PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đã và đang phát triển nền kinh tế thị trường, với các chính sách kinh tế mở
và chiến lược tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế thị trường đã, đang và sẽ
đặt nền kinh tế nước ta nói chung và các doanh nghiệp nói riêng đối diện với những thách
thức, khó khăn trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt mang tính quốc tế nhằm giành giật
khách hàng và mở rộng thị trường ngay trong nước cũng như thế giới. Trong nền kinh tế thị
trường, một khi không còn sự bảo hộ của nhà nước, các doanh nghiệp trong nước phải tự
điều hành quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả để có thể đứng
vững trên thị trường và ngày càng phát triển. Mặt khác mục tiêu quan trọng nhất mà tất cả
các doanh nghiệp đều hướng tới là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bởi nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều kiện sống còn của doanh nghiệp, đồng thời nó tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp sử dụng nguồn lực hợp lý cũng như thúc đẩy việc áp dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh và sản
xuất vật liệu xây dựng trong điều kiện kinh tế thị trường có nhiều biến đổi phải thể hiện
được vai trò tiên phong của mình trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới.
Là một doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu và cung ứng các sản phẩm xi măng,
clinker Công ty cổ phần (CTCP) xi măng Bỉm Sơn đang đứng trước những cơ hội và
thách thức to lớn trên thị trường. Theo kế hoạch đã được phê duyệt, đầu năm 2007 Công
ty đã khởi công xây dựng dây chuyền sử dụng công nghệ sản xuất xi măng bằng lò quay
bằng phương pháp khô với thiết bị tiên tiến, hiện đại, đảm bảo các chỉ tiêu về kỹ thuật,
môi trường, với công suất thiết kế 2 triệu tấn xi măng/năm, khi dây chuyền mới đi vào
vận hành, sẽ cho ra sản phẩm, nâng công suất của toàn Công ty lên 3,8 triệu tấn/năm, trở
thành Công ty có sản lượng lớn nhất trong Tổng Công ty Công nghiệp xi măng Việt
Nam. Do đó, vấn đề hiệu quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa vô cùng thiết thực và quan
trọng, luôn được tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty đặt lên hàng đầu, là mục
tiêu quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Vì vậy, Công ty luôn nỗ lực
nghiên cứu điều chỉnh phương hướng hoạt động của mình, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm,
sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất, nắm bắt được các nhân tố ảnh hưởng cùng mức
độ và xu hướng tác động của từng yếu tố đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh
để từ đó có các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
Qua quá trình học tập nghiên cứu ở Trường Đại Học Kinh Tế Huế, nay được về
thực tập tại CTCP xi măng Bỉm Sơn tôi đã chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh tại Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn” làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát của đề tài là trên cơ sở phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất
kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai đoạn 2007- 2009, đề xuất định hướng và các
giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu quả sản xuất kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn
trong thời gian tới.
Các mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
- Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động SXKD, phân tích các
nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn qua 3 năm
2007 - 2009.
- Đề xuất định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả SXKD của
CTCP xi măng Bỉm Sơn trong thời gian tới.
- Đồng thời có thể đúc kết kinh nghiệm cho bản thân qua quá trình làm việc học hỏi,
nghiên cứu tại Công ty.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: là các vấn đề liên quan đến hiệu quả SXKD của CTCP
Xi măng Bỉm Sơn.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh, yếu tố vĩ mô - vi mô,
điểm mạnh - điểm yếu, những cơ hội và đe doạ của Công ty. Qua đó, đánh giá hiệu quả
SXKD của Công ty.
+ Về không gian: luận văn nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh tại CTCP
Xi măng Bỉm Sơn.
+ Về thời gian: Đánh giá hiệu quả kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn trong
khoảng thời gian 2007-2009, định hướng và xây dựng giải pháp đề xuất cho các năm
2010 - 2015.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, năng lực và trình độ còn hạn chế, vì vậy đề tài
không tránh khỏi những sai sót. Kính mong sự góp ý, giúp đỡ của các thầy, các cô để đề
tài được hoàn thiện hơn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Phương pháp duy vật biện chứng
Thu thập số liệu thứ cấp
Để đánh giá tình hình kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm Sơn tôi tham khảo số
liệu từ các nguồn khác nhau như internet, các tài liệu đã công bố của CTCP xi măng
Bỉm Sơn qua các năm (báo cáo tổng kết, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo quyết toán
của Công ty). Ngoài ra, các báo cáo khoa học, luận văn cũng đã được sử dụng làm
nguồn tài liệu tham khảo và kế thừa một cách hợp lý trong quá trình thực hiện luận văn.
Phân tích thống kê
Trên cơ sở tài liệu đã được tổng hợp, vận dụng các phương pháp phân tích thống
kê như số tương đối, số tuyệt đối, số bình quân, phương pháp so sánh, để phân tích kết
quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty qua các năm. Phương pháp chỉ số,
phương pháp thay thế liên hoàn để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu, năng
suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động qua các năm.
PHẦN 2:
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH
DOANH
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.1.1 Khái niệm
Nền kinh tế của mỗi nước được phát triển theo hai chiều: chiều rộng và chiều
sâu. Phát triển kinh tế theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng
thêm vốn, bổ sung lao động và kỹ thuật, mở mang thêm nhiều ngành nghề, xây dựng
thêm nhiều xí nghiệp, tạo ra nhiều mặt hàng mới…Còn phát triển theo chiều sâu là đẩy
mạnh cách mạng khoa học và công nghệ sản xuất, tiến nhanh lên hiện đại hoá, tăng
cường chuyên môn hoá và hợp tác hoá, nâng cao cường độ sử dụng các nguồn lực, chú
trọng việc sử dụng các nguồn lực, chú trọng chất lượng sản phẩm dịch vụ. Phát triển
kinh tế theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình từ
sản xuất đến tiêu thụ hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp chính là hiệu quả
kinh doanh vì nó là điều kiện để doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển, đạt được lợi
nhuận tối đa. Vì vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh phải
đề ra các phương án và các giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một nhiệm vụ quan trọng đối
với mọi doanh nghiệp, và muốn nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đòi hỏi các
doanh nghiệp phải sử dụng tốt các yếu tố đầu vào như: lao động, vật tư máy móc thiết
bị, vốn và thu được nhiều kết quả của đầu ra.
