Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tiểu luận cao học môn xây dựng đảng chính trị tổ chức công tác xây dựng và chỉnh đốn đảng trong thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.43 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Bước vào thời kì mới, nhất là trong bối cảnh thế giới như hiện nay, thì Đảng
ta cần có những thay đổi phù hợp với tình hình, để lãnh đạo toàn dân, toàn Đảng
giành được những thắng lợi mới trong thời kì mở cửa hội nhập kinh tế thị
trường.
Vì vậy, để xây dựng được một Đảng chính trị vững mạnh thì cần phải làm
tốt công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đảng Cộng Sản Việt Nam là đảng của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của toàn thể dân tộc Việt Nam, lấy
chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và là kim
chỉ nam cho hành động. Đảng ta trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và
trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một
Đảng cách mạng chân chính, dày dặn kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với
nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách
mạng.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng,
Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban bí thư các khóa đã ban hành
nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, công
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh
đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ
vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo,
quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ,
đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có
ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu hơn 25 năm đổi
mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to
lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
1


Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn


chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm
kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu
không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự
tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ
vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa
vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn
cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...
Đội ngũ cán bộ cấp trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng nhưng chưa
được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực
hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt,
chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán
bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan,
không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng
đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.
Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi
vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập
thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa
có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không
khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo
kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh
vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Vì vậy, trong chuyên Xây dựng Đảng về chính trị và tổ chức, em chọn đề tài
“Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ mới” làm đề tài tiểu luận
để tiếp tục đi sâu, nghiên cứu, tìm ra những vấn đề còn tồn tại trong công tác xây
2


dựng và chỉnh đốn đảng trong thời gian qua, từ đó tìm ra những giải pháp và

phương hướng để khắc phục, xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kì mới.

3


NỘI DUNG
Chương I: Những vấn đề đặt ra cho công tác xây dựng và chỉnh đổn
Đảng trong thời kỳ mới
I. Thực trạng công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Để xác định đúng phương hướng, nhiệm vụ và các biện pháp tiếp tục đổi
mới và chỉnh đốn Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới, Đại hội đã tập trung
đánh giá kết quả công tác xây dựng Đảng qua 10 năm lãnh đạo công cuộc đổi
mới.
a, Thành tựu.
Đánh giá tổng quát, Đại hội đã nêu lên 4 thành tựu nổi bật sau đây:
- Thứ nhất: Xây dựng Đảng về chính trị
“Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện dần đường lối đổi mới
một cách đúng đắn, sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta”.
Thành tựu này thể hiện sự trưởng thành của Đảng ta về trình độ lý luận và
vai trò quyết định hàng đầu của đường lối cách mạng. Có thấy hết bối cảnh quốc
tế phức tạp và tác động bất lợi của nó đến nước ta, cũng như sự phấn đấu không
mệt mỏi của Đảng ta trên mặt trận tư tưởng, lý luận và tổng kết thực tiễn trong
mười năm qua mới thấy rõ ý nghĩa quan trọng, to lớn của thành tựu này. Do có
đường lối đúng đắn, chế độ Xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã không sụp đổ mà còn
được giữ vững và có bước phát triển mới.
Tổng kết 5 năm đầu tiên tiến hành đổi mới, Đại hội VII (6-1991) đã nêu
rõ: với sự hình thành đường lối đổi mới toàn diện, xác định cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội , “quan niệm về Chủ nghĩa
xã hội và về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã hình thành trên

