MỞ ĐẦU
1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài tiểu luận
Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một trong những nhiệm vụ hàng
đầu, được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang nỗ lực phấn đấu hoàn thành, mục
tiêu là xây dựng một xã hội phồn vinh và hạnh phúc “Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, cơng bằng, văn minh”. Để thực hiện mục tiêu đó, nhân tố đầu tiên phải có là
con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước
tiên phải có những con người xã hội chủ nghĩa. Người đặc biệt coi trọng vấn đề
nhân cách của con người, chúng ta thường thấy Người nhắc đến các cụm từ: tư
cách người cách mệnh, tư cách của Đảng chân chính cách mạng, tư cách người
cán bộ cách mạng, tư cách người công an cách mạng và Người định nghĩa “nhân
cách là tư cách làm người”.
Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng
định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững” [108 - 109]. Ở đây, những nhiệm vụ trọng yếu, nền tảng của chương trình
giáo dục đại học là xây dựng một đội ngũ trí thức có nhân cách đạo đức trong sáng,
làm chủ về chuyên môn nghiệp vụ, khỏe mạnh về thể chất đáp ứng cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến vấn đề này, đặc biệt là việc giáo dục – đào
tạo học sinh, sinh viên trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp
nơi hội tụ những nhân tài tương lai của đất nước. Chính vì vậy, mà hệ thống các trường
Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp không ngừng được cải tiến, hoàn thiện
cả về nội dung và phương pháp giáo dục. Hàng năm có hàng nghìn sinh viên ra trường
và đóng góp sức lực, trí lực của mình vào cơng cuộc xây dựng đất nước.
Trong cuộc sống hiện đại, kéo theo một loạt những thay đổi về kinh tế - xã
hội và cùng với đó là vấn đề xung quanh về sinh viên như suy nghĩ, lối sống, hành
động có nhiều thay đổi ở mỗi thời kỳ khác nhau. Bên cạnh những mặt tích cực đó,
sinh viên cịn tồn tại nhiều mặt trái, những hiện tượng tiêu cực, tệ nạn như: chất
lượng học tập của một bộ phận sinh viên đang xuống cấp, có lối sống không lành
mạnh, sống thiếu niềm tin vào tương lai, vào lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt
Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa. Một trong những đối tượng theo tác giả nhận thấy
dễ bị tác động bởi lối sống tiêu cực và cần phải có những giải pháp giúp hồn thiện
nhân cách chính là tầng lớp sinh viên - những chủ nhân tương lai của đất nước. Do
vậy, công tác giáo dục nhân cách đặc biệt là đối với sinh viên, vấn đề làm lành
mạnh đời sống tinh thần xã hội là một nhiệm vụ quan trọng trong cơng cuộc đổi
mới của nước ta. Và để góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ này, tác giả đã
chọn đề tài: “Một số giải pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên chuyên ngành
Giáo dục chính trị trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền” làm đề tài tiểu
luận học phần Một số chuyên đề về Tâm lý học.
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân
nói lên bộ mặt tâm lý – xã hội, bản sắc cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi
xã hội của họ. Hay nói cách khác, nhân cách là tư cách làm người.
Giáo dục nhân cách cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ hết sức quan
trọng không chỉ đối với gia đình, nhà trường mà cịn với tồn thể xã hội, vì sinh
viên là người chủ tương lai của đất nước. Giáo dục nhân cách cho sinh viên là giáo
dục lối sống, đạo đức, lập trường chính trị cho sinh viên.
Nhân cách là vấn đề rộng cho nên tác giả chỉ dùng lại nghiên cứu một số giải
pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị trường
Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu dựa trên thực tế của Khoa Tâm lý Giáo
dục trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền và sự giảng dạy, truyền đạt kiến
thức của quý thầy, quý cô và dựa vào những hiểu biết, những kiến thức thu nhận
được từ một số loại tài liệu:
- Đề cương bài giảng Tâm lý học đại cương
- Một số chuyên đề tâm lý học
- Tâm lý học sư phạm đại học
- Tâm lý học giáo dục
- Tâm lý học gia đình
Giáo dục nhân cách là yêu cầu khách quan của sự nghiệp “trồng người” nó
giúp đào tạo ra thế hệ vừa “hồng” vừa “chuyên” nhằm phục vụ sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Do
vậy, tác giả sẽ cố gắng nghiên cứu để hiểu một cách đầy đủ hơn về khái niệm nhân
cách, sinh viên, những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách và
đưa ra một số giải pháp giáo dục nhân cách sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính
trị trường Học viện Báo chí và Tun truyền.
3. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục nhân cách là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà xã hội nào
cũng quan tâm. Trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội loài
người mà nhiệm vụ giáo dục nhân cách được đặt ở những vị trí khác nhau. Chính
vì vậy, giáo dục nhân cách đã được rất nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Có nhiều ấn phẩm nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về nhân cách như:
- Lê Diệp Đĩnh: “Thực trạng tâm lý xã hội của sinh viên và vấn đề giáo dục
nhân cách cho sinh viên ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, năm 1995.
- PGS. TS Nguyễn Thạc (chủ biên): “Tâm lý học sư phạm”, Nhà xuất bản
Đại học Sư phạm, Hà Nội – 2009.
- Nguyễn Ngọc Bích: “Tâm lý học nhân cách”, Nhà xuất bản Chính Trị
Quốc Gia, HN, 1998.
- Trần Sỹ Phán: “Giáo dục đạo đức với việc hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên trong giai đoạn hiện nay”, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1999.
- Trần Thị Tuyết Sương: “Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức con người
Việt Nam trong điều kiện hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Viện Triết học,
năm 1998.
Nói chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến các khía cạnh khác
nhau về nhân cách, nhưng các cơng trình này chưa đề cập đến giải pháp giáo dục
nhân cách cho sinh viên, đặc biệt là đối với sinh viên chuyên ngành Giáo Dục
Chính Trị. Do đó, tác giả sẽ cố gắng tìm hiểu nghiên cứu vấn đề trên.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận nhằm làm rõ khái niệm về nhân cách, sinh
viên, những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân cách bên cạnh đó đề
xuất một số giải pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên chuyên nghành Giáo dục
chính trị trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Để thực hiện được những mục
tiêu nói trên, tác giả xác định cần phải thực hiện những mục tiêu sau:
Một là, tìm hiểu một số khái niệm như: nhân cách, sinh viên.
Hai là, xác định những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân
cách của sinh viên.
Ba là, từ đó đưa ra một số giải pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên
chuyên ngành Giáo dục chính trị trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài tiểu luận
Để làm sáng tỏ những quan điểm đó, tác giả cố gắng bám sát nội dung về
nhân cách và chuyên đề nhân cách trong học phần Một số chuyên đề về tâm lý
học. Chính vì vậy, trong q trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng nhiều phương
pháp nghiên cứu như: diễn dịch - quy nạp, lơgích - lịch sử, phân tích - tổng hợp,
thu thập, phân loại tài liệu,…
6. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm có 2
chương 6 tiết.