Để hiểu rõ khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, ta xem xét các quan
niệm đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh:
- Về thời gian: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải là hiệu quả
đạt được trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, và trong cả quá trình không giảm sút.
- Về mặt không gian: Hiệu quả SXKD được coi là đạt được khi toàn bộ hoạt
động của các bộ phận, các đơn vị đều mang lại hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh
chung và trở thành mục tiêu phấn đấu của toàn công ty.
- Về mặt định lượng: Hiệu quả SXKD biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu
được và chi phí bỏ ra để sản xuất kinh doanh, hiệu quả sản xuất kinh doanh chỉ đạt được
khi kết quả cao hơn chi phí bỏ ra, và khoảng cách này càng lớn thì hiệu quả đạt được
càng cao và ngược lại.
- Về mặt định tính: Hiệu quả SXKD không chỉ biểu hiện bằng các con số cụ thể
mà thể hiện trình độ năng lực quản lý các nguồn lực, các ngành sản xuất, phù hợp với
phương thức kinh doanh, chiến lược và kế hoạch kinh doanh.
- Ngoài ra, còn biểu hiện về mặt xã hội, Hiệu quả sản xuất kinh doanh phản ánh
qua địa vị, uy tín các doanh nghiệp trên thị trường, vấn đề môi trường, tạo ra công ăn
việc làm cho người lao động, giải quyết thất nghiệp.
Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một phạm trù kinh
tế, biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai
thác và sử dụng các nguồn lực trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện các mục tiêu
kinh doanh của doanh nghiệp để đạt được hiệu quả cao nhất hay thu được lợi nhuận lớn
nhất với chi phí thấp nhất. Nó phản ánh mối quan hệ giữa kết quả thu được so với chi
phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó trong từng thời kỳ.
1.1.1.2 Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh
Thực chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh và tiết kiệm chi phí các nguồn lực
đó để đạt được mục đích sản xuất kinh doanh. Đó là hai mặt của vấn đề đánh giá hiệu
quả. Do vậy, có thể hiểu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là đạt được kết
quả kinh tế tối đa với chi phí nhất định.
Nói cách khác, bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất
lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội, đóng góp vào sự phát triển của doanh
nghiệp nói riêng và của xã hội nói chung. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của
vấn đề hiệu quả SXKD gắn liền với hai quy luật tương ứng của nền sản xuất xã hội là
quy luật năng suất lao động và quy luật tiết kiệm thời gian. Chính việc khan hiếm nguồn
lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng
tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn
lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại phát huy
năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm chi phí.
Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi
phí tối thiểu. Nói một cách tổng quát, hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh trình độ
và năng lực quản lý, đảm bảo thực hịên có kết quả cao những nhiệm vụ kinh tế - xã hội
đặt ra với chi phí thâp nhất.
1.1.1.3 Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là một tất yếu khách quan
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, nâng cao hiệu quả SXKD là một vấn đề
quan trọng, là một tất yếu khách quan đối với mọi doanh nghiệp, đồng thời nó cũng góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế nền sản xuất xã hội. Và xét về phương diện mỗi quốc
gia thì hiệu quả SXKD là cơ sở để phát triển để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc
hậu. Vì vậy nó không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp mà còn là
mối quan tâm của toàn xã hội, bởi vì các lý do sau:
- Xuất phát từ sự khan hiếm các nguồn lực làm cho điều kiện phát triển sản xuất
theo chiều rộng bị hạn chế do đó phát triển theo chiều sâu là một tất yếu khách quan.
Nâng cao hiệu quả SXKD là một hướng phát triển kinh tế theo chiều sâu nhằm sử dụng
các nguồn lực một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
- Để có thể thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp phải đảm bảo thu được kết quả đủ bù đắp chi phí và có lợi nhuận. Đối
với các doanh nghiệp thì hiệu quả SXKD xét về số tuyệt đối chính là lợi nhuận, do đó
việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở để giảm chi phí, tăng lợi nhuận.
- Thị trường càng phát triển thì sự cạnh tranh của các doanh nghiệp ngày càng
khốc liệt, để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh như vậy buộc các
doanh nghiệp phải tìm mọi cách nâng cao hiệu quả SXKD nhằm chiếm được ưu thế
trong cạnh tranh trên thị trường.
- Trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang trên đường hội nhập với các nước
trong khu vực và thế giới, sự yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam đang buộc họ
đứng trước những sức ép to lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài. Nâng cao hiệu quả
SXKD hiện nay gắn liền với sự sống còn của các doanh nghiệp.
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là cơ sở để nâng cao thu nhập cho chủ
sở hữu và cho người lao động trong doanh nghiệp, trên cơ sở đó góp phần nâng cao mức
sống của người dân nói chung.
Như vậy, nâng cao hiệu quả SXKD vừa là điều kiện sống còn của doanh nghiệp,
vừa có ý nghĩa thiết thực đối với nền kinh tế, là tiền đề cho sự phát triển đất nước trong
công cuộc đổi mới hiện nay, là một tất yếu khách quan vì lợi ích của doanh nghiệp và
của toàn xã hội.
1.1.1.4 Mối quan hệ giữa hiệu quả sản xuất kinh doanh và kết quả sản xuất kinh
doanh
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì kết quả và hiệu quả SXKD của
doanh nghiệp là đồng nhất với nhau. Vì doanh nghiệp chỉ tập trung hoàn thành chỉ tiêu
cấp trên giao, nếu hoàn thành vượt chỉ tiêu thì doanh nghiệp được đánh giá là hoạt động
có hiệu quả. Cách đánh giá này chỉ cho ta thấy được mức độ chênh lệch giữa đầu ra và
đầu vào của quá trình sản xuất, chưa phản ánh các yếu tố nguồn lực được sử dụng như
thế nào.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta không chỉ quan tâm đến kết quả
SXKD mà còn quan tâm đến hiệu quả SXKD. Vì chỉ tiêu kết quả chưa nói lên được
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ta phải biết để đạt được kết quả đó thì doanh nghiệp
đã phải bỏ ra bao nhiêu chi phí, hiệu quả sử dụng các nguồn lực sản xuất kinh doanh và
tiết kiệm được chi phí đầu vào như thế nào thì mới đánh giá được doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là thước đo chất lượng hoạt động sản xuất
kinh doanh, phản ánh trình độ tổ chức, quản lý sản xuất và là vấn đề sống còn đối với tất
cả các doanh nghiệp.