những đường nét chủ yếu”.
4


Từ Đại hội VII đến nay, qua các Hội nghị Trung ương và Hội nghị đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, qua việc xây dựng Hiến pháp, pháp luật, chính
sách và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, Đảng ta đã cụ thể hóa một bước quan
trọng Cương lĩnh và Chiến lược phát triển trên hầu hết các lĩnh vực cuộc sống.
Quan niệm về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội từ chỗ
hình thành trên những đường nét chủ yếu nay đã được xác định ngày càng rõ
hơn. Với việc tổng kết 10 năm đổi mới về lý luận và thực tiễn, qua các văn kiện
Đại hội VIII, chúng ta đang từng bước hình thành mô hình xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội.
-Thứ hai: Xây dựng Đảng về tư tưởng.
Thành tựu này thể hiện trên cả hai mặt: Củng cố vững chắc nền tảng tư
tưởng và tăng cường sự thống nhất tư tưởng trong Đảng và nhân dân trên cơ sở
mới cao hơn.
+ Trong điều kiện thế giới có những biến đổi khó lường, Chủ nghĩa xã hội
lâm vào thoái trào, nhiều vấn đề mới nảy sinh từ công cuộc đổi mới, các thế lực
thù địch ra sức tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng thì việc bảo vệ và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã nổi lên như một
nhiệm vụ hàng đầu của công tác chính trị, tư tưởng và lý luận của toàn Đảng và
toàn dân ta. Việc Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của
cách mạng Việt Nam là một bước phát triển hết sức quan trọng trong nhận thức
và tư duy lý luận của Đảng ta.
+ Mấy năm qua, công tác tư tưởng của Đảng đã đáp ứng ngày càng tốt hơn
yêu cầu của việc xây dựng, cụ thể hóa và phát triển đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước và yêu cầu xây dựng con người về mặt hình thái ý thức xã
hội, nhất là trong việc hình thành thế giới quan khoa học, tăng cường sự nhất trí

tư tưởng trong Đảng và xã hội trên một tầm cao mới….
5


Công tác tư tưởng của Đảng luôn luôn nắm vững mục tiêu và các định
hướng lớn của cách mạng và của bản thân công tác tư tưởng. Điều đặc biệt quan
trọng là khi cách mạng gặp khó khăn, thử thách gay gắt, hoặc đứng trước những
diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng đã kịp thời có định hướng tư tưởng, chính
trị đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống những luận điệu thù địch,
tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng và hành động trong toàn Đảng và trong
nhân dân.
- Thứ ba: Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ.
“Đảng ta đã giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. Có tiến bộ về thực hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực
hiện dân chủ trong xã hội, phát huy trí tuệ của tập thể, sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết toàn dân”.
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh
hoạt của Đảng. Mấy năm qua, nhờ giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng
ta đã không để bản chất giai cấp công nhân bị biến dạng và đảm bảo cho Đảng
luôn luôn là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, vừa phát huy
được sức mạnh của tổ chức, vừa phát huy được trí tuệ và năng lực sáng tạo của
mỗi cá nhân trong quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với các lực
lượng xã hội.
Đảng ta kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện lệch lạc, sai trái trong
nhận thức và trong hoạt động thực tiễn của một bộ phận cán bộ, đảng viên như
coi nhẹ hoặc cường điệu một mặt dân chủ hoặc tập trung, quy những hành động
độc đoán, chuyên quyền, vi phạm dân chủ trong Đảng và trong xã hội hoặc
những hành động dân chủ quá trớn, vô chính phủ là do “sự hạn chế”, “lỗi thời”
của bản thân nguyên tắc tập trung dân chủ, mà không thấy được rằng nguyên
nhân chính là do không thực hiện đúng nguyên tắc này.

- Thứ tư: Xây dựng Đảng về tổ chức và công tác kiểm tra.
6


Nghị quyết Đại hội VII, tiếp theo là nghị quyết Trung ương Ba (khóa VII)
và nhiều nghị quyết, chỉ thị, quyết định khác của Trung ương đã hình thành một
hệ thống quan điểm cơ bản, các chủ trương và biện pháp cụ thể để đổi mới và
chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện, đồng bộ gắn với các nhiệm vụ kinh tế-xã
hội, xây dựng Nhà nước và các đoàn thể chính trị-xã hội, tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Quá trình thực hiện các nghị quyết, chỉ thị,
quyết định nói trên đã tạo ra một số chuyển biến tích cực bước đầu về nhiều mặt
trong công tác tổ chức của Đảng. Có thể tóm tắt là:
+ Đổi mới một bước tổ chức và cán bộ: củng cố và kiện toàn một bước tổ
chức bộ máy Đảng, quan hệ công tác và quy chế hoạt động của các cấp bộ, thành
lập các Ban Cán sự Đảng, Đảng đoàn…, đổi mới quan điểm về công tác cán bộ,
kiện toàn một bước đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị, tăng cường công tác
quản lý, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng cán bộ….
+ Nâng cao một bước trình độ chính trị, nghiệp vụ, ngoại ngữ…và sức
chiến đấu của đảng viên thông qua nhiều hình thức và biện pháp giáo dục, thông
qua đổi mới nội dung và phương thức sinh hoạt đảng, chú trọng thực hiện tự phê
bình và phê bình.
+ Ngăn chặn được sự sa sút của nhiều tổ chức cơ sở đảng thông qua các
biện pháp quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ sở đảng và nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng ở cơ sở, gắn xây dựng cơ sở đảng với đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế, phát triển sản xuất, tăng cường công tác kiểm tra, mở rộng dân chủ
trong Đảng và trong nhân dân, tăng cường chỉ đạo của cấp ủy cấp trên….
+ Bước đầu cải tiến phương thức lãnh đạo và phong cách công tác; thể hiện
rõ là cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng với Chính quyền ở cấp Trung
ương, cấp tỉnh; và trên một số lĩnh vực: kinh tế, tư tưởng- văn hóa, nội chính,
dân vận… Phong cách công tác hướng về cơ sở, sát thực tiễn, sát dân đã được