Chương 1. Cơ sở lý luận của giáo dục nhân cách cho sinh viên
1.1. Khái quát chung về nhân cách
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách cho sinh viên
Chương 2. Những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục nhân cách cho sinh
viên chuyên ngành Giáo Dục Chính Trị trường Học viện Báo chí và Tun
truyền
2.1. Hình thành mơi trường xã hội tích cực trong việc giáo dục nhân cách
cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị
2.2. Mơi trường gia đình
2.3. Mơi trường nhà trường
2.4. Hoạt động của cá nhân – yếu tố quyết định trực tiếp đến sự hình thành
nhân cách cho sinh viên
NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận của giáo dục nhân cách cho sinh viên
1.1. Khái quát chung về nhân cách
1.1.1 Một số quan điểm về nhân cách
Cho đến nay, có gần 200 định nghĩa khác nhau về nhân cách. Ở mỗi ngành
khoa học xã hội có quan điểm nhân cách riêng của mình như: Nhân cách dưới góc
độ kinh tế học, xã hội học, nhân chủng học, sử học, triết học, Dân tộc học, Văn
học, Tâm lý học, Giáo dục học,... Sau đây là một số quan điểm khác nhau của
những trường phái về nhân cách như:
Thứ nhất, tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân cách: Các nhà tư tưởng triết học
phương Đông cổ đại cho rằng con người là tiểu vũ trụ, mang những đặc tính của vũ trụ.
Những đặc tính này chi phối sự phát triển con người. Mạnh Tử nhận xét: Khi phát triển
hết mình, con người có thể biết trời mà cịn hợp nhất với trời làm một.
Tính cách của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra làm 5
loại người: Kim, Hoả, Thổ, Mộc, Thuỷ. Người mệnh Kim ăn ở có nghĩa khí,
nếu Kim vượng thì tính cách cương trực. Người mệnh Hoả thì lễ nghĩa, đối với
mọi người nhã nhặn, lễ độ, thích nói lý luận; nhưng nếu Hoả vượng thì nóng
nảy, vội vã, dễ hỏng việc. Người mệnh Thổ trọng chữ tín, nói là làm; nếu Thổ
vượng thì hay trầm tĩnh, khơng năng động, dễ bỏ thời cơ. Người mệnh Mộc
hiền từ, lương thiện, độ lượng; Mộc vượng thì tính cách bất khuất. Người
mệnh Thuỷ thì khúc khuỷu, quanh co, nhưng thơng suốt; nếu Thuỷ vượng thì
tính tình hung bạo, dễ gây tai hoạ.
Người phương Đông lấy “tâm thiện” là lý tưởng. Phương Tây tôn sùng tiến
bộ, tôn sùng văn minh vật chất, khơng quan tâm nhiều đến phẩm chất. Do đó,
nhiều người đã than phiền rằng đạo lý ngày nay suy đồi, nhân cách con người thối
hố khơng bằng ngày xưa.
Người phương Đơng đề cao tính thiện, tính nhân, thích sự im lặng, nhẹ
nhàng, đề cao sự cân bằng không thái quá. Mọi tu nhân, xử thế, chính trị đều
hướng tới Thiện. Biết đủ là giàu, giản dị ở vật chất, giản dị trong nội tâm,
trong ngôn từ, trong quan hệ với mọi người. Khổng Tử quan niệm về nhân
cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và chỉ có người “đại
nhân” mới có nhân.
Trên đây là những nét sơ lược về tư tưởng phương Đơng cổ đại có liên
quan đến nhân cách con người. Nó nói lên hồn cảnh và phương thức sống của
con người phương Đông. Tuy vậy, đây chưa phải là những quan điểm, học
thuyết về nhân cách.
Thứ hai, quan niệm về nhân cách trong tâm lý học phương Tây: Như ở
trên có nói, ở phương Tây có nhiều học thuyết khác nhau về nhân cách. Tác
giả xin trình bày một số quan niệm nhân cách tiêu biểu trong tâm lý học
phương Tây hiện đại như:
Quan niệm nhân cách của Herrmanm (nhà tâm lý học Đức ) coi nhân cách là
một cấu trúc rất chung mà việc xác định khái niệm về nó phải đến khi kết thúc việc
nghiên cứu, mới có thể đưa ra được. Người ta khơng thể xác định được khái niệm
nhân cách khi bắt đầu việc nghiên cứu về nó.
Herrmanm (1972 – 1973) cho rằng, nhân cách cũng như cấu trúc của nó
khơng phải là cái tồn tại hiện thực khách quan, mà là sản phẩm trừu tượng của tâm
lý học, là khía niệm giải thích lý thuyết, một cấu trúc lý thuyết chung mà tâm lý
học tạo ra nhằm giải thích tính khác biệt của những biểu hiện của các hiện tượng ở
những người khác nhau [7, 7 - 8].
Quan niệm nhân cách của Guilford (1964): Guilford (nhà tâm lý học Mỹ) cố
gắng đưa ra một khái niệm nhân cách trìu tượng, khái quát, coi nhân cách của một
cá nhân như là cấu trúc có một khơng hai của nét bản chất. Theo Guilford mỗi
nhân cách riêng lẻ là duy nhất và không lặp lại. Đó là một tổng thể tồn vẹn có tính
tích hợp của những thuộc tính biểu hiện như là những khía cạnh (hay những mặt)
của nhân cách có thể được nhận thức trong sự tồn tại chung và thường xuyên của
các nét nhân cách. Nét nhân cách theo quan niệm Guilford là nét bản chất tương
đối khơng đổi và có tính trìu tượng, là cái phân biệt người này với người khác.
Nhân cách theo quan niệm của Giulford được cấu tạo bởi bảy mặt: thái độ, khí
chất, năng lực, hình thái, giải phẫu, nhu cầu, hứng thú [7, 8 - 9].
Quan niệm nhân cách của Cattell (1793): Ông là nhà tâm lý học người Mỹ,
một đại diện có hạng của thuyết hành vi mới. Ơng cho rằng, nhân cách chính là
hành vi của một người trong một tình huống nhất định và nó được biểu diễn trong
cơng thức: R = ( S, P), trong đó, R là hành vi, S là kích thích, P là nhân cách. Theo
quan niệm của ơng thì nhân cách được hình thành từ lúc 6,7 tuổi [7, 10 - 11].
Quan niệm nhân cách của Eycenek (1970): Ông là nhà tâm lý học người Mỹ,
ông coi nhân cách là một cấu trúc tương đối bền vững của các thuộc tính như tính
cách, khí chất, trí tuệ và giải phẫu của con người. Nó xác định kiểu riêng của sự
thích ứng của con người với môi trường [7, 12].