Hiệu quả SXKD không chỉ đánh giá trình độ sử dụng tổng hợp các nguồn lực
đầu vào trong phạm vi doanh nghiệp mà còn nói lên trình độ sử dụng từng nguồn lực
trong từng bộ phận cấu thành của doanh nghiệp, kết quả càng cao và chi phí bỏ ra càng
thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao.
Giữa kết quả và hiệu quả có mối quan hệ mật thiết với nhau. Kết quả thu được
phải là kết quả tốt, có ích, nó có thể là một đại lượng vật chất được tạo ra do có chi phí
hay mức độ thoả mãn của nhu cầu và có phạm vi xác định. Hiệu quả SXKD trước hết là
một đại lượng so sánh giữa đầu ra và đầu vào, so sánh giữa chi phí kinh doanh với kết
quả thu được. Như vậy, kết quả và chi phí là hai giai đoạn của một quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí là tiền đề để thực hiện kết quả đặt ra.
1.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản suất kinh doanh
Trong thời kỳ đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển theo cơ chế thị trường
cùng với sự cạnh tranh gay gắt để tồn tại và phát triển được đòi hỏi các doanh nghiệp
phải tiến hành SXKD có hiệu quả. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp phải xác
định được các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ trong đầu tư, đề ra các giải pháp quản
lý và sử dụng các nguồn lực vốn có. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tiến hành phân
tích các nhân tố ảnh hưởng cũng như mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố
đến kết quả, hiệu quả kinh doanh..
Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp gồm có: môi trường vĩ mô và môi
trường vi mô. Môi trường vĩ mô gồm những lực lượng trên bình diện xã hội rộng lớn có
ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp như các yếu tố kinh tế, xã
hội,chính trị, tự nhiên và kỹ thuật. Môi trường vi mô bao gồm những lực lượng có ảnh
hưởng trực tiếp đến doanh nghiệp như nhà cung ứng, khách hàng, đối thủ cạnh tranh và
công chúng trực tiếp. Phân tích môi trường kinh doanh giúp cho doanh nghiệp thấy
được mình đang trực diện với những gì từ đó xác định được chiến lược kinh doanh phù
hợp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1.2.1 Những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô
* Yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế có vai trò quan trọng quyết định đối với việc hình thành và
hoàn thiện môi trường kinh doanh, đồng thời các yếu tố này cũng góp phần quyết định
năng suất sản xuất, khoa học công nghệ, khả năng thích ứng của doanh nghiệp. Nó có
thể trở thành cơ hội hay nguy cơ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Các yếu tố kinh tế bao gồm: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất ngân
hàng, các chính sách kinh tế của nhà nước…Chúng không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả
SXKD của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới môi trường vi mô của doanh nghiệp.
Trong thời đại nền kinh tế mở cửa, tư do cạnh tranh như hiện nay đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp phải có vị thế nhất định đảm bảo chống lại những tác động tiêu cực từ môi
trường, mặt khác các yếu tố kinh tế tương đối rộng nên các doanh nghiệp cần chọn lọc
để nhận biết các tác động cụ thể ảnh hưởng trực tiếp nhất đến doanh nghiệp từ đó có các
giải pháp hạn chế những tác động xấu.
* Yếu tố chính trị, pháp luật
Nhà nước có thể chế chính trị, hệ thống luật pháp rõ ràng, đúng đắn và ổn định sẽ
là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước hoạt động
SXKD và thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động
SXKD theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nhà nước đóng vai trò điều
hành quản lý nền kinh tế thông qua các công cụ vĩ mô như: pháp luật, chính sách thuế,
tài chính…cơ chế chính sách của nhà nước có vai trò quyết định trong việc thúc đẩy hay
kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nói chung và ngành sản xuất xi măng nói riêng.
* Yếu tố công nghệ
Khoa học- công nghệ là yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển giá cả và chất lượng có ý nghĩa
ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay công cụ cạnh tranh đã
chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản
phẩm và dịch vụ có hàm lượng KHCN cao.
Việc áp dụng những thành tựu KHCN đã đem lại những kết quả đáng kể trong
việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều mẫu mã đẹp,
tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái.
* Yếu tố môi trường tự nhiên
Yếu tố tự nhiên bao gồm nguồn lực tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường
sinh thái, vị trí địa lý của tổ chức kinh doanh…là một trong những yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động SXKD của tất cả các doanh nghiệp.
* Yếu tố xã hội
Các doanh nghiệp cần phân tích các yếu tố xã hội nhằm nhận biết các cơ hội và
nguy cơ có thể xảy ra, từ đó giúp doanh nghiệp có thể xây dựng các chiến lược kinh
doanh phù hợp với đặc điểm văn hóa xã hội của từng khu vực. Các yếu tố xã hội như
dân số, văn hóa, thu nhập...
1.1.2.2 Những yếu tố thuộc môi trường vi mô
* Khách hàng
Khách hàng là những người quyết định quy mô và cơ cấu nhu cầu trên thị trường
của doanh nghiệp, là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xây dựng chiến lược kinh doanh, là
những người quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Do vậy, tìm hiểu
kỹ lưỡng và đáp ứng đủ nhu cầu cùng sở thích thị hiếu của khách hàng mục tiêu sẽ là
điều kiện sống còn cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp.
* Đối thủ cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường thì sự cạnh tranh là một điều tất yếu, số lượng các
đối thủ cạnh tranh trong ngành càng nhiều thì mức độ cạnh tranh càng gay gắt. Các đối
thủ cạnh tranh và hoạt động của họ luôn được xem là một trong yếu tố ảnh hưởng quan
trọng đến việc ra quyết định kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Tuy nhiên trên phương
diện xã hội thì cạnh tranh sẽ có lợi cho người tiêu dùng và thúc đẩy xã hội phát triển.
Việc phân tích các đối thủ cạnh tranh trong ngành nhằm nắm được các điểm mạnh,
điểm yếu của đối thủ để từ đó xác định chiến lược nhằm tạo được thế vững mạnh trên
thị trường.