thực hiện có kết quả ở một số ban, ngành và nhiều địa phương.
7


- Công tác kiểm tra của Đảng 5 năm qua có tiến bộ trên các mặt: kiểm tra
việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, việc giữ gìn phẩm chất đạo
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên (đã kiểm tra 2,5 triệu lượt đảng viên và
trên 6 vạn tổ chức đảng) và việc xử lý kỷ luật Đảng (trên 18 vạn đảng viên,
chiếm 8,5% tổng số đảng viên, trong số đó đã khai trừ 15,5%). Công tác kiểm tra
đã góp phần tích cực vào công tác xây dựng Đảng và thực hiện nhiệm vụ chính
trị.
b, Tồn tại, khuyết diểm của công tác xây dựng Đảng những năm qua.
Một là: Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa
với bên ngoài, cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của nhiều
nhân tố rất phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững
bản chất giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thử thách mới. Song,
Đảng thiếu sự chuẩn bị đầy đủ cho bước chuyển này, chưa chú ý đúng mức vấn
đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức đối với cán bộ, đảng viên.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý
tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo
đức và lối sống. Một số thoái hóa về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ
gây hậu quả hết sức xấu.
Hai là: “trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng có mặt chưa theo
kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn chưa
được làm sáng tỏ”.
Chúng ta còn thiếu khá nhiều kiến thức để thực hiện có hiệu quả vai trò lãnh
đạo của Đảng trên các mặt đời sống xã hội; còn thiếu hiểu biết một cách toàn
diện, có hệ thống, sâu sắc về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để có
thể vận dụng sáng tạo giải quyết những vấn đề lớn và bức xúc của nước ta như:
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, vấn đề phát triển và hiệu

quả của kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế thị trường và kinh tế
8


thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, tổ chức và quản lý xã hội…
Ba là, tổ chức cơ sở đảng ở nhiều nơi yếu kém, có nơi tê liệt; phương thức
lãnh đạo và sinh hoạt lúng túng, có tình trạng vừa kém dân chủ, vừa thiếu kỷ
luật, kỷ cương; nguyên tắc tập trung dân chủ ở nhiều nơi chưa được tôn trọng và
thực hiện; không ít nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng.
Sự yếu kém của cấp cơ sở ở nhiều nơi là một mối lo lớn, bởi vì nghị quyết,
chủ trương, chính sách của Đảng sẽ khó được thực hiện. Cơ sở đảng yếu thì
không thể nói Đảng mạnh toàn diện được.
Phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường cũng nảy
sinh nhiều vấn đề mới, nhưng chưa cải tiến kịp nên sinh ra lúng túng, bất cập.
Trong sinh hoạt Đảng và trong phương thức lãnh đạo của Đảng không ít nơi cán
bộ vừa độc đoán, chuyên quyền, vừa dân chủ quá trớn, mất đoàn kết nghiêm
trọng, chủ nghĩa cá nhân nặng.
Bốn là: công tác kiểm tra việc chấp hành đường lối, quan điểm, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng chưa được chú trọng. Đây là nhiệm vụ nặng nề và khó khăn đòi
hỏi phải tổ chức công phu, tập trung nhiều lực lượng, vừa có trình độ lý luận, am
hiểu đường lối, chính sách, vừa am hiểu công tác kiểm tra.
II. Kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới.
Đại hội VIII khẳng định vấn đề này dựa trên các căn cứ sau:
Sự ra đời của Đảng Cộng sản là một tất yếu lịch sử. Bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng là một quy luật của cuộc cách mạng Xã hội chủ nghĩa và là một yếu tố
quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại đó. Vì vậy, khẳng định sự lãnh
đạo của Đảng là một tiêu chí cơ bản đánh giá trình độ giác ngộ chính trị của
người cách mạng. Trong cuộc đấu tranh tư tưởng thường xuyên và lâu dài với đủ
mọi kẻ thù tư tưởng và các trào lưu cơ hội, xét lại, chống chủ nghĩa Mác-Lênin