Thứ ba, quan niệm về nhân cách của tâm lý học Macxit. Đứng trên lập
trường, quan điểm của triết học duy vật biện chứng, nền tâm lý học Xôviết đã cống
hiến cho nhân loại những thành tựu to lớn, phong phú, đa dạng không ai có thể phủ
nhận được. Xuất phát điểm cơ bản của lý luận nhân cách Mác – xít (Rubinstein,
Schorochowa, Kossakowski) là nhân cách được hiểu khái quát như toàn bộ những
điều kiện bên trong mà nhờ nó các tác động bên ngoài được khúc xạ [7, 34].
C. Mác và Ph.Ăngghen đã viết: Con người sống như thế nào thì nó là như
thế. Con người là gì, điều đó phụ thuộc vào sự sản xuất của anh ta, cả việc anh ta
sản xuất ra cái gì, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất
của anh ta.
Từ đó, một định nghĩa tâm lý học Mác – xít về khái niệm nhân cách có thể
nêu như sau: Nhân cách được hiểu là con người cụ thể, hoạt động xã hội và được
phát triển mang tính lịch sử, mà về mặt tâm lý có thể xác định như một hệ thống
động của những tiền đề chung, chuyên biệt và cá thể của hành vi xã hội và hành vi
công việc trong cấu trúc độc nhất vô nhị không thể lặp lại, hệ thống này được hình
thành trên những cơ sở sinh học được hình thành trong q trình phát sinh lồi nhờ
những tương tác tích cực, được điều khiển xã hội với các điều kiện tự nhiên, đặc
biệt là với những điều kiện sống xã hội và ln phụ thuộc vào tình trạng sống cá
thể và được bộc lộ rõ trong: phương thức sống tập thể, tính xã hội tối đa (tính
Đảng), tương tác biến cải mơi trường một cách tích cực, sáng tạo và điều kiện sống
[7, 36].
Thứ tư, quan niệm về nhân cách ở Việt Nam. Theo Từ điển Bách khoa
Việt Nam: “nhân cách là bộ mặt tâm lý, tổ hợp thái độ riêng, thuộc tính riêng
biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của cá nhân với tư cách là chủ thể của hoạt
động, giao tiếp... về thực chất, đó là q trình xã hội hóa cá nhân, tiếp thu các
giá trị văn hóa của gia đình cộng đồng và xã hội... Nhân cách có tính chất xã
hội, đồng thời cũng mang tính cá biệt, với những kinh nghiệm, nếp suy nghĩ,
tình cảm, hồi bão, niềm tin, định hướng giá trị, tính cách riêng, tạo ra tính đa
dạng của các cá nhân. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội và hoạt động giao tiếp giữ
vai trò quyết định đối với diện mạo của nhân cách.
1.2.1. Khái niệm nhân cách và vai trò của nhân cách
1.2.1.1. Khái niệm nhân cách
Để nắm được khái niệm nhân cách chúng ta cần phải tìm hiểu một số khái
niệm mà trong quá trình nghiên cứu con người, tâm lý học thường dùng để chỉ con
người. Trước tiên, tác giả trình bày về khái niệm con người: Từ xa xưa đến nay có
rất nhiều quan điểm về bản chất con người, khái niệm con người được xuất phát từ
những mục đích, những bình diện nghiên cứu khác nhau. Con người là một tồn tại
sinh vật ở bậc thang cao nhất của sự tiến hóa vật chất. Tất cả những đặc điểm cơ
thể của nó là tiền đề vật chất quan trọng của các chức năng tâm lý. Đồng thời, con
người là một tồn tại xã hội. Tất cả những thuộc tính tự nhiên với những chức năng
của nó, chỉ được phát triển và hồn thiện trong q trình con người sống. Khái
niệm con người là một khái niệm rất rộng để chỉ mọi cá thể, từ người lớn đến trẻ sơ
sinh, từ người có trí tuệ bình thường đến người khơng bình thường.
Khái niệm cá thể: Cá thể là một đơn vị hoàn chỉnh đại diện cho giống loài
nhưng mang những nét đặc thù riêng. Khái niệm cá thể không dùng riêng cho một
giống lồi nào, nó có ý nghĩa phân biệt một cái riêng có tính độc lập trong một tập
hợp chung.
Khái niệm cá nhân: là một con người cụ thể, một thành viên của một cộng
đồng xã hội nhất định. Cá nhân cũng là một thực thể sinh vật – xã hội và văn hóa,
nhưng được xem xét một cách cụ thể riêng từng người với những đặc điểm về sinh
lý, tâm lý và xã hội, để phân biệt nó với các cá nhân khác, với cộng đồng.
Khái niệm cá tính: là tính đơn nhất, độc đáo, có một không hai về đặc điểm
tâm lý hoặc sinh lý của cá thể động vật hoặc cá thể người (cá nhân).
Nhân cách: là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân
nói lên bộ mặt tâm lý – xã hội, bản sắc cá nhân, quy định giá trị xã hội và hành vi
xã hội của họ.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách, song trong các
định nghĩa, nhân cách thường được xác định như là một hệ thống các quan hệ của
con người đối với thế giới xung quanh và bản thân mình. Chúng ta nói đến nhân
cách của con người khi chúng ta xem xét con người với tư cách là một thành viên
xã hội nhất định, là chủ thể của các hoạt động có ý thức và các mối quan hệ giao
tiếp của họ. Nhân cách là tổng hịa khơng phải mọi đặc điểm cá thể của con người
mà chỉ những đặc điểm quy định con người như một thành viên của xã hội. Khơng
phải mọi cá nhân với cá tính của mình đều là nhân cách mà nhân cách được tạo nên
bởi những đặc điểm mang tính người đích thực, tính xã hội – đạo đức.
Theo Bách khoa Tồn thư Liên Xô, nhân cách được thể hiện ở hai mặt: thứ
nhất, con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ và hoạt động ý thức,
thứ hai, là một hệ thống giá trị có ý nghĩa xã hội đặc trưng cho cá thể trở thành một
nhân cách. Nội dung của nhân cách là nội dung của những điều kiện lịch sử cụ thể
của xã hội cụ thể chuyển vào thành đặc điểm nhân cách của từng người, thông qua
hoạt động và giao tiếp của họ. Nhân cách khơng được sinh ra mà được hình thành,
nhà Tâm lý học X.L. Rubinstein đã viết “Con người là cá tính do nó có những
thuộc tính đặc biệt, khơng lặp lại; con người là nhân cách do nó xác định được các
quan hệ của mình với những người xung quanh một cách có ý thức” [2, 66 - 67].
Mặc dù có những quan điểm khác nhau về nhân cách nhưng nhìn chung có
sự thống nhất khi xem xét nhân cách, đó là:
Những phẩm chất và năng lực có giá trị đối với cá nhân và xã hội được hình
thành và phát triển bằng hai con đường chủ yếu là hoạt động và giao lưu.
Mỗi cá nhân có một nhân cách riêng bao gồm hai mặt: Mặt tự nhiên và mặt
xã hội, trong đó mặt xã hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, thể hiện đặc thù về
nhân cách của mỗi con người.