* Các nhà cung ứng
Các nhà cung cấp các yếu tố đầu vào trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp
có ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm. Nếu việc cung ứng NVL gặp khó khăn, giá NVL
cao sẽ đẩy giá thành sản xuất lên cao và làm tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Vì vậy, các nhà quản lý doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình những nhà cung ứng thích
hợp vừa giảm được chi phí vừa đảm bảo chất lượng. Thông thường giá cả, chất lượng,
tiến độ giao hàng…là những tiêu chí quan trọng để lựa chọn nhà cung ứng.
1.1.3 Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh
1.1.3.1 Nhóm chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
Tổng doanh thu (TR)
TR = ΣQi x Pi
Trong đó: TR doanh thu bán hàng;
Qi: khối lượng sản phẩm i bán ra;
Pi: giá bán sản phẩm i
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp, doanh
thu càng lớn thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
Tổng chi phí (TC)
TC = FC + VC
Trong đó : FC là chi phí cố định
VC là chi phí biến đổi
Chỉ tiêu này phản ánh toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến sự tồn tại và hoạt
động của doanh nghiệp.
Lợi nhuận (LN)
Tổng lợi nhuận = Tổng doanh thu - Tổng chi phí
Π
= TR - TC
Là sự chênh lệch giữa doanh thu và chi phí, phản ánh kết quả kinh tế của mọi
hoạt động SXKD của doanh nghiệp và là cơ sở để tính toán các chỉ tiêu đánh giá hiệu
quả SXKD.
1.1.3.2 Nhóm chỉ tiêu tương đối phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh
a. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
Để phản ánh một cách chung nhất hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định
+ Hiệu suất sử sụng vốn cố định:
S
H
=
VCĐ
TR
Trong đó: H
S
là hiệu suất sử dụng vốn cố định
VCĐ
là vốn cố định bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh bình quân một đơn vị vốn cố định sẽ tạo ra được bao nhiêu
đơn vị doanh thu trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Mức đảm nhiệm vốn cố định:
VCĐ
M
=
TR
VCĐ
Trong đó:
VCĐ
M
là mức đảm nhiệm vốn cố định
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị doanh thu thì cần chi phí bao nhiêu đơn
vị vốn cố định.
+ Mức doanh lợi vốn cố định:
VCĐ
r
=
VCĐ
Π
Trong đó:
VCĐ
r
: là mức doanh lợi vốn cố định
Π
: là lợi nhuận thu được trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khi đầu tư vào sản xuất kinh doanh một đợn vị vốn cố định
thì thu được bao nhiêu đơn vị lợi nhuận.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
+ Số vòng quay vốn lưu động :
l
=
VLĐ
TR
Trong đó: l: là số vòng quay vốn lưu động
Chỉ tiêu này biểu hiện mỗi đơn vị vốn lưu động đầu tư vào kinh doanh có thể
mang lại bao nhiêu đơn vị doanh thu.
+ Mức đảm nhiệm vốn lưu động:
VLĐ
M
=
TR
VLĐ
Trong đó:
VLĐ
M
: là mức đảm nhiệm vốn lưu động
Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị doanh thu thì cần chi phí bao nhiêu đơn
vị vốn lưu động.
+ Mức doanh lợi vốn lưu động
VLĐ
r
=
VLĐ
Π
Trong đó:
VLĐ
r
: mức doanh lợi vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị vốn lưu động đầu tư vào kinh doanh có thể
mang lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận.
+ Độ dài vòng quay vốn lưu động (D):
D
=
N
l
Trong đó: N: là độ dài kỳ nghiên cứu (N= 360 ngày)
Độ dài vòng quay vốn lưu động phụ thuộc vào tốc độ chu chuyển vốn lưu động,
số vòng quay càng nhiều thì độ dài của mỗi vòng quay càng rút ngắn và ngược lại.
b. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động
+ Năng suất lao động:
W
=
L
TR
Trong đó: W: là năng suất lao động
L: là số lao động
Chỉ tiêu cho biết doanh thu một lao động có thể tạo ra trong quá trình sản xuất
kinh doanh.
+ Lợi nhuận bình quân một lao động:
LĐ
r
=
L
Π
Trong đó:
LĐ
r
: là Lợi nhuận bình quân một lao động
Chỉ tiêu cho biết một lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh có thể
mang lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận.
+ Doanh thu/ chi phí tiền lương:
QL
TR
I
=
QL
TR
Trong đó:
QL
TR
I
là doanh thu/ chi phí tiền lương
QL là tổng quỹ lương của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này phản ánh một đơn vị tiền lương sẽ tạo ra bao nhiêu đơn vị doanh thu
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
+ Lợi nhuận/ chi phí tiền lương
TL
r
=
QL
Π
Trong đó:
TL
r
là lợi nhuận/ chi phí tiền lương
Chỉ tiêu này cho biết lợi nhuận thu được khi đầu tư một đơn vị tiền lương vào sản
xuất kinh doanh.
c. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh khác:
+ Chỉ tiêu lợi nhuận/ chi phí:
TC
I
Π
=
TC
Π
Trong đó:
TC
I
Π
là lợi nhuận/ chi phí
Chỉ tiêu cho biết khi bỏ ra một đồng chi phí thì thu được bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
+ Tỷ lệ lợi nhuận/ doanh thu:
TR
I
Π
=
TR
Π
Trong đó:
TR
I
Π
là lợi nhuận /doanh thu
Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng doanh thu thu được sẽ có bao nhiêu đồng
lợi nhuận.
+ Khả năng thanh toán hiện thời(
H
K
)
H
K
=
NNH
VLĐ
Trong đó:
NNH
là nợ ngắn hạn
Đây là chỉ tiêu cho biết với tổng giá trị thuần của TSLĐ và đầu tư hiện có, doanh
nghiệp có đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không.
+ Khả năng thanh toán nhanh (K
n
)
n
K
=
NNH
HTKVLĐ
−
Chỉ tiêu này phản ánh với số vốn bằng tiền và các khoản phải thu doanh nghiệp
có đảm bảo thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn hay không.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng xi măng thế giới
Đối với các nước trong khu vực ASEAN như là Singapo, Thái Lan, Inđônêxia...
là những nước có ngành công nghiệp sản xuất xi măng rất phát triển, sản phẩm xi măng
mà các nước này sản xuất ra có chất lượng cao, giá cả thấp, đa dạng về chủng loại hơn
sản phẩm xi măng của Việt Nam.