và nhất là trong bối cảnh hiện nay, việc khẳng định này là nhằm phân định ranh
9


giới giữa những người mácxít-lêninnít, người cách mạng với những người không
phải là mácxít-lêninnít, những người không tán thành cách mạng Xã hội chủ
nghĩa.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được nhân dân ta nhất trí khẳng định qua hơn
65 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, qua hai cuộc kháng chiến chống xâm
lược. Thực tiễn mấy chục năm qua cũng chứng minh: “Đảng ta tiếp tục giữ vững
và phát huy được bản lĩnh và kinh nghiệm của các thời kỳ trước, lãnh đạo có kết
quả công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong những tình huống mới hết sức
phức tạp”, “Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng là một nhân tố quyết định tạo ra
những thành tựu đổi mới”. Vì vậy, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng của
Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt trở thành một bài học kinh
nghiệm hàng đầu và xuyên suốt các bài học khác của cách mạng nước ta trong
giai đoạn tiến hành đổi mới mọi mặt đời sống xã hội.
Tổng kết 10 năm lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới, Đại hội
đã rút ra một số kết luận khái quát rất quan trọng: “Phải kiên định sự lãnh đạo
của Đảng, vì ở nước ta, không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì không thể
có độc lập dân tộc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân, không có Nhà
nước của dân, do dân, vì dân, không thể thực hiện được công bằng xã hội, không
thể có Chủ nghĩa xã hội. Lúc bình thường vai trò lãnh đạo của Đảng rất quan
trọng; ở những bước chuyển giai đoạn, vai trò đó lại càng quan trọng”.
Kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng là một thái độ cách mạng. Song làm thế
nào để Đảng giữ được vai trò lãnh đạo trong thực tế, đó là cả một quá trình phấn
đấu gian khổ. Thực tế của nhiều nước và của nước ta đã chỉ rõ: nếu Đảng tự
bằng lòng với những gì đã đạt được, nếu không thường xuyên tự đổi mới, tự
chỉnh đốn và phát triển; nếu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không
được nâng cao để đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống thì không những Đảng


10


không đóng được vai trò lãnh đạo mà còn bị loại khỏi vũ đài chính trị, gây tổn
thất nặng nề cho sự nghiệp cách mạng.
Chương II: Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới
I: Phương hướng, nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng trong những năm
tới.
Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng là yêu cầu của quy luật phát
triển Đảng. Đây cũng là yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và của nhân dân.
Mục tiêu, tự đổi mới, tự chỉnh đốn của Đảng là: nâng cao phẩm chất và
năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng củng cố và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng
luôn luôn trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong
giai đoạn mới.
Phương châm, tiến hành đổi mới, chỉnh đốn Đảng: phải gắn liền với đổi mới
các lĩnh vực kinh tế- xã hội, với việc kiện toàn hệ thống chính trị với phát huy
tinh thần sáng tạo và khơi dậy phong trào hành động cách mạng của nhân dân.
“Xây” đi đôi với “chống”, lấy “Xây” làm chủ yếu.
Cơ sở (căn cứ) tiến hành: những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng; thực tiễn cách mạng nước ta,
yêu cầu của thời kỳ mới và thực tiễn công tác xây dựng Đảng ta.
II: Nội dung đổi mới, chỉnh đốn Đảng thời gian tới:
1. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Đây là điểm xuyên suốt và có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
Bởi Đảng ta xuất phát từ nhận thức khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân và Đảng Cộng sản với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, theo đúng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong đó đã luận chứng một cách khoa học về địa vị kinh tế- xã hội và vai trò lịch
sử của giai cấp công nhân cũng như những mục tiêu và con đường để giai cấp