Nhân cách là tổng hợp những phẩm chất, năng lực không thành bất biến
của cá nhân mà nó thường xuyên vận động, biến đổi theo chuẩn mực, giá trị xã
hội. Vì vậy, mọi cá nhân khơng chỉ phải thường xun giữ gìn, bảo vệ mà cịn phải
rèn luyện, bồi dưỡng để nhân cách ngày càng hoàn thiện hơn.
1.1.2.2. Vai trò của nhân cách
Trong xã hội, con người là một trong những yếu tố quan trọng, là chủ thể
của xã hội. Để xã hội tiến bộ và phát triển thì cần phải có một cộng đồng người
hồn thiện cả về tài và đức. Một yêu cầu đặt ra là phải giáo dục hoàn thiện nhân
cách cho các cá nhân sao cho phù hợp với chuẩn mực xã hội của từng thời kỳ.
Ngày nay, bên cạnh sự thay đổi như vũ bão của xã hội lồi người thì một số chuẩn
mực xã hội cũng đang dần dần thay đổi. Hoàn thiện nhân cách cho các cá nhân ở
mọi lứa tuổi là nhiệm vụ quan trọng của toàn xã hội. Trong đó, một bộ phận khơng
nhỏ của xã hội là sinh viên cần phải đặc biệt chú trọng công tác giáo dục nhân
cách. Nhân cách là một trong những phẩm chất đạo đức của con người không phải
tự nhiên mà có, để hồn thiện nhân cách địi hỏi q trình hoạt động tích lũy kinh
nghiệm là rất quan trọng của từng cá nhân.
Nhân cách tốt và hoàn thiện sẽ giúp cho sinh viên nhận thức đúng và hành
động đúng theo những chuẩn mực của xã hội. Sinh viên là một tầng lớp xã hội, một
tổ chức xã hội quan trọng đối với mọi thể chế chính trị, là những người chủ tương
lai của đất nước sau này vì vậy cần rèn luyện cả đức và tài cho sinh viên.
1.1.3. Các kiểu nhân cách của sinh viên
Dựa trên cơ sở đo các định hướng giá trị, hứng thú, mục đích học tập của
sinh viên, các nhà nghiên cứu đưa ra cách phân kiểu khác nhau. Đáng chú ý là cách
phân loại của các nhà xã hội học Mĩ (G. Đavít Gottolit và B. Khotkinxto). Các tác
giả đã nghiên cứu thái độ của nam, nữ sinh viên đối với học tập và chia thành bốn
kiểu nhân cách (W,X,Y,Z).
- Kiểu “W”: Họ học tập để chuẩn bị nghề tương lai, không quan tâm đến
lĩnh vực tri thức xã hội của trường đại học, mặc dù có đơi khi tham gia vào đời
sống xã hội trường. Họ chỉ thực hiện các bài tập theo yêu cầu, chỉ cần đạt điểm
trung bình sao cho khỏi bị đúp. Ngoài sách bắt buộc, họ chỉ đọc những tài liệu theo
ý thích mà khơng có liên quan đến việc học. Họ học vì nghề nghiệp.
- Kiểu “X”: Những sinh viên này tìm tịi những mơn học mà họ coi là những
tri thức về cuộc sống nói chung trên cơ sở lựa chọn riêng của cá nhân. Họ rất quan
tâm đến thế giới tư tưởng và sách,... Họ đã nêu ra: việc học đại học để thỏa mãn
lòng khát khao tri thức và kinh nghiệm sống.
- Kiểu “Y”: Họ gần với loại X, họ cố gắng đạt điểm cao nhất trong các kỳ
thi. Họ tự nguyện tham gia vào các hội khác và việc tự quản của sinh viên. Họ coi
tập thể dù không phải lĩnh vực cơ bản nhưng cũng ảnh hưởng đến sự phát triển
chung của cá nhân họ.
- Kiểu “Z”: Họ chú ý đến các hình thức xã hội của trường đại học hơn bản
thân các khoa học. Học gắn bó với trường, tham gia và cố gắng trong các hoạt
động xã hội và thích hội họp, gặp gỡ [9, 89 - 90].
Vậy, việc nghiên cứu phân kiểu nhân cách của sinh viên có ý nghĩa lớn lao
trong việc giáo dục sinh viên đại học.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách cho sinh viên
1.2.1. Sinh viên và đặc điểm của sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị
1.2.1.1. Sinh viên
Thuật ngữ sinh viên có nguồn gốc từ tiếng Latinh Student có nghĩa là người
làm việc, học tập nhiệt tình, người tìm kiếm, khai thác tri thức. Nó dùng nghĩa
tương đương với student trong tiếng Anh, etudiant trong tiếng Pháp.
Thuật ngữ sinh viên đã xuất hiện từ lâu và được sử dụng chính thức vào thời
kỳ xuất hiện và phát triển các trung tâm giáo dục đại học tổng hợp trên thế giới như
trường Đại học Ooxxpho (Anh) năm 1168; Đại học Pari (Pháp) năm 1200, Đại học
Praha (Secxlovakia) năm 1348... [9, 57 - 58].
Sinh viên là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt đang chuẩn bị cho hoạt
động sản xuất vật chất hay tinh thần của xã hội. Nhóm xã hội đặc biệt gồm hàng
triệu sinh viên trên thế giới, nhóm này rất cơ động mà mục đích hoạt động của nó
được tổ chức theo một chương trình nhất định của việc chuẩn bị thực hiện vai trò
xã hội và nghề nghiệp cao trong lĩnh vực sản xuất vật chất và tinh thần. Nhóm xã
hội đặc biệt này có nguồn gốc bổ sung cho đội ngũ trí thức hoạt động học tập được
đào tạo cho lao động trí óc với nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào hoạt động
đa dạng có ích cho xã hội.
Sinh viên là con người thuộc một lứa tuổi nhất định và là một nhân cách nên
có thể được xác định về ba phương diện sinh lý, tâm lý và xã hội. Theo quy định
của trường Đại học thì lứa tuổi sinh viên hiện đại là từ 18 đến 23 tuổi nghĩa là nó
trùng hợp với giai đoạn thứ hai của tuổi thanh niên (từ 18 đến 25 tuổi) mà giai
đoạn thứ nhất của tuổi thanh niên từ 15 đến 17, 18 tuổi cịn là học sinh trường phổ
thơng. Đa số sinh viên khối một có độ tuổi dưới 20 tuổi. Điều này khác với sinh
viên nước ta sau năm 1975 có tuổi trung bình cao hơn do nhiều sinh viên từ quan
đội trở về học [9, 58].
Khi xem xét sinh viên ở bình diện nhân cách thì đó là giai đoạn quá độ của
việc hình thành nhân cách mà cận dưới của nó là sự chín muồi về sinh lý và cận
trên của nó là có nghề nghiệp ổn định và bắt đầu bước vào một phạm vi hoạt động
lao động. Nghiên cứu sinh viên ở góc độ ý thức thì đó là q trình hình thành thế
giới quan nắm vững các giá trị và các tiêu chuẩn về ý thức nghề nghiệp.