Trong tương lai khi thực hiện đầy đủ các yêu cầu về cắt giảm thuế quan đối
với các nước trong khối ASEAN thì khi đó các loại thuế sẽ bị áp với mức thấp hoặc
không áp thuế thì không có lý do gì mà các quốc này không đưa sản phẩm của họ
vào Việt Nam trong đó có xi măng. Vì vậy, nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng ngay
từ bây giờ thì sản phẩm xi măng của ta khó mà có thể cạnh tranh được với sản phẩm
xi măng của họ.
1.2.2. Thị trường xi măng Việt Nam hiện nay
1.2.2.1. Thị trường xi măng Việt Nam từ năm 1991 đến cuối năm 1996
Từ năm 1991 đến 1996, Tổng công ty xi măng Việt Nam (VNCC) giữ vị trí độc
quyền về việc điều phối các hoạt động trên thị trường xi măng. Người tiêu dùng và các
nhà thầu xây dựng phải năn nỉ chờ duyệt kế hoạch, bị ám ảnh bởi giá xi măng, đặc biệt
là vào đầu mùa xây dựng (từ tháng ba đến tháng năm).
Năm 1995, khủng hoảng thiếu làm cho giá cả tăng vọt, các nhà thầu phải đồng
loạt ngưng thi công, sự phát triển của ngành xây dựng đã làm cho cầu xi măng tăng vọt.
Để giải quyết sự thiếu hụt này, một mặt, Chính phủ cho phép nhập khẩu xi măng và ấn
định hạn ngạch nhập khẩu để bảo vệ nhà sản xuất trong nước, mặt khác, Nhà nước ấn
định giá bán cao nhất ở năm vùng trọng điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, TP. Hồ
Chí Minh, Cần Thơ để bảo vệ người tiêu dùng. Điều này đã gây thiệt hại lớn cho ngân
sách nhà nước do việc nhập khẩu lậu, làm phát sinh việc mua bán hạn ngạch nhập khẩu
và tạo ra những hoạt động phi sản xuất trong nước.
1.2.2.2. Thị trường xi măng Việt Nam từ 1997 đến nay
Trong bối cảnh cầu vượt cung và nguồn vốn trong nước bị hạn chế cũng như vai
trò quan trọng ngành công nghiệp xi măng. Chính phủ đã khuyến khích các nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào ngành công nghiệp này dưới hình thức liên doanh.
Năm 1994, các tập đoàn Chinfon Global, Lucksvaxi, Holderbank đã nhảy vào và
lập những dự án liên doanh: Chinfon, Văn Xá, Sao Mai. Sự bước vào hoạt động của các
công ty liên doanh năm 1997 làm thay đổi cơ cấu thị trường, từ một thị trường độc
quyền chuyển sang thị trường thiểu số độc quyền.
Tóm lại, sự có mặt các nhà đầu tư nước ngoài trong ngành xi măng Việt Nam
dưới hình thức liên doanh đã làm thay đổi cơ cấu thị trường, biến thị trường độc quyền
thành thị trường thiểu số độc quyền, biến khủng hoảng thiếu thành khủng hoảng thừa,
đổi từ việc tăng giá trở thành việc giảm giá, chấm dứt hẳn việc nhập khẩu và chuyển
sang xuất khẩu trong thời gian tới. Việc cung vượt cầu trong thị trường thiểu số độc
quyền này đã thật sự dẫn đến cuộc chiến, cuộc chạy đua về việc giành giật thị trường để
đẩy mạnh tiêu thụ từ đó mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn là thành viên của Tổng Công ty công nghiệp xi
măng Việt Nam (VICEM), theo sự chỉ đạo của Tổng Công ty, CTCP xi măng Bỉm Sơn
đã chuyển đổi mô hình hoạt động sang Công ty cổ phần năm 2006 , đồng thời cũng
chuyển đổi mô hình phân phối tiêu thụ sản phẩm thông qua nhà phân phối nên việc tiêu
thụ sản phẩm của Công ty hoàn toàn phụ thuộc vào các nhà phân phối và trước sự cạnh
tranh gay gắt như hiện nay không chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp cùng ngành thuộc
VICEM mà còn phải cạnh tranh với các đối tác liên doanh nước ngoài vốn có tiềm lực
kinh tế mạnh và dày dặn kinh nghiệm trong việc tiêu thụ sản phẩm của mình thông qua
lực lượng ngoài xã hội đó là các nhà phân phối chính. Vì vậy, sau 3 năm chuyển đổi mô
hình hoạt động và mô hình tiêu thụ thông qua nhà phân phối công ty đã hoạt động có
hiệu quả hơn, đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận như đẩy mạnh khả năng tiêu
thụ sản phẩm và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH CƠ BẢN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN
2.1. Khái quát về Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
a. Giới thiệu về Công ty
Các thông tin cơ bản về Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn.
- Tên Công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN
- Tên tiếng anh: Bim Son Cement Joint Stock Company, tên viết tắt: BCC
- Trụ sở: Phường Ba Đình, thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hoá
- Điện thoại: (84-373) 824.242 Fax: (84-373) 824.046
- Biểu tượng Công ty:
- Địa chỉ Email:
- Website: www.ximangbimson.com.vn
- Lĩnh vực sản xuất kinh doanh:
+ Sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu xi măng, clinker.
+ Sản xuất kinh doanh các loại vật liệu xây dựng khác.
- Vốn điều lệ: 900 Tỷ đồng
b. Lịch sử hình thành
Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn - đơn vị anh hùng lao động, thành viên của
VICEM. Trước đây là Nhà máy xi măng Bỉm Sơn được thành lập ngày 4/3/1980 tại
phường Ba Đình - Thị xã Bỉm Sơn -Tỉnh Thanh Hoá, nơi có nguồn nguyên liệu dồi dào
với hai dây chuyền công nghệ ướt do Liên Xô giúp đỡ, công suất 1,2 triệu tấn/năm.
Tháng 10 năm 1981, dây chuyền 1 đã được lắp ráp hoàn chỉnh và đến 28/12/1981
những bao xi măng đầu tiên mác P40 nhãn hiệu “Con Voi” của Nhà máy xi măng Bỉm
Sơn đã chính thức xuất xưởng. Tháng 08 năm 1993, Nhà nước đã quyết định sát nhập hai
đơn vị là nhà máy xi măng Bỉm Sơn và Công ty cung ứng vật tư vận tải số 4, đổi thành
Công ty xi măng Bỉm Sơn là Công ty nhà nước đầu tiên trực VICEM, với tổng số công
nhân viên là 2.864 người, trong đó nhân viên quản lý là 302 người.