11


công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là người đánh đổ Chủ nghĩa tư
bản, thiết lập nên một xã hội mới- xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Song, có người cho rằng, ngày nay giai cấp công nhân đã khác xa giai cấp
công nhân thời Mác, đã “biến chất” hoặc “biến mất”, vì vậy không thể nhắc lại
nguyên lý đã “cũ” về bản chất giai cấp công nhân của Đảng như trước đây được
nữa, mà phải tìm một nguyên lý khác (!)
Sự thật so với thời Mác, giai cấp công nhân trong các nước Tư bản phát
triển đã có những biến đổi to lớn về quy mô, cơ cấu, trình độ tri thức, nghề
nghiệp, mức sống và thậm chí có một bộ phận có cổ phần, thành ông chủ hoặc
xuất hiện các công cụ tự động hóa, người máy,…. Song có một điều không hề
thay đổi là toàn bộ tư liệu sản xuất cơ bản nhất, quyết đinh nhất đối với nền sản
xuất Tư bản chủ nghĩa vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản và bản chất bóc lột giá
trị thặng dư của nền sản xuất Tư bản chủ nghĩa vẫn không hề thay đổi; do đó,
bản chất cách mạng và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cũng không hề
thay đổi.
Mặt khác Đảng ta còn xuất phát từ thực tiễn lịch sử nước ta và Đảng ta.
+ Ở nước ta tuy giai cấp công nhân còn nhỏ bé, nhưng giai cấp công nhân
và Đảng của nó đã có vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Chính vì đứng vững
trên lập trường giai cấp công nhân, giữ vững bản chất giai cấp công nhân mà
Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại
chống xâm lược.
+ Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta là Đảng cầm quyền, có trách nhiệm xây
dựng và phát huy vai trò của Nhà nước trong mọi hoạt động tổ chức và quản lý
xã hội, tiến hành đổi mới mọi mặt đời sống xã hội theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, vì vậy, càng phải khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng.

12



Chỉ có đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, Đảng mới có thể tập
hợp, đoàn kết được nhân dân để thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu do Đảng đề ra,
đáp ứng lợi ích của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động.
Và chỉ có đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, Đảng mới tiến
hành thắng lợi cuộc đấu tranh khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường và đấu
tranh chống các trào lưu cơ hội, xét lại, thực dụng, xã hội dân chủ, chống mưu
toan “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Do đó để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
cần phải:
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng đường lối, chủ
trương, chính sách đúng đắn.
- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ….
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức
kỷ luật, xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp công
nhân.
- Quan hệ mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đoàn kết toàn dân, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Như vậy, bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện không chỉ ở số
lượng công nhân trong Đảng (dù rất quan trọng), mà trước hết là ở thế giới quan,
hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và hoạt động,
quan hệ với nhân dân và quan hệ quốc tế.
2. Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng
viên.

13



Việc quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng
viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân
dân, vì sự nghiệp cách mạng.
Để nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên
trước hết phải nâng cao tri thưc chính trị, tri thức lý luận về chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, đồng thời hiểu
biết sâu sắc lịch sử dân tộc, nâng cao lòng yêu nước, lòng tự hào với truyền
thống dân tộc, lịch sử dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kể cả những
thành tựu trí tuệ mới của thế giới. Qua đó, bảo đảm sự thống nhất về chính trị và
tư tưởng trong toàn Đảng.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, bên cạnh trách nhiệm của Đảng trong việc
thường xuyên bồi dưỡng, giáo dục cán bộ, đảng viên những tri thưc trên, tạo điều
kiện để mỗi đảng viên có thể học tập và tự học, công tác lý luận có vai trò to lớn
và nhiệm vụ nặng nề; giải đáp những vấn đề do cuộc sống đặt ra, cung cấp cơ sở
khoa học cho việc hoạch định, phát triển đường lối, chính sách, làm sáng tỏ con
đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Về trách nhiệm đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo chủ chốt. Phải coi
“học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy
định thành chế độ” đồng thời, coi đó là một tiêu chí quan trọng để đánh giá phẩm
chất của đảng viên: “Lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận
những thông tin mới, những hiểu biết mới cũng là biểu hiện của sự thoái hóa”.
Đó là những kết luận rất đúng đắn, rất quan trọng đối với công tác xây dựng
Đảng trong thời kỳ mới.
- Bên cạnh mặt bồi dưỡng, mặt “xây” nói trên, Đại hội đã nhấn mạnh mặt
“chống” và có phân biệt như sau:
+ Đối với những lệch lạc, sai lầm về tư tưởng, nhận thức, niềm tin của đảng
viên trong khuôn khổ nội bộ thì thái độ đối xử của tổ chức đảng là “uốn nắn”.
14