Khi xác định cấu trúc xã hội có giai cấp và các thành phần của nó thì phải
xuất phát từ những dấu hiệu cơ bản của giai cấp và nhóm xã hội mà dấu hiệu quan
trọng nhất là vị trí trong hệ thống nhất định của nền sản xuất. Giới sinh viên khơng
có vị trí độc lập trong các tổ chức lao động sản xuất của xã hội nên khơng phải là
một giai cấp. Vị trí thực của sinh viên trong xã hội chưa có mà cịn phụ thuộc vào
nhiều giai cấp, một tầng lớp nào đó, ở thành thị hay nơng thơn có sự khác biệt về
điều kiện sống, về hoàn cảnh xã hội. Theo kết quả nghiên cứu của B. G. Ananhev
thì: lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về tình cảm đạo đức và
thẩm mỹ, là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách. Đặc biệt là họ có vai trị xã
hội của người lớn.
Sinh viên có chức năng chủ yếu là bổ sung cho đội ngũ trí thức - là tầng lớp
có trình độ nghề nghiệp cao trong xã hội. Họ thực hiện tích cực vai trị là nguồn dự
trữ để bổ sung cho đội ngũ những chuyên gia theo các nhóm nghề khác nhau trong
cấu trúc của tầng lớp trí thức.
1.2.1.2. Đặc điểm của sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị
Sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị cũng giống với sinh viên các
ngành khác trong các trường đại học khác. Họ đều là những học sinh tốt
nghiệp trường trung học phổ thông và để được học trong mái trường đại học
những học sinh này đều phải trải qua kỳ thi đại học và sau khi đủ tiêu chuẩn họ
mới được nhập học.
Sinh viên chun ngành Giáo dục chính trị có một số đặc điểm sau:
Một trong những đặc điểm quan trọng là nhất của sinh viên là sự tự ý thức.
Đó là ý thức và sự tự đánh giá của mỗi sinh viên về hành động, tư tưởng tình cảm,
phong cách đạo đức, tư tưởng và động cơ của hành vi, sự đánh giá toàn diện về bản
thân, về vị trí của mình trong cuộc sống. Tự ý thức là dấu hiệu thiết kế nhân cách
được hình thức cùng với hình thành sau này. Một trong các thành phần có ý nghĩa
nhất tạo nên sự phát triển tự ý thức của sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị
là năng lực tự đánh giá. Tự đánh giá của nhân cách thể hiện ở thái độ đối với bản
thân và kết quả sự biểu hiện các thuộc tính nhân cách và năng lực trong hoạt động,
giao tiếp và tự giáo dục. Từ đó hình thành lịng tự tin, tự trọng phản ánh trạng thái
tâm lý đạo đức của sinh viên.
Đặc điểm thứ hai là định hướng giá trị của sinh viên. Đây là một trong
những yếu tố hình thành nên động cơ hoạt động của sinh viên. Đó là những giá trị
nhân cách, những giá trị nghề nghiệp mà sinh viên hướng tới. Mỗi sinh viên hiện
nay có định hướng đến các giá trị phát triển cái tôi, thể hiện nhu cầu tự khẳng định,
thái độ đối với bản thân, khả năng của bản thân phát triển khá cao.
Đặc điểm thứ ba là mỗi sinh viên đều có một kế hoạch đường đời và tự xác
định nghề nghiệp. Kế hoạch đường đời là một hoạt động vì nó được kết nối trước
tiên khi lựa chọn nghề nghiệp. Việc lựa chọn nghề nghiệp đối với sinh viên là thể
hiện trình độ đạo đức.
Đặc điểm thứ tư là sinh viên chuyên ngành giáo dục chính trị đều có chung
một nhu cầu học tập các mơn lý luận chính trị. Trong q trình học tập mỗi sinh
viên đều phải cố gắng tích lũy kiến thức những mơn chun ngành để sau này cịn
phụ vụ cho nhu cầu làm việc. Được học tập trong cùng một môi trường dưới sự
hướng dẫn, dạy bảo của các thầy, cơ giáo có kinh nghiệm và phẩm chất tốt. Cơ hội
tích lũy kiến thức là như nhau bởi sự truyền đạt kiến thức kỹ năng, kỹ sảo của thầy,
cô là như nhau, còn việc lĩnh hội đến đâu là phụ thuộc vào khả năng của bản thân
chủ thể nhận thức.
Đặc điểm cuối cùng là các sinh viên này đều có hạn chế trong giao tiếp,
thiếu năng động. Đây là một trong những yếu điểm của sinh viên, đòi hỏi phải có
sự nỗ lực của bản thân và sự uốn nắn của những người xung quanh.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách cho sinh viên
1.2.2.1. Nhân tố di truyền, bẩm sinh.
Tục ngữ ta có câu: “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”.
Hẳn đây là quan niệm dân gian đã có từ xa xưa để đánh giá vai trị vơ cùng
quan trọng của yếu tố di truyền, bẩm sinh có tính chất tiền định về “số phận, tích
cách” (nhân cách) của con người. Vậy nhân tố di truyền, bẩm sinh ảnh hưởng đến
sự hình thành nhân cách cho sinh viên như thế nào?
Trong thực tiễn cuộc sống, chúng ta dễ nhận thấy rằng người châu Âu da
trắng, mắt xanh, người châu Phi da đen, tóc xoăn thì con cái của họ ngay khi sinh
ra đã giống bố mẹ. Đây là sự truyền lại từ thế hệ cha mẹ cho con cái những đặc
trưng sinh học nhất định của nịi giống, được ghi lại trong một chương trình độc
đáo bởi hệ thống gen di truyền. Gen là vật mang di truyền những đặc điểm sinh
học của giống loài trong quá trình tồn tại, phát triển theo con đường tiến hóa tự
nhiên. Di truyền những đặc trưng sinh học của cha mẹ truyền lại cho con cái không
phải chỉ biểu hiện một cách hữu hiệu khi đứa bé mới sinh ra mà có thể có những
mầm mống, tư chất sau một thời gian mới bộc lộ thành dấu hiệu của một năng
khiếu như: Hội họa, thơ ca, toán học v.v... hoặc thiểu năng trong những lĩnh vực
cần thiết đối với cuộc sống cá nhân. Còn bẩm sinh là những thuộc tính, đặc điểm
sinh học có ngay khi đứa trẻ mới sinh. Chương trình mang tính di truyền về sự phát
triển con người bao gồm cấu trúc, giải phẫu cơ thể, và những đặc điểm sinh học
riêng như màu da, màu tóc, vóc dáng, thể trạng, các tư chất của hệ thần kinh v.v...
Trước hết, nó đảm bảo cho con người phát triển đồng thời cũng giúp cho cơ thể
con người thích ứng được với những biến đổi của các điều kiện sinh tồn.