Cùng với sự tăng trưởng chung của đất nước, nhu cầu sử dụng xi măng ngày càng
cao, để đáp ứng nhu cầu đó tháng 03/1994, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt dự án đầu
tư cải tạo hiện đại hoá dây chuyền số II của nhà máy xi măng Bỉm Sơn, chuyển đổi công
nghệ sản xuất xi măng từ công nghệ ướt sang công nghệ khô hiện đại. Nhờ thiết bị tiên
tiến và tự động hoá cao đã nâng tổng công suất sản phẩm của nhà máy từ 1,2 triệu tấn
sản phẩm/ năm lên 1,8 triệu tấn sản phẩm/ năm.
Đến ngày 01/05/2006, Công ty bắt đầu chuyển mô hình từ công ty Nhà nước
thành Công ty cổ phần với vốn điều lệ là 900 tỷ đồng, trong đó nhà nước nắm giữ
89,58% vốn điều lệ. Tại thời điểm 31/12/2006, sau khi bán cổ phần lần 2 vốn nhà
nước nắm giữ 74,02% vốn điều lệ.
Năm 2007, Công ty đang thực hiện dự án dây chuyền mới có công suất 2 triệu
tấn/năm khi hoàn thành nâng công suất lên 3,8 triệu tấn.
Trải qua 30 năm phát triển và trưởng thành cùng với sự nỗ lực cố gắng
không mệt mỏi của tập thể cán bộ, công nhân viên, trải qua năm tháng khổ
luyện, trăn trở, những bao xi măng của nhà máy mang nhãn hiệu “Con Voi” đã
đóng góp vào nhiều công trình lớn như: Thuỷ điện sông Đà, cầu Thăng Long,
Bảo tàng Hồ Chí Minh.... với nhiều thành tích đáng trân trọng như: từ năm 1993
đến nay, liên tục được Bộ Xây dựng và Công đoàn ngành Xây dựng Việt Nam
tặng cờ chứng nhận sản phẩm chất lượng cao; liên tục từ năm 1997 đến nay
được Báo Sài Gòn Tiếp Thị và người tiêu dùng bình chọn và chứng nhận "Hàng
Việt Nam Chất Lượng Cao"; được phong tặng danh hiệu “ Đơn Vị Anh hùng Lao
Động” trong thời kỳ đổi mới và ngày 2/3/2010 Công ty đã đón nhận huân
chương lao động hạng 2 vì những nỗ lực không ngừng trong xây dựng và phát
triển. Đó là những thành quả xứng đáng với những gì mà Công ty đã cống hiến
trong suốt 30 năm qua. Với nền tảng vững chắc, Công ty sẽ không ngừng vươn
cao, vươn xa để xứng đáng với niềm tin khách hàng giành cho Công ty trong
suốt thời gian qua, để một lần nữa khẳng định sản phẩm xi măng của CTCP xi
măng Bỉm Sơn là “niềm tin của người sử dụng, sự bền vững của những công
trình”.
2.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn
2.1.2.1. Chức năng
Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn có chức năng tổ chức sản xuất, cung ứng xi
măng cho khách hàng trên địa bàn được phân công đảm nhiệm.
2.1.2.2. Nhiệm vụ
Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn có nhiệm vụ sản xuất và cung cấp xi măng cho
các công trình xây dựng trong nước và xuất khẩu ra nước ngoài (hiện tại chủ yếu là xuất
khẩu sang Lào). Ngoài ra, Công ty còn có nhiệm vụ cung cấp xi măng cho các địa bàn
theo sự chỉ đạo của VICEM để tham gia vào việc bình ổn giá cả của thị trường.
2.1.3. Đặc điểm cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty (thể hiện ở sơ đồ 1)
Bộ máy quản lý: Sau khi cổ phần hóa Công ty xi măng Bỉm Sơn chính thức trở
thành Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn, bộ máy quản lý của Công ty có sự thay đổi do
sự thay đổi loại hình doanh nghiệp. Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo mô
hình cơ cấu kiểu hỗn hợp trực tuyến chức năng; gồm có: Đại hội đồng cổ đông, Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc Công ty, 5 phó giám đốc và 17 phòng ban.
Đại hội đồng cổ đông: Gồm tất cả những cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ
quan quyết định cao nhất của Công ty. Đại hội đồng cổ đông quyết định tất cả những vấn
đề thuộc về Công ty theo pháp luật qui định như: cơ cấu tổ chức sản xuất, qui mô sản xuất
kinh doanh, kế hoạch, nhiệm vụ, cổ tức, phương hướng đầu tư phát triển...
Hội đồng quản trị: Do Đại hội cổ đông bầu, là cơ quan quản lý cao nhất của
Công ty, đại diện cho các cổ đông, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi
vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm
quyền của Đại hội cổ đông.
Ban kiểm soát: Là cơ quan trực thuộc Đại hội cổ đông, có nhiệm vụ kiểm tra
tính hợp lý, hợp pháp trong điều hành hoạt động SXKD của Công ty.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức bộ máy công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn
BAN KIỂM SOÁT
P.GIÁM ĐỐC
CƠ ĐIỆN
P.Cơ khí
P.NL
P.CƯVTTB
P. THẨM ĐỊNH
P.GIÁM ĐỐC
SẢN XUẤT
X. ĐTĐ
P.KTKH
P. VTTB
TTGDTT
Văn phòng
P.KTTKTC
B.QLDA
P.KTTC
P.GIÁM ĐỐC
TIÊU THỤ SP
X. CTN-NK
P. KHTH
P.TCLĐ
X.SCCT
X.SCCK
P.GIÁM ĐỐC
ĐTXD
P. KT
T.Kho VTTB
P.GIÁM
ĐỐC NỘI
CHÍNH
P.
ĐSQT
P.