+ Đối với kẻ thù thì “phê phán, bác bỏ” các quan điểm sai trái, thù địch.
+ Đối với đảng viên có sự bất đồng quan điểm: đảng viên được tự do bày tỏ
ý kiến, bảo lưu ý kiến trong khuôn khổ tổ chức. Nhưng khi có nghị quyết thì phải
chấp hành vô điều kiện. Mặt khác, đối với những đảng viên vi phạm nguyên tắc
Đảng, lợi dụng dân chủ để tuyên truyền chống Đảng thì cần có biện pháp xử lý
kịp thời.
- Về các biện pháp chống suy thoái phẩm chất của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, biện pháp hàng đầu là cá nhân tự tu dưỡng, rèn luyện. Về mặt tổ chức,
điểm mới lần này đã nêu ra nhiều biện pháp.
+ Có quy định cụ thể những việc trong kinh doanh tư nhân, làm việc cho
người nước ngoài mà công chức không được phép làm.
+ Có quy định cụ thể về nhận quà biếu, tiếp khách.
+ Có quy định về khai báo thu nhập và kiểm tra về thu nhập. Tổ chức đảng
phải kiểm tra những người giàu lên bất thường.
+ Có quy định trách nhiệm của những cán bộ, đảng viên có vợ (chồng), con
làm ăn phi pháp; quy định rõ những hoạt động kinh doanh mà vợ (chồng), con
của cán bộ lãnh đạo chủ chốt đương chức ở Trung ương và địa phương không
được phép làm.
+ Đảng viên không được làm hoặc mượn danh nghĩa người thân để làm
kinh tế tư bản tư nhân.
Đảng phải xử lý kịp thời và nghiêm minh những cán bộ thoái hóa, biến chất,
bất kể là ai và ở cương vị nào.
3. Củng cố Đảng về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ.
Trong báo cáo chính trị, bên cạnh việc khẳng định lại những nội dung cơ
bản của nguyên tắc tập trung dân chủ có nêu nhiệm vụ “cần có quy định cụ thể”
để thực hiện một số quy định trong Điều lệ Đảng: về tham gia thảo luận và tham
15



gia quyết định các chủ trương công tác của tổ chức đảng, về những quyết định
của tập thể phải giải quyết theo đa số.
Về tổ chức bộ máy “Tiếp tục cải tiến bộ máy Đảng, Nhà nước và đoàn thể
theo hướng tinh giản và nâng cao hiệu quả, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ
và mối quan hệ giữa các tổ chức”; đồng thời, phải củng cố, kiện toàn các tổ chức
đảng ở cấp Trung ương, như: các ban Đảng, đảng đoàn, Ban Cán sự Đảng, Đảng
ủy khối, Đảng ủy cơ quan nhằm tháo gỡ những vướng mắc, lúng túng đang tồn
tại bấy lâu nay đã hạn chế kết quả công tác.
Về công tác cán bộ, Đại hội đã khẳng định lại những nội dung cơ bản các
quan điểm và biện pháp trong việc bố trí cán bộ, thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, xây dựng quy chế công tác, thực hiện tự phê bình và phê bình, chống
mất đoàn kết, nhấn mạnh việc “Bồi dưỡng tình thương yêu đồng chí, tôn trọng
lẫn nhau”; có thái độ phân biệt đúng đắn đối với những ý kiến khác nhau.
4. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ
Đây là vấn đề rất hệ trọng của công tác xây dựng Đảng nói chung và của sự
nghiệp đổi mới nói riêng. Một đặc điểm dễ thấy trong công tác cán bộ hiện nay
là thế hệ cán bộ lão thành từng trải qua hai cuộc kháng chiến hiện còn tại chức
rất ít. Vấn đề cán bộ kế cận đang là vấn đề bức xúc toàn Đảng phải chăm lo xây
dựng thật tốt đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ kế cận vững vàng, đủ bản
lĩnh về mọi mặt.
Đồng thời phải xây dựng chiến lược cán bộ. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng
và bức xúc của Đảng.
- Công tác cán bộ là một bộ phận quan trọng cấu thành hoạt động lãnh đạo
của Đảng. Thực tế đã chỉ rõ, ở nơi nào, cấp nào tổ chức đảng buông lơi hoặc sao
nhãng công tác cán bộ thì ở đó vai trò lãnh đạo của Đảng bị lu mờ, hạ thấp, hoặc
trở thành hình thức. Đại hội lần này khẳng định lại vai trò của Đảng: “Đảng
thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ”; “Đảng phải lo
16