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định rằng những mầm mống, tư chất để phát
triển thành năng lực và phẩm chất về một lĩnh vực hoạt động nào đó: Tốn học,
văn học, nghệ thuật, kiến trúc... mang tính bẩm sinh, di truyền phản ánh sự kế thừa
tài năng. Điều này thể hiện ở một số gia đình, xuất hiện liên tục người tài trong các
thế hệ nối tiếp nhau. Tuy nhiên di truyền, bẩm sinh chỉ là tiền đề vật chất (mầm
mống) của sự phát triển tâm lý, nhân cách. Nó nói lên chiều hướng, tốc độ, nhịp độ
của sự phát triển. Những đứa trẻ có gen di truyền về một lĩnh vực hoạt động nào đó
sẽ sớm bộc lộ thiên hướng về lĩnh vực hoạt động đó. Song để trở thành một tài
năng cần phải có mơi trường thuận lợi và sự hoạt động tích cực của cá nhân.
Trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ, đặc biệt là lứa tuổi sinh viên, chúng ta
cần quan tâm đứng mức yếu tố di truyền, bẩm sinh đó là những mầm mống, tư chất
sinh học có vai trị tiền đề phát triển một số phẩm chất, năng lực của nhân cách. Tất
nhiên, nếu chúng ta quá coi nhẹ hoặc tuyệt đối hóa, đánh giá cao nhân tố di truyền
sinh học thì sẽ vi phạm sai lầm khi phân tích, so sánh, đánh giá vị trí, vai trị, tác
động của mơi trường, hồn cảnh của giáo dục đối với q trình hình thành và phát
triển nhân cách.
1.2.2.2. Nhân tố nhà trường
Nhà trường là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành
và phát triển nhân cách của sinh viên. Nhà trường không đơn giản chỉ là nơi truyền
đạt kiến thức cho đối tượng được giáo dục, đây còn là nơi để bản thân mỗi sinh
viên học hỏi cả về kiến thức và đạo đức. Môi trường nhà trường là một môi trường
thuận lợi để mỗi sinh viên rèn luyện để ngày càng hoàn thiện nhân cách hơn theo
những yêu cầu của xã hội.
Trong nhà trường, người giảng viên sử dụng phương pháp, phương tiện, nội
dung giảng dạy được lựa chọn, tổ chức một cách khoa học nhất giúp cho mọi cá
nhân chiếm lĩnh được những kinh nghiệm, những giá trị xã hội của nhân loại bằng
con đường ngắn nhất.
1.2.2.3. Nhân tố gia đình
Những nghiên cứu về nhân cách trong tâm lý học cho thấy, định hướng
giá trị nhân cách của sinh viên, nằm trong cấu trúc của xu hướng nhân cách.
Nó chịu ảnh hưởng của những yếu tố tâm lý cá nhân, tâm lý xã hội và các yếu tố
xã hội khác. Song mỗi yếu tố có sự ảnh hưởng ở mức độ mạnh yếu khác nhau.
Trong số các yếu tố này thì yếu tố gia đình có mức độ ảnh hưởng và tác động
mạnh nhất đến giáo dục nhân cách của sinh viên.
Gia đình ảnh hưởng đến giáo dục nhân cách của sinh viên ở những khía
cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, gia đình là nơi diễn ra những mối quan hệ xã hội đầu tiên của con
người. Những mối quan hệ trực tiếp giữa các thành viên trong xã hội, những người
con với cha mẹ của mình là những tác động qua lại diễn ra thường xuyên trong
cuộc sống hàng ngày. Đa phần khi trở thành sinh viên thì tác động qua lại trong gia
đình giảm đi do những sinh viên phải lên thành phố hay ở trọ, phải xa nhà để học
tập. Trong gia đình của mình những sinh viên nhận được những kinh nghiệm và kỹ
năng sống đầu tiên ngay từ khi còn nhỏ. Hầu như những sinh viên đều lấy bố mẹ,
ông bà hay anh chị mình làm biểu tượng, hình mẫu cho sự phấn đấu và hồn thiện
nhân cách của mình.
Tuy nhiên, do hồn cảnh mà dường như bố mẹ và những người lớn trong gia
đình ít dành thời gian dạy những kỹ năng sống cần thiết ngay từ khi còn bé, ngay
cả những kỹ năng tự chăm sóc và phục vụ bản thân mình. Với thực trạng hiện nay
rất nhiều sinh viên ở các thành phố, con nhà giàu bị thiếu hụt những kỹ năng sống
cơ bản và cần thiết, những sinh viên này không biết làm bất cứ một công việc nào
cho dù là những công việc tự phục vụ nhu cầu của bản thân hay những công việc
nhà đơn giản mà đáng lẽ ra ở lứa tuổi này họ bắt buộc phải biết làm để chuẩn bị
cho bản thân những kỹ năng sống cần thiết khi chuẩn bị một cuộc sống độc lập của
những người trưởng thành. Điều này có ảnh hưởng rất nhiều đến sự khẳng định cái
tôi độc lập của các sinh viên.
Thứ hai, các hình thức giáo dục con cái trong gia đình có ảnh hưởng trực
tiếp đến định hướng giá trị nhân cách của sinh viên. Nếu trong một gia đình ln
biết cách dạy bảo, nhắc nhở, phê bình hay khen thưởng thì sẽ giúp ích rất lớn trong
việc hồn thiện nhân cách. Ngược lại, nếu bố mẹ thường xuyên sử dụng các hình
thức giáo dục ít tính tích cực hơn trong q trình dạy con ở gia đình như: khơng
bao giờ trách phạt khi mắc lỗi; không bao giờ động viên, khen thưởng các em khi
các em đạt được điểm tốt hay làm được cơng việc có ích; một số em còn được giáo
dục theo cách “yêu cho roi, cho vọt...”; ít dành thời gian quan tâm đến con sẽ gây
ảnh hưởng trên con đường hình thành nhân cách của sinh viên.
Như vậy, nếu được sống trong gia đình mà cha mẹ có những biện pháp giáo
dục thiếu khoa học (bạo lực, độc đoán, lạnh lùng, thiếu sâu sát, quan tâm...), gia
đình mà cha mẹ có những hành vi lệch chuẩn thì việc phát triển nhân cách của các
sinh viên sẽ phát triển lệch lạc.