BVQS
VP.Ninh
Bình
Trạm y
tế
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
GIÁM ĐỐC
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
P.ĐHSX
P.KTSX
P.TN-KCS
P.KTAT
X.Mỏ NL
X.Ôtô VT
X.Tạo NL
X.Lò nung
X.NXM
X.Đóng bao
(Nguồn: Phòng Tổ chức lao động Công ty xi măng Bỉm Sơn)
Ban giám đốc: Bao gồm giám đốc và 5 phó giám đốc.
+ Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty, có nhiệm vụ và chịu
trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
+ Năm phó giám đốc có nhiệm vụ giúp Giám đốc điều hành các lĩnh vực khác
nhau đó là:
Phó giám đốc nội chính giúp Giám đốc trực tiếp chỉ đạo điều hành công tác bảo
vệ quân sự, phòng cháy, chữa cháy, đời sống văn hoá, xã hội, y tế trong Công ty.
Phó giám đốc tiêu thụ giúp giám đốc Công ty trực tiếp chỉ đạo điều hành công
tác tiêu thụ sản phẩm, tổ chức mạng lưới tiêu thụ sản phẩm.
Phó giám đốc phụ trách sản xuất phụ trách báo cáo việc thực hiện hệ thống quản
lý chất lượng đến Giám đốc, giúp Giám đốc quản lý, chỉ đạo, điều hành về tổ chức sản
xuất các đơn vị trong Công ty...
Phó giám đốc phụ trách cơ điện có chức năng trong việc giúp giám đốc quản lý
điều hành công tác cơ điện phục vụ cho sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết
bị, phương tiện bốc xúc, vận chuyển...
Phó giám đốc phụ trách công tác quản lý đầu tư trực tiếp quản lý dự án, phòng
kỹ thuật, phòng kiểm tra tiêu chuẩn, phòng vật tư thiết bị, có nhiệm vụ tổ chức thực hiện
các nhiệm vụ của ban quản lý dự án, lập hồ sơ mời thầu, xây lắp, mua sắm vật tư thiết
bị...
Bên dưới các phó giám đốc là các xưởng và các phòng ban.
Các phòng ban chủ yếu: Gồm có 17 phòng ban với chức năng nhiệm vụ tham
mưu cho Giám đốc công ty, có các phòng ban chủ yếu sau:
Phòng cơ khí có nhiệm vụ theo dõi tình hình hoạt động của các thiết bị và sửa
chữa, bảo dưỡng , thay thế các thiết bị máy móc.
Phòng kỹ thuật sản xuất có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động của các phân xưởng
sản xuất chính và phụ, đồng thời theo dõi kiểm tra chất lượng sản phẩm.
Phòng năng lượng có nhiệm vụ theo dõi tình hình liên quan tới việc cung cấp
năng lượng cho các thiết bị điện và cho sản xuất.
Phòng Kế toán – Thống kê - Tài chính có nhiệm vụ giám sát bằng tiền đối với các tài
sản và các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Phòng vật tư, thiết bị có nhiệm vụ theo dõi vấn đề cung ứng vật tư, máy móc thiết bị
cho sản xuất.
Các xưởng sản xuất kinh doanh: Có chức năng, nhiệm vụ thực hiện đúng qui
trình sản xuất để tạo ra sản phẩm kịp thời đảm bảo chất lượng và đảm bảo an toàn cho
máy móc thiết bị cũng như con người, gồm có 11 phân xưởng:
Khối sản xuất chính gồm xưởng mỏ, xưởng ô tô, xưởng nguyên liệu, xưởng lò
nung, xưởng nghiền xi măng, xưởng đóng bao.
Khối sản xuất phụ gồm xưởng sửa chữa thiết bị, xưởng sữa chữa công trình,
xưởng điện, xưởng cấp thoát nước – nén khí, xưởng cơ khí.
Trên đây là vài nét khái quát về tình hình tổ chức quản lý xi măng của CTCP xi
măng Bỉm Sơn. Có thể nói cơ cấu tổ chức quản lý kinh doanh như vậy là phù hợp thích
ứng với trình độ quản lý của Công ty và tránh được sự chồng chéo trong khâu quản lý,
đồng thời có thể nắm bắt được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong toàn Công
ty một cách cụ thể, chính xác, kịp thời.
2.1.4. Đặc điểm sản xuất và quy trình sản xuất của Công ty
2.1.4.1. Đặc điểm sản xuất và sản phẩm
Khẩu hiệu “Niềm tin của người sử dụng, sự bền vững của các công trình”
chính là mục tiêu và chính sách chất lượng của Công ty không ngừng áp dụng những
sáng kiến, tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hiện nay, CTCP xi măng Bỉm Sơn đang sản xuất các sản phẩm chính là xi măng
pooclang hỗn hợp PCB30 và PCB40 theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 6206-1997; Các
sản phẩm xi măng được bao gói trong loại vỏ bao PPK bền, đẹp, thuận lợi cho vận
chuyển, bốc dỡ và sử dụng. Trên vỏ bao được in đầy đủ những thông tin theo quy định
của nhà nước về nhãn hiệu hàng hóa và kiểu dáng công nghiệp đối với hàng bao gói sẵn.
Ngoài ra, còn sản xuất xi măng Pooclang PC40, PC50 theo TCVN 2682-1992 chỉ chiếm
tỉ trọng rất nhỏ không đáng kể. Với chính sách chất lượng nhất quán, sản phẩm xi măng
mang nhãn hiệu “Con Voi” của Công ty đã và đang có uy tín với người tiêu dùng trên
thị trường 30 năm qua. Vì vậy, sản phẩm tiêu thụ của Công ty luôn giữ được ổn định và
giành được một vị thế vững chắc trên thị trường.
2.1.4.2. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất
Với hai sản phẩm chính là xi măng PCB30 và PCB40, Công ty hiện đang duy trì
hai dây chuyền sản xuất là dây chuyền sản xuất theo phương pháp khô và ướt.
a. Dây chuyền sản xuất theo phương pháp ướt (dây chuyền số I)
Được Liên Xô giúp đỡ và xây dựng từ năm 1976, đến năm 1981 tấn xi măng đầu
tiên của Công ty được ra đời, đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngành công nghiệp
xi măng lúc bấy giờ.
