nghệ sĩ của ông lái đò.
a. Nghề nghiệp:
Ông lái đò bình dị nhỏ bé khiêm nhường nhưng hiện lên trên trang văn của
Nguyễn Tuân là một con người thạo nghề sông nước nay xuôi mai ngược,
nay đề thác lũ, mai cưỡi bờm sóng mà đi. Ông tạo nghệ tới mức nếu ví sông
Đà là một thiên anh hùng ca thì ông thuộc cả những chỗ chấm câu, chấm
than, dấu xuống dòng.
Bờ vai ông có nổi lên những “củ nâu” dấu vết, chứng tích của những ngày
chèo đò vượt thác. Những “củ nâu” ấy chính là huân chương lao động siêu
hạng mà Nguyễn Tuân ưu ái sáng tạo ra để dành tặng cho người lái đò. Dưới
ngòi bút của Nguyễn Tuân người lái đò sông Đà được mô tả như một người
lao động trí dũng song toàn, một nghệ sĩ tài hoa. Người xưa quan niệm cưỡi
cơn gió mạnh, đạp đầu sóng dữ, chém cá kình ở biển đông là những biểu
hiện của hành động phi thường của người anh hùng thì ở đây người lái đò

được nhà văn khắc họa chính là con người cưỡi cơn gió mạnh đạp đầu sóng
dữ.


b. Tài nghệ của ông lái đò qua 3 lần vượt thác giao tranh.
* Nhận xét nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Tuân :
– Người xưa quan niệm “có gió lay mới biết tùng bách cứng”, “ có lửa mới
biết là vàng thật hay thau” vì vậy để làm nổi bật tài nghệ và trí dũng của ông
lái đò. Nguyễn Tuân đã dụng công mô tả ba cuộc giao tranh giữa ông lái đò
với con sông Đà. Dòng sông hung dữ như một thứ lửa để làm ánh lên chất
vàng 10 vô cùng quý giá ở ông lái đò. Khi miêu tả cuộc giao tranh giữa ông
lái đò và dòng sông Đà. Nguyễn Tuân đã vận dụng mọi sự hiểu biết uyên
bác về lĩnh vực thể thao, võ thuật, binh pháp, quân sự, điện ảnh, ông vốc tới
ngớt 300 động từ mạnh để ganh đua với cơn cuồng nộ sông Đà, ông tạo ra
những so sánh nhân hóa, ẩn dụ liên tưởng, ông như một nhà quay phim lão
luyện cống hiến cho độc giả những cảnh quay kịch tính hồi hộp và cho
người đọc được xem những thước cảnh sát phim bằng ngôn từ đặc sắc.
* Vòng 1 :
Ở vòng giao tranh thứ nhất sông Đà hiện lên như một loài thủy quái nham
hiểm xảo quyệt, tàn ác. Nó bày ra 5 cửa trận : 4 tử 1 sinh– 1 cuộc giao tranh
không cân sức giữa thiên nhiên hoang dại với người lao động bình dị khiêm
nhường. Đá ở trên sông thì lộ vẻ oai phong, ngỗ ngược, xắc xược. Nhà văn
đã truyền hồn sống cho những thớ đá, truyền cho đá cái linh động của ma
quái, biến chúng thành một bầy thạch tinh hung hãn. Người đọc như nghẹt
thở trước cơn cuồng phong động từ lên cùng cơn thịnh nộ của sông Đà : đa
trái, thúc gối, đội cả thuyền lên, túm lấy, bóp chặt... việc miêu tả con sông
dữ tợn và hung hãn như thế thực chất
chính là một cách gián tiếp tác giả ca ngợi sự mạnh mẽ, dũng cảm cùng tài
nghệ của ông lái đò.
Quả vậy đối với con thủy quái sông Đà ông lái đò không hề nao nong :

“thạch trận dàn bầy vừa xong thì con thuyền vụt tới”. Câu văn này cho
người đọc thấy ông lái đò dũng cảm gan góc thấy sóng cả nhưng không ngã
tay chèo mà vẫn xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng. Để diễn tả
giây phút nguy hiểm: “mặt sông trong tích tắc lóa sáng lên như một cửa bể
đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng”.
Mặc dù vậy, mặc dù đau đớn méo bệch đi nhưng người ta vẫn nghe thấy
tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái đưa con thuyền vượt qua
bốn cửa tử vào với cửa sinh bình yên. Như vậy ông lái đò tựa như một vị
thuyền trưởng mưu trí dũng cảm tài ba.
* Vòng 2
Để tô đậm hình ảnh ông lái đò tài hoa bản lĩnh Nguyễn Tuân lại tiếp tục
miêu tả cuộc vượt thác lần thứ 2. Ở cuộc giao tranh này ta thấy dưới ngòi bút
độc đáo và óc tưởng tượng cực kì phong phú của Nguyễn Tuân sông Đà hiện
lên như một vị thần chiến tranh đầy tham vọng, nó tăng nhiều cửa tử lệch