Trong các mơ hình gia đình, mơ hình gia đình trí thức, bố mẹ có trình độ học
vấn, có văn hố, gia đình hồ thuận, đầm ấm và hạnh phúc và đặc biệt gia đình là
nơi để các con cảm thấy thật sự an toàn khi sống ở đó sẽ có ảnh hưởng một cách
tích cực đến hình thành nhân cách của các sinh viên. Họ sẽ có định hướng giá trị
nhân cách đúng đắn theo sự định hướng của bố mẹ và phát triển nhân cách của
mình đúng với mong muốn của xã hội. Tuy nhiên, một số trường hợp ngoại lệ là
nhưng sinh viên được sống trong gia đình rất thuận lợi cho sự hình thành và phát
triển nhân cách, song họ vẫn có định hướng giá trị nhân cách lệch lạc, không đúng
theo mong muốn của gia đình và xã hội. Một số sinh viên phải sống trong mơi
trường gia đình khó khăn về kinh tế, bố mẹ thiếu trình độ văn hố, khơng có hình
thức giáo dục con cái tích cực song vẫn trở thành học sinh ngoan, học giỏi, do sự
tự học hỏi, sự nỗ lực và ý chí quyết tâm cao của bản thân.
Như vậy, gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến việc giáo dục nhân cách, trước
hết là nhân cách của bố mẹ, anh chị em, cách thức giáo dục và chăm sóc của bố
mẹ, lối sống của gia đình. Do vậy, việc xây dựng một lối sống, sự quan tâm đúng
mực của gia đình và sự gương mẫu của bố mẹ là điều kiện cần thiết để hình thành
định hướng giá trị nhân cách đúng đắn của các em. Gia đình cần kết hợp với
nhà trường, xã hội trong việc giáo dục nhân cách cho các sinh viên, không nên phó
mặc trách nhiệm giáo dục nhân cách của con em mình cho nhà trường và xã hội.
1.2.2.4. Hoạt động và giao tiếp
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là con đường quyết định
trực tiếp sự hình thành nhân cách. Thông qua hoạt động sinh viên lĩnh hội tri thức,
kinh nghiệm xã hội – lịch sử để hình thành nhân cách. Trong quãng thời gian là
sinh viên thì hoạt động học tập là hoạt động chủ yếu, bên cạnh đó cịn rất nhiều các
hoạt động khác như: hoạt động xã hội, hoạt động vui chơi, giải trí... Mỗi loại hoạt
động đều đề ra cho con người những yêu cầu nhất định, đòi hỏi ở sinh viên cần
phải có những phẩm chất nhất định. Khi tích cực tham gia vào các hoạt động sinh
viên sẽ hình thành nên những phẩm chất đó.
Qua hoạt động sinh viên chuyển hóa phẩm chất, năng lực của mình thành
sản phẩm của hoạt động. Nhờ có hoạt động của sinh viên mà tác động của nhà giáo
dục có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức mới trở nên có hiệu quả. Cho nên chỉ khi
nào cá nhân nhận thức được ý nghĩa của hoạt động đa dạng bao nhiêu thì nhân
cách của sinh viên càng phát triển và hoàn thiện bấy nhiêu.
Hoạt động quyết định trực tiếp tới sự hình thành và phát triển nhân cách của sinh
viên, nên cá nhân càng tích cực, tự giác tham gia vào các dạng hoạt động đa dạng bao
nhiêu thì nhân cách càng phát triển và hồn thiện bấy nhiêu. Đồng thời, sự hình thành
và phát triển nhân cách của sinh viên phuc thuộc vào hoạt động chủ đạo ở mỗi thời kỳ
nhất định. Để hình thành nhân cách, cá nhân phải tham gia vào các hoạt động khác
nhau, trong đó đặc biệt chú ý đến vai trò của hoạt động chủ đạo.
Hoạt động của con người ln mang tính xã hội, tính cộng đồng nghĩa là
hoạt động ln đi với giao tiếp. Do đó cùng với hoạt động, giao tiếp cũng là con
đường quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách. Giao tiếp có
ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại của xã hội, không có xã hội nếu khơng có
giao tiếp. Đối với cá nhân nói chung và sinh viên nói riêng, giao tiếp là điều kiện
tồn tại và là một nhân tố phát triển nhân cách. Nếu sinh viên mà khơng có giao tiếp
hoặc giao tiếp quá nghèo nàn, hạn chế thì nhân cách khơng thể hình thành, phát
triển được. Giao tiếp giúp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội
nền văn hóa xã hội, chuẩn mực xã hội để hình thành và phát triển nhân cách của
mình. Đồng thời qua giao tiếp, sinh viên sẽ đóng góp tài lực của mình vào kho tàng
văn hóa chung. Qua giao tiếp, sinh viên sẽ nhận thức được mình, đối chiếu so sánh
mình với người khác, với các chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân mình như
một nhân cách để hình thành độ giá trị - xúc cảm nhất định đối với bản thân mình.
Như vậy, giao tiếp đã giữ vai trò quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát
triển nhân cách của từng cá nhân sinh viên.
Chương 2. Những giải pháp cơ bản nhằm giáo dục nhân cách
cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị
trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Để đưa ra những giải pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên chuyên ngành
Giáo dục chính trị trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền, trước hết chúng ta có
thể hình dung sự phát triển nhân cách của sinh viên trong mái trường Đại học bao
gồm những giai đoạn khác nhau:
Vào năm thứ nhất, người sinh viên chưa có những phẩm chất nghề nghiệp
thuộc một ngành nhất định. Họ là con em thuộc các dân tộc, các tầng lớp xã hội
khác nhau ở nông thôn và thành thị. Do đó, các yếu tố bẩm sinh di truyền đã được
biến đổi dưới ảnh hưởng của giáo dục gia đình, của trường phổ thông, của các
phong tục tập quán địa phương và những điều kiện sống, sinh hoạt của gia đinh và
xã hội. Vào trường đại học, họ đã có một số phẩm chất tương đối ổn định đại biểu
cho lối sống của tầng lớp, giai cấp và của địa phương mình. Cho nên, trong tập thể
sinh viên thường có va chạm mạnh do tính độc đáo của nhân cách con người trẻ.
Đến năm thứ hai, sinh viên đã quen với hầu hết các hình thức giảng dạy
và giáo dục ở đại học. Q trình thích ứng đối với hoạt động học tập về cơ
bản đã hồn thành. Do tích lũy được tri thức chung mà nhu cầu văn hóa rộng
rãi được hình thành.
Bước sang năm thứ ba, hứng thú hoạt động khoa học và học tập chuyên môn
được phát triển theo chiều hẹp và sâu của ngành nghề đã chọn. Những phẩm chất
có liên quan và phù hợp với nghề nghiệp tương lai được phát triển mạnh.
Chuyển sang những năm cuối (năm thứ tư, thứ năm), sinh viên thực sự tập
hợp làm những công việc của người chuyên gia khi đi thực tập ở các cơ sở thuộc
lĩnh vực nghề nghiệp của mình. Hiệu quả đào tạo thể hiện rõ ở người sinh viên sắp
ra trường. Toàn bộ nhân cách của họ phát triển sát với mục tiêu đào tạo và gần mẫu
người chuyên gia thuộc một ngành nghề nhất định. Nhân cách được bộc lộ, hình
thành và phát triển trong hoạt động.
Dựa vào căn cứ trên, tác giả xin trình bày một số giải pháp giáo dục nhân
cách cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị của trường Học viện Báo chí
và Tun truyền.