Quy trình sản xuất theo phương pháp ướt (xem phụ lục 5)
Quy trình cụ thể: Sử dụng phương pháp khoan nổ mìn để khai thác đá vôi và đất
sét là hai nguyên liệu chính sản xuất xi măng. Sau đó, vận chuyển nguyên liệu về nhà
máy bằng ô tô. Hỗn hợp hai nguyên liệu (đá vôi và đất sét) qua quá trình định lượng
được đưa vào máy nghiền, được điều chỉnh thành phần hoá học trong bể chứa, cuối
cùng cho ra phối liệu bùn. Phối liệu bùn được đưa vào lò nung thành Clinker (ở dạng
hạt). Clinker được đưa vào máy nghiền xi măng cùng với thạch cao và một số chất phụ
gia khác để tạo ra sản phẩm. Xi măng bột ra khỏi máy nghiền, dùng hệ thống nén khí để
chuyển vào xi lô chứa sau đó được chuyển sang xưởng đóng bao và thu được sản phẩm
là xi măng bao. Nếu là xi măng rời thì chuyển vào các xe chuyên dụng để chuyên chở đi
các nơi.
Ưu điểm: Chất lượng xi măng được đánh giá là tốt vì các nguyên liệu và phụ gia
được trộn đều. Nhược điểm: Tốn nhiên liệu để làm bay hơi, mặt bằng sản xuất phải có
diện tích lớn và cần nguồn nhân lực phục vụ sản xuất lớn, thời gian sử dụng máy móc
thiết bị quá lâu nên chi phí sửa chữa cao, tiêu hao điện năng nhiều.
b. Dây chuyền sản xuất theo phương pháp khô (dây chuyền II)
Sản xuất theo phương pháp khô được cải tạo và hiện đại hoá từ dây chuyền ướt
theo công nghệ của Nhật Bản, hệ thống tháp trao đổi nhiệt 1 nhánh 5 tầng có nhiều cải
tiến nhằm tăng khả năng trao đổi nhiệt giữa bột liệu và gió nóng.
Quy trình sản xuất theo phương pháp khô (Xem phụ lục 6)
Có thể thấy quy trình sản xuất xi măng là rất phức tạp, hiện nay Công ty đang kết
hợp khai thác cả hai dây chuyền công nghệ, tuy nhiên với những ưu điểm vượt trội của
phương pháp khô thì sản xuất xi măng theo phương pháp lò khô đang dần được thay thế
cho phương pháp ướt. Ưu điểm: Tốn ít nhiên liệu hơn vì tận dụng lò để sấy khô nguyên
liệu, mặt bằng sản xuất nhỏ vì chiều dài lò ngắn, nguồn nhân lực cần ít hơn vì giảm bớt
được một số khâu trong dây chuyền sản xuất so với lò ướt. Chi phí điện năng thấp, năng
suất thiết bị luôn đạt và vượt công suất thiết kế. Nhược điểm: Nhược điểm lớn nhất của
lò khô là bắt buộc phải có thiết bị lọc bụi.
2.2. Nguồn lực cơ bản của Công ty
2.2.1. Tình hình lao động của Công ty
Nguồn lực con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định của lực lượng sản
xuất, vì thế lao động là một nguồn lực quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối
với doanh nghiệp nói riêng. Lực lượng lao động phản ánh quy mô của doanh nghiệp, cơ
cấu lao động phản ánh lĩnh vực hoạt động và đặc điểm công nghệ, mức độ hiện đại hoá
sản xuất của doanh nghiệp. Chất lượng lao động sẽ quyết định và được thể hiện qua kết
quả và hiệu quả hoạt động SXKD.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lao động, Công ty cổ phần xi măng
Bỉm Sơn luôn coi trọng việc tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng lao động hợp lý
nhằm mục đích đem lại năng suất lao động cao nhất, tạo điều kiện cho lao động trong
Công ty phát huy hết khả năng của mình để xây dựng Công ty ngày càng phát triển.
Tình hình lao động của Công ty, được thể hiện qua bảng số liệu ở bảng 1 cho
thấy, số lao động qua các năm (2007 -2009) về tổng số lao động đã giảm đi và đấy là xu
thế tất yếu của bất kỳ doanh nghiệp sản xuất theo xu hướng ngày càng hiện đại, chuyên
môn hoá như CTCP xi măng Bỉm Sơn và có hai đặc điểm chính sau:
Về mặt số lượng, lao động có xu hướng giảm dần qua 3 năm cụ thể: Năm 2007 là
2.434 lao động nhưng đến năm 2008 chỉ còn là 2.337 lao động, tiếp tục đến năm 2009
giảm xuống còn 2.325 lao động. Ngược lại, chất lượng lao động không ngừng tăng cao.
Cụ thể là lao động có trình độ trên đại học và đại học tăng liên tục, lao động chưa qua
đào tạo giảm đáng kể (năm 2007 là 347 lao động chiếm 14,26% đến năm 2009, chỉ còn
lại là 218 lao động và chỉ còn chiếm tỉ lệ 9,38%).
BẢNG 1: TÌNH HÌNH LAO ĐỘNG CỦA CÔNG TY QUA 3 NĂM 2007-2009
ĐVT: Người
Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009
So sánh
2008/2007 2009/2008
SL % SL % SL % +/-
%tăng
giảm
+/-
%tăng
giảm
Tổng LĐ 2.434 100 2.337 100 2.325 100 -97 -3,99 -12 -0,51
1.Phân theo giới tính
- Nam 1.942 79,79 1.922 82,24 1.929 82,97 -20 -1,03 7 0,36
- Nữ 492 20,21 415 17,76 396 17,03 -77 -15,65 -19 -4,58
2. Phân theo trình độ
- Đại học và trên đại học 322 13,23 353 15,10 375 16,13 31 9,63 22 6,23
- Cao đẳng 134 5,51 106 4,54 119 5,12 -28 -20,90 13 12,26
- Trung cấp 312 12,82 322 11,94 261 11,23 10 3,21 -61 -18,94
- Công nhân nghề 1.319 54,19 1.298 55,54 1.352 58,15 -21 -1,59 54 4,16
- Chưa qua đào tạo 347 14,25 259 12,88 218 9,38 -88 -25,36 -41 -15,83
3. Phân theo tính chất
- LĐ trực tiếp 1.842 75,68 1.725 75,87 1.694 76,09 -117 -6,35 -31 -1,80
- LĐ gián tiếp 592 24,32 612 24,13 631 23,91 20 3,38 19 3,10
(Nguồn: Phòng tổ chức lao động - CTCP xi măng Bỉm Sơn)