cán bộ cho cả hệ thống chính trị”; “phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành
viên hệ thống chính trị trong công tác cán bộ”, “Bảo đảm nguyên tắc tập thể, dân
chủ đi đôi với phát huy trách nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ”.
-“Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo
đức, trình độ chuyên môn và năng lực thực tiễn”. Cần khắc phục tính khống toàn
diện, coi nhẹ giáo dục đạo đức đang khá phổ biến hiện nay. Cần tập trung công
sức cho lĩnh vực này, giải quyết cả về lý luận và thực tiễn khi mà những chuẩn
mực giá trị đạo đức đang biến đổi, và khi một bộ phận không nhỏ cán bộ có
chức, có quyền suy thoái về phẩm chất đạo đức.
Trong công tác cán bộ, “coi trọng cả đức và tài, đức là gốc”.
Quan điểm này là sự quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và đáp ứng một yêu
cầu nóng bỏng của thực tiễn. Khi vận dụng cần hiểu đúng vị trí và quan hệ chặt
chẽ giữa đức và tài, tránh cực đoan, tuyệt đối hóa một mặt.
- Về vấn đề tạo nguồn cán bộ, cần quan tâm đến thế hệ trẻ trong các trung
tâm đào tạo, các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề, coi đó là một nguồn bên
cạnh nguồn từ phong trào thực tiễn. Điều đó phù hợp với yêu cầu của thời kỳ
mới và không trái với quan điểm giai cấp của Đảng.
5. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Phương châm chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ này là “phát huy kết quả và kinh
nghiệm của việc thực hiện nghị quyết Trung ương ba khóa VII, chỉ đạo tốt cuộc
vận động xây dựng cơ sở đảng trong sạch và vững mạnh; chấn chỉnh các cơ sở
yếu kém; khắc phục sự buông lỏng công tác đảng”.
“Hướng chủ yếu củng cố, chỉnh đốn các tổ chức cơ sở đảng là làm cho các
cơ sở này quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đề ra được
chủ trương, giải pháp đúng và lãnh đạo tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ của
đơn vị, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống của người lao

17



động, chống tham nhũng, ức hiếp quần chúng, lãnh đạo giải quyết những nhiệm
vụ chính đáng, thiết thực, bức xúc của nhân dân”.
Đó là những nhiệm vụ cụ thể rất nặng nề, khó khăn nhưng là nhiệm vụ
chính trị rất quan trọng- nếu không nói là quan trọng nhất của cơ sở đảng. Thực
hiện theo hướng đó thì nội dung sinh hoạt chi bộ sẽ phong phú, hoạt động của
chi bộ sẽ sống động, thiết thực.
Bên cạnh đó, phải thực hiện có nền nếp việc quản lý đảng viên; đổi mới
cách phân công, tạo điều kiện để mọi đảng viên đều gắn với nhiệm vụ cụ thể;
chăm lo, giúp đỡ đảng viên già yếu, tạo điều kiện để các đồng chí đó phát huy
khả năng và kinh nghiệm đóng góp cho công việc chung. Dành kinh phí thỏa
đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ cơ sở, kiện toàn và tăng cường
đội ngũ cốt cán; đẩy mạnh công tác phát triển đảng. Cần quan tâm làm tốt công
tác vận động quần chúng, thường xuyên tham gia xây dựng Đảng dưới nhiều
hình thức có hiệu quả thiết thực.
Đối với các doanh nghiệp tư nhân chủ trương xây dựng các đoàn thể để tập
hợp và giáo dục quần chúng, phát triển đoàn viên, tiến tới xây dựng tổ chức đảng
và chi bộ Đảng cần có quy định hướng dẫn hoạt động của các tổ chức đảng ở
khu vực này.
6. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị thông qua tổ chức chứ không chỉ thông
qua cá nhân; lãnh đạo bằng quyết định tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến
chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện; khuyến khích mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc.
Đảng lãnh đạo phát huy mạnh mẽ vai trò hiệu lực của Nhà nước chứ không
điều hành thay Nhà nước.
Đối với Đảng đoàn, Ban Cán sự Đảng trong các cơ quan Nhà nước và đoàn
thể có hai nhiệm vụ: quán triệt đường lối, chính sách của Đảng trong hoạt động

