Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Quyền tiếp cận công lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (378.79 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ ANH

QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ ANH

QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và Lịch sử
Nhà nước và pháp luật
Mã số
: 60.38.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Giáo viên hướng dẫn khoa học:

GS.TSKH Đào Trí Úc


HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thế Anh


MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG
MỞ ĐẦU

Chương 1 NHỮNG QUAN NIỆM CHUNG VỀ CÔNG LÝ VÀ QUYỀN
TIẾP CẬN CÔNG LÝ

Trang
1

7

1.1.

Khái niệm công lý

7

1.1.1.

Khái niệm công lý trong lịch sử tư tưởng nhà nước và pháp luật

7

1.1.2.

Mối liên hệ giữa công lý với một số khái niệm khác

19

1.2.

Khái niệm và nội dung quyền tiếp cận công lý

23

1.2.1.

Khái niệm quyền tiếp cận công lý


23

1.2.2.

Cơ sở pháp lý của quyền tiếp cận công lý

27

1.2.3

Các bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận công lý

31

Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG

39

LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.

Thực trạng hệ thống quy định liên quan đến các quyền và
nghĩa vụ của người dân

2.1.1

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật

2.1.2


Việc áp dụng tập quán pháp trong bảo đảm thực hiện quyền tiếp
cận công lý

39
39
44

2.2.

Hệ thống các bảo đảm quyền tiếp cận công lý

47

2.2.1

Vai trò của Tòa án trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý

47

2.2.2

Các thủ tục tố tụng

58

2.2.3

Hoạt động tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý

61


Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP
CẬN CÔNG LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật

3.2.

Đổi mới tổ chức, hoạt động của Tòa án nhân dân bảo đảm
thực hiện quyền tiếp cận công lý

3.3

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tư vấn pháp luật.

70
70
74
82


3.4

Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý

86

KẾT LUẬN


90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Công lý không phải là một thuật ngữ mới trong các lĩnh vực xã hội nói
chung và pháp luật nói riêng. Ngay từ buổi đầu xuất hiện, khi con người ý
thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội, ý niệm về công lý đã xuất
hiện. công lý đã là ước mong, nguyện vọng của con người, được đối xử một
cách công bằng, bình đẳng, ở thời sơ khai, nó được thể hiện ở việc chia các
nguồn lợi phẩm (hoa quả, hoang thú) theo sự đóng góp của các cá nhân trong
buổi đi săn bắt,hái lượm.
“Không thể có hòa bình nếu không có công lý” là câu khẩu hiệu thường
thấy của đồng bào Công giáo. Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng thành lập
Ủy ban Công lý và Hòa bình.
Có thể thấy, công lý cũng như cuộc chiến để giành công lý” cũng có lịch sử
thăng trầm riêng của nó, gắn bó một cách mật thiết với lịch sử phát triển của xã hội
loài người. Trải qua những hình thái kinh tế - xã hội, những chế độ chính trị, chế
độ nhà nước, dù là dã man nhất (chế độ chiếm hữu nô lệ) hay chế độ dân chủ nhất
như hiện nay (chế độ dân chủ tư sản hoặc chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa); dù là
xã hội nguyên thủy nhất hay hiện đại nhất, công lý luôn là cái mang tính tinh
thần nhiều nhất trong ý niệm của con người.
Ở kỷ nguyên hiện đại, tiếp cận công lý không chỉ thuần túy là một
mong ước của con người nữa mà nó còn xuất hiện như là một tiêu chuẩn
quan trọng trong đánh giá đối sự phát triển của một quốc gia, một hệ thống
pháp luật. Bởi đây cũng vừa là quyền của con người và cũng là nghĩa vụ của

nhà nước.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm
2013 và Nghị quyết Đại hội Đảng XI đã chỉ ra rõ con đường xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân của nước ta.
Trong đó, Nhà nước pháp quyền trước hết cần phải có được một hệ thống
pháp luật đảm bảo được tính công lý, đó là công bằng và lẽ phải theo nghĩa
giản đơn nhất mà ta hiểu được.