2.1. Hình thành mơi trường xã hội tích cực trong việc giáo dục nhân cách
cho sinh viên chun ngành Giáo dục chính trị
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Ở bầu thì trịn, ở ống thì dài”. Mạnh Tử (372 –
289 TCN) nhà giáo dục nổi tiếng Trung Hoa cổ đại khẳng định rằng: “Nơi ở làm
thay đổi tính nết, việc ăn uống làm thay đổi cơ thể. Nơi ở quan trọng lắm thay”. Rõ
ràng quan niệm dân gian cũng như tư tưởng của nhiều nhà giáo dục từ xưa đã
khẳng định “nơi ở” hiểu theo nghĩa rộng là mơi trường, hồn cảnh có tác động hầu
như là quyết định đến việc hình thành nhân cách con người.
Mơi trường là toàn bộ các yếu tố tự nhiên và xã hội hiện hữu ảnh hưởng lớn
lao đến đời sống và nhân cách con người nói chung và sinh viên nói riêng. Mơi
trường bao gồm mơi trường tự nhiên và mơi trường xã hội. Mơi trường xã hội, đó
là điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa v.v...
Hồn cảnh được biểu hiện là một yếu tố hoặc là một môi trường nhỏ hợp
thành của môi trường lớn, môi trường nhỏ tác động trực tiếp, mạnh mẽ, quyết liệt
trong một thời gian, khơng gian nhất định tạo nên hướng hình thành và phát triển
nhân cách, ví dụ hồn cảnh kinh tế khó khăn, hồn cảnh bệnh tật, ốm đau v.v...
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách thì mơi trường xã hội (trong đó
có gia đình, bạn bè, tập thể lớp, trường v.v...) thông qua các mối quan hệ vơ cùng
phong phú có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Trên thế giới có khoảng hơn hai mươi trường hợp những đứa trẻ mới sinh
không may bị lạc vào rừng và được thú rừng ni, sau đó may mắn quay lại với xã
hội loài người nhưng đều chất yểu sau khi trở thành con người thực thụ [3]. Do đó chỉ
có sống trong quan hệ xã hội mới có thể hình thành và phát triển được nhân cách.
Mỗi một con người ngay từ khi mới sinh ra đã phải sống trong một mơi
trường, hồn cảnh nhất định, có thể gặp thuận lợi hoặc khó khăn đối với quá trình
phát triển thể chất, tinh thần của cá nhân. Môi trường xã hội với với các điều kiện
kinh tế, thể chế chính trị, hệ thống pháp luật, truyền thống văn hóa, chuẩn mực đạo
đức, v.v... Đã tác động mạnh mẽ đến quá trình hình thành và phát triển động cơ,
mục đích, quan điểm, tình cảm, nhu cầu, hứng thú, v.v... chiều hướng phát triển
của cá nhân. Thông qua hoạt động và giao lưu trong môi trường mà cá nhân chiếm
lĩnh được các kinh nghiệm, giá trị xã hội loài người, từng bước điều chỉnh, hồn
thiện nhân cách của mình.
Tác động của môi trường xã hội đối với sự phát triển của cá nhân là vô cùng
mạnh mẽ, phức tạp, có thể rất tốt hoặc rất xấu, có thể cùng chiều hay ngược chiều,
chủ yếu là theo con đường tự phát. Nó có mức độ ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực
như thế nào, có được chấp nhận hay khơng trong quá trình phát triển nhân cách tùy
thuộc phần lớn vào trình độ được giáo dục, đó là ý thức, niềm tin, lý tưởng, quan
điểm, ý chí và xu hướng, năng lực hoạt động, giao lưu cải biến môi trường cá nhân.
Chính vì vậy, C.Mác đã khẳng định: Hồn cảnh sáng tạo ra con người, trong một
mức độ con người lại sáng tạo ra hồn cảnh.
Con người ln là một chủ thể có ý thức, tùy theo lứa tuổi và trình độ được
giáo dục chứ khơng hồn tồn bị động bởi những tác động xấu của môi trường xã
hội làm biến đổi nhân cách tốt đẹp của mình. Ca dao, tục ngữ của ta cũng đã có câu
ca ngợi những con người có khi phải sống trong những mơi trường, hồn cảnh thấp
kém nhưng phẩm chất nhân cách vẫn khơng hề hoen ố: “Gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn”.
Ngay cả khi con người sống trong mơi trường hồn cảnh gia đình, nhưng nhân
cách của họ phát triển phát triển theo hướng khác nhau. Như vậy, trong sự tác động qua
lại giữa nhân cách và môi trường xã hội cần chú ý đến hai mặt của vấn đề:
Thứ nhất, là tính chất tác động của mơi trường hồn cảnh vào q trình phát
triển nhân cách.
Thứ hai, là tính tích cực của nhân cách tác động vào mơi trường, hồn cảnh
nhằm điều chỉnh, cải tạo nó phục vụ nhu cầu, lợi ích của mình.
Có thể khẳng định ảnh hưởng to lớn của yếu tố môi trường đến quá trình
hình thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên, nếu tuyệt đối hóa của vai trị mơi
trường xã hội là phủ nhận vai trò của ý thức, sáng tạo của chủ thể, đó là sai lầm về
nhận thức luận.
2.2. Mơi trường gia đình
Bất cứ cá nhân hay một sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị của
trường Học viện Báo chí và Tuyên truyền nào cũng được sinh ra và lớn lên trong
một gia đình. Gia đình bao gồm những người sống chung dưới một mái nhà, ăn
chung một bếp, có lợi ích kinh tế chung và có trách nhiệm với nhau trong cuộc
sống. Gia đình vừa là nơi đáp ứng nhu cầu riêng tư vừa thực hiện chức năng phát
triển nịi giống và là trường học đầu tiên hình thành, phát triển nhân cách con
người. Tuy vậy, quá trình trưởng thành và hình thành nhân cách của mỗi người là
khác nhau, ngay cả với anh em trong một nhà.
Nhân cách con người bắt đầu hình thành từ lúc cịn nằm trong bụng mẹ
cho đến khi trưởng thành vẫn chưa dừng lại. Lứa tuổi ấu thơ là giai đoạn quan
trọng trong quá trình hình thành nhân cách của trẻ. Nhân cách mặc dù chưa
được thể hiện rõ ràng nhưng thông qua hành vi bắt trước hành động của người
lớn trẻ em bắt đầu thâu nhận tất cả các tương tác nhân – sinh – quan để hình
thành nhân cách của mình.
Trong mỗi gia đình vai trị của bố mẹ có vị trí quan trọng. Theo truyền thống
Việt Nam, đàn ơng thường là chủ của gia đình. Người cha là trụ cột, là biểu hiện
của nhân cách văn hóa cao đẹp nhất để con cái học tập và noi theo. Còn người mẹ
là chỗ dựa, là hạt nhân tâm lý chủ đạo, ngọn lửa sưởi ấm yêu thương trong gia