cửa sinh. Không dừng lại ở đây nhà văn còn đem đến cho ta cảm giác sông
Đà như một con mãnh thú man dại: dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế
mạnh trên sông Đà lại thêm 4, 5 bọn thủy quân cửa ải nước. Có thể nói sông
Đà như kẻ thù số 1 của con người nó hiện thân cho sức mạnh của thiên nhiên
khó chế ngự.
Nhưng cũng như lần trước ông lái đò không hề nao núng. Ông không phải là
con người có phép màu nhiệm, cũng không có cánh tay của héc–quyn , cánh
tay sánh ngang với thần nước trong thần thoại hy lạp, cũng không có sức
mạnh của sơn tinh bốc những quả đồi lên để ngăn dòng nước lũ. Nhưng để
đổi lại vị thần chiến tranh sông Đà thì ông lái đò có vũ khí là mái chèo, con
thuyền và đặc biệt là trí tuệ, trí nhớ siêu việt nắm chắc binh pháp thần sông,
thần đá. Đó là cốt lõi trong nghệ thuật đánh phá trận đồ sông Đà. Mặc cho
dòng sông ác hiểm ông lái đò vẫn nắm chặt bờm sóng ghì cương lái một
hình thức ẩn dụ khiến cho con thuyền bỗng trở thành con chiến mã còn ông

lái đò vụt trở thành người kị binh anh hùng điều khiển con chiến mã tung
hoành trên chiến trận sông Đà. Nhờ có bản lĩnh thạo nghề, ông lái đò đã đưa
con thuyền vượt qua rất nhiều cửa tử đểvào với cửa sinh. Ông như một
người anh hùng đang tung hoành trên chiến trận sông Đà.
* Vòng 3:
Ở cuộc giao tranh thứ ba mà ông lái đò vượt qua thực sự là cuộc giao tranh
đầy kịch tính như gõ lên dây thần kinh độc giả. ở đây ta thấy ngòi bút
Nguyễn Tuân trở nên bay bổng linh hoạt bởi những liên tưởng tạt ngang đầy
thú vị khi miêu tả cách vượt thác của người lái đò sông đà lúc này đã bị thua
ở hai vòng trên, không còn gì để mất, nó hung dữ, nham hiểm, xảo quyệt, ít
cửa hơn bên phải bên trái đều là luồng chết, cái luồng sống lại ở ngay giữa
bọn đá hậu vệ như vây sự sống của ông lái đò trở nên rất mong manh, nguy
hiểm thần chết bủa vây ở mọi nơi. Nhưng chính trong ranh giới giữa sự
sống, cái chết ấy, người đọc càng tháy ở ông lái đò tỏa sáng tài nghệ chèo đò
vượt thác. Ông mưu trí phóng thẳng con thuyền đuôi én chọc thủng trùng
vây thuyền như một mũi tên xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự
động lái được lượm được. Nguyễn Tuân ca ngợi ông lái đò là “ tay lái ra
hoa” . Ở Nguyễn Tuân “hoa” là tài hoa, là cái đẹp, “tay lái ra hoa” tức là tay
lái đạt đến trình độ điêu luyện để trở thành cái đẹp cái sang. Dưới ngòi bút
Nguyễn Tuân ông lái đò thực sự là một nghệ sĩ trong nghề nghiệp chèo đò
vượt thác.
Đọc những câu văn tả cảnh ông lái đò vượt thác gợi cho ta nhớ đến những sa
dạ sa đồng trong truyện thơ “vượt biển” của dân tộc tày nùng. Các sa dạ sa
đồng vượt qua những rán nước dữ dội “nước xôi to phùn phút, nước dựng
đứng trông trời” và khi gặp những thác nước như vậy các sa dạ sa đồng chỉ
còn biết van xin “biển ơi đừng giết tôi – nước hỡi đừng xua đẩy thuyền” làm


cho ta cảm thương về những kiếp người nô lệ còn ở đây ông lái đò cũng là
người bình dị nhưng ông không hề than thở van xin mà đã vượt lên tất cả

nguy nan trở thành một dũng tướng bách chiến bách thắng. Dưới ngòi bút
nha trang cuộc đụng đầu quyết liệt giữa con sông đà và người lái đò quả là
một bức tranh chiến trận hào hùng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân nâng lên thành
khúc tráng ca để xưng tụng con người lao động trong cuộc quyết đấu với
thiên nhiên giành sự sống.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×