1


Tiếp cận công lý là một thuật ngữ chuyên ngành mới trong thời gian gần
đây, được hiểu như là quyền được xét xử công bằng của người dân, tức là gắn
chặt với các hoạt động “xét xử” hay hoạt động “tư pháp”. Trong những năm gần
đây, hiệu quả hoạt động của hệ thống tư pháp ở Việt Nam không được đánh giá
cao, thậm chí còn gây mất uy tín trong lòng người dân. Bởi nguyên nhân trước
hết là hệ thống pháp luật chưa bảo đảm được cho người dân thực hiện triệt để
quyền tiếp cận công lý của mình, sau đó là sự suy giảm lòng tin đối với cách
hành xử của các chủ thể của hoạt động tư pháp.
Tòa án từ khi mới thành lập đã có chức năng bảo vệ công lý thông qua
hoạt động xét xử. Nhận thức sâu sắc được vấn đề đó, Hiến pháp 2013 của
Việt Nam đã khẳng định rõ: “Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý”
tại khoản 3 Điều 102. Hay diễn tả theo cách khác thì Tòa án là người bảo vệ
cuối cùng cho những tự do của người dân mà không phụ thuộc vào địa vị
kinh tế hay địa vị xã hội của họ. Do đó, khi công dân mất niềm tin vào người
nắm công lý của xã hội thì rõ ràng, hậu quả là rất nghiêm trọng.
Với những gì diễn ra trong thời gian gần đây, dư luận xã hội đang bắt đầu
đặt nghi vấn về năng lực, trình độ của đội ngũ tư pháp của nước ta. Ở một số
trường hợp, họ không còn ý nghĩ mang những vụ tranh chấp của mình ra tòa nữa,
mà lại có xu hướng “tự xử” với nhau. Dẫu biết rằng, pháp luật chỉ thể hiện một

phần nhỏ của xã hội vì ngoài pháp luật, còn những thể chế khác nhau điều chỉnh,
tác động lên hành vi của con người (phong tục, tập quán, hương ước, lệ làng…)
và nhiều khi, những thiết chế tương ứng của các thể chế này lại hoạt động có hiệu
quả hơn là các thiết chế tư pháp chính thức theo pháp luật.
Xét theo khía cạnh đó, tiếp cận công lý vừa là một trạng thái của xã hội,
vừa là một đòi hỏi, vừa là nghĩa vụ của nhà nước trong việc tổ chức, thực thi,
bảo vệ pháp luật, tạo điều kiện cho các chủ thể nói chung (trong đó cũng có
cả nhà nước) mà quan trong nhất là cá nhân (con người) nói riêng được tiến
lại gần hơn lẽ phải và sự công bằng theo đúng nghĩa đên của nó.
Tiếp cận công lý và những vấn đề liên quan không phải là vấn đề riêng
của một quốc gia, một dân tộc hay một lãnh thổ, mà là vấn đề của “toàn cầu”,

2


“toàn xã hội”. Đặc biệt trong những năm gần đây, vấn đề về tiếp cận công lý
được nghiên cứu, khảo sát dưới nhiều cách thức khác nhau và đã đem lại
những thành công bước đầu trong việc đánh giá được mức độ tiếp cận công lý
của người dân. Việt Nam không đứng ngoài câu chuyện đó, với sự tham gia
của nhiều tổ chức khác nhau, trong và ngoài nước, đã từng bước tiến hành
những bước đầu của tiếp cận công lý. Việc cho ra đời Báo điện tử Công lý của
Tòa án nhân dân tối cao hay việc Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án “Tăng
cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại Việt Nam” do Bộ Tư pháp chủ trì,
phối hợp với các cơ quan pháp luật và tư pháp khác của Việt Nam thực hiện là
các sự kiện thể hiện điều đó.
Vì những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Quyền tiếp cận công lý ở
Việt Nam hiện nay” làm đề tài cho Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Nhà
nước và Pháp luật của tôi.
1.2. Tình hình nghiên cứu
Công lý và tiếp cận công lý tuy không phải là một nội dung mới nhưng

trong những năm gần đây, nó mới được chính thức trở thành một đối tượng
nghiên cứu độc lập của nhiều ngành khoa học, trong đó có Luật học.
Với nhận thức về tầm quan trọng của công lý trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến, sau 4 bản Hiến pháp: Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001), đến bản Hiến pháp năm 2013, các giá trị cơ bản của công lý đã
lần đầu tiên được khẳng định và ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam
vẫn chưa có nhiều những công trình nghiên cứu cặn kẽ, đầy đủ về công lý,
vấn đề công lý.
Đã có một số công trình, tác phẩm nổi tiếng, bàn trực tiếp hoặc gián
tiếp về vấn đề công lý, tôi xin trích lại như sau:
- Cuốn sách: “The Philosophy of Law: A very short introduction” (Triết
học luật pháp) của Raymond Wacks, giáo sư danh dự về Luật và Lý thuyết
pháp luật của Đại học Hồng Kông (bản dịch của Phạm Kiều Tùng, Nhà xuất