18



của các cơ quan, đoàn thể đó; phối hợp với Đảng ủy khối và cấp ủy địa phương
trong công tác xây dựng Đảng ở cơ sở thuộc ngành mình quản lý.
Hoạt động của Đảng ủy, Đảng đoàn, Ban Cán sự Đảng theo nguyên tắc tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, có chế độ sinh hoạt định kỳ; nội dung sinh hoạt
không lẫn với sinh hoạt của chính quyền.
7. Đổi mới công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng.
Tăng cường trách nhiệm kiểm tra của các cấp ủy Đảng, các ban của cấp ủy
tăng cường nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ủy ban Kiểm tra các cấp.
Tổ chức đảng và đảng viên phải tiến hành công tác kiểm tra và chịu sự kiểm tra
của Đảng.
Các cấp ủy Đảng lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng; đồng thời sử dụng các ban để kiểm tra.
Thông qua kiểm tra để phát hiện nhân tố mới, phát huy ưu điểm, ngăn ngừa
và khắc phục khuyết điểm; bổ sung, phát triển, điều chỉnh chủ trương, chính
sách.
Ủy ban kiểm tra các cấp tập trung kiểm tra đảng viên có biểu hiện vi phạm
tiêu chuẩn đảng viên, vi phạm tiêu chuẩn cấp ủy viên và việc thực hiện nhiệm vụ
đảng viên; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới có biểu hiện vi phạm trong việc chấp
hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị và nguyên tắc tập
trung dân chủ của Đảng; xử lý và giúp cấp ủy xử lý công minh, kịp thời đảng
viên và tổ chức đảng vi phạm. Đặc biệt coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ
chính trị nội bộ trong mọi thời kỳ.

19


KẾT LUẬN
Đảng cộng sản Việt Nam, là một Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao

động và toàn thể dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác_lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam trong hành động. Vì vậy, để Đảng
thật sự trong sạch và vững mạnh thì chúng ta cần làm tốt công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng. Loại bỏ những con sâu mọt – kẻ thù nguy hiểm đang âm ỉ tấn
công phá hoại làm hạn chế sự phát triển của đất nước trong thời kì mới hội nhập
và phát triển. Tích cực đấu tranh với những tư tưởng bè cánh, che giấu từ trong
nội bộ đơn vị, cơ quan để phát hiện xử lý các đối tượng có hành vi, hành động
làm ảnh hưởng đến sự trong sạch và vững mạnh của Đảng.
Từ thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam qua 25 năm thực hiện đổi
mới, 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội
X, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) trình Đại
hội XI của Đảng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn trong công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng sau đây:
20


Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải kiên trì thực hiện
đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích
cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh
tế độc lập tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng,
phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách
nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, doanh nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng hiệu quả tăng trưởng và phát triển
bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc
độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các
nguồn lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn lực để
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu

tố bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Ba là, phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng
xa, có nhiều khó khăn; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố
quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương,
đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ
cán bộ, đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối
sống, có sức chiến đấu cao, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu
21


lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm là, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải rất nhậy bén, kiên quyết, sáng
tạo, bám sát thực tiễn đất nước, chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải
pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng
thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Với đề tài “ Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kì mới ” đã
giúp em nâng cao được nhận thức về vấn đề này. Đồng thời, cũng làm cho em
hiểu thêm về bản chất và mục tiêu hành động của Đảng Cộng Sản Việt Nam
trong thời kì mới, kịp thời chấn chỉnh những thiếu soát, lệch lạc trong Đảng, và
đề ra những mục đích, phương hướng hành động mới phù hợp với tình hình mới.
Tuy nhiên đây là một đề tài lớn, khả năng nhận thức của em còn nhiều hạn chế,
chính vì vậy không thể không tránh khỏi những sai sót, do đó em rất mong nhận
được sự chỉ bảo của thầy, cô để có thể hoàn thành tốt bài tiểu luận này. Em xin

chân thành cảm ơn..

DANH MỤC ĐỀ TÀI THAM KHẢO
Trang điện tử:
Trang điện tử: Hanoimoi.com.vn
Hiến pháp năm 1992
Tạp chí cộng sản.
Tạp chí nhà nước và pháp luật.
Báo cáo của Ban Chấp hành T.Ư Đảng khóa IX về Công tác xây dựng Đảng
tại Đại hội X của Đảng
Nghị quyết trung ương IV về xây dựng Đảng.

22



×