3


bản Tri thức, 2011). Tác giả dành toàn bộ chương 4 bàn về Quyền và công lý,
trong đó đưa ra những nét cơ bản về nhận thức về công lý, mối quan hệ giữa
công lý và pháp luật. Ông viết: “Lý tưởng về công lý vừa là một phẩm chất có
tính khoa trương của những hệ thống pháp lý nội địa và còn, trong những
khẳng định về tính phổ biến của nó, mong muốn vượt qua chính luật pháp”.
- Cuốn sách: “Bốn tiểu luận về tự do” của Isaiah Berlin (1909-1997) do
Nguyễn Văn Trọng dịch, Nhà xuất bản Tri thức, năm 2014. Isaiah Berlin là
nhà triết học người Do Thái, là triết gia muốn hướng các nghiên cứu của
mình tới đông đảo độc giả chức không phải chỉ dành riêng cho các nhà
chuyên môn. Ông quan niệm vai trò của triết gia đạo đức học là soi sáng vấn
để để giúp cho công chúng có những phán đoán riêng của họ, chứ không

phải hướng dẫn họ sống thế nào.
- Cuốn sách: “Justice: Whats’s the right thing to do”, hay “Phải trái,
đúng sai” của giáo sư Đại học Harvard Michale J. Sandel (bản dịch Hồ Đắc
Phương, tái bản lần thứ 6, Nhà xuất bản Trẻ, năm 2015). Cuốn sách được
GS.Ngô Bảo Châu nhận xét rằng: “Trang sách chính là cửa sổ mở sang
những cuộc đời khác, những thế giới khác. Và cũng là chỗ để ảnh sáng mặt
trời rọi vào cuộc đời mình”.
Bên cạnh đó, cũng đã có một số tác phẩm nổi tiếng về công lý và tiếp
cận công lý được xuất bản trong nước như:
- Cuốn sách: “Đây công lý của thực dân Pháp ở Đông Dương”, Nhà
xuất bản Sự thật, năm 1962. Đây là cuốn sách gồm tập hợp một số bài viết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công lý trong giai đoạn 1921-1926.
- Cuốn sách: “Triết học kinh tế trong “Lí thuyết về công lý” của Nhà
triết học Mĩ - John Rawls” của Trần Thảo Nguyên, Nhà xuất bản Thế giới
xuất bản năm 2006. Tác giả tập trung ý nghĩa và khả năng ứng dụng của học
thuyết về công lý của John Rawls tại Việt Nam. Phân tích mệnh đề công lý
như là công bằng của John Rawls, tác giả cho rằng công lý là cái gốc của
công bằng, có ý nghĩa sâu sắc và khái quát hơn công bằng.

4


- Bài viết: “Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp
quyền” của Vũ Công Giao, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25, năm
2009. Bài viết phân tích khái niệm và đặc điểm của tiếp cận công lý, nền
tảng của tiếp cận công lý và sự tương thích giữa các nguyên tắc của tiếp cận
công lý với các nguyên tắc của nền pháp quyền tại Việt Nam.
- Cuốn sách: “Quyền con người trong thi hành công lý” của Tòa án
nhân dân tối cao, 545 trang, Nhà xuất bản lao động - xã hội, năm 2010. Cuốn
sách gồm 15 chương, cung cấp những thông tin nhằm giúp người đọc mà

chủ yếu là cán bộ tòa án có kiến thức tương đối toàn diện và sâu sắc về các
quyền cơ bản của con người và việc bảo đảm các quyền này trong quá trình
thực thi công lý.
- Báo cáo: “Chỉ số công lý - Thực trạng về Công bằng và Bình đẳng
dựa trên ý kiến của người dân năm 2012” của Chương trình phát triển Liên
hiệp quốc (tháng 7/2013). Chỉ số công lý giới thiệu một hướng tiếp cận mới
để đánh giá kết quả tiến trình cải cách luật pháp và tư pháp đang diễn ra. Chỉ
số công lý năm 2012 được thực hiện trên 21 tỉnh, thành phố, dựa trên 5 trục
nội dung về thực thi pháp luật và bảo đảm công lý, bao gồm: Khả năng tiếp
cận, Công bằng, Liêm chính, Tin cậy và hiệu quả, Bảo đảm các quyền cơ
bản. Tuy nhiên, khảo sát mới chỉ đưa ra được ý niệm về công lý của người
dân trên cở sở cảm nhận tâm lý học xã hội.
1.3.Mục tiêu nghiên cứu
1.3.1.Mục tiêu tổng quát
- Làm rõ thêm lý luận khoa học các quan điểm về công lý và quyền tiếp
cận công lý;
- Đánh giá được tương đối thực trạng về thực hiện quyền tiếp cận công
lý hiện nay ở Việt Nam để từ đó, có thể đề ra một số giải pháp nâng cao tính
hiệu quả của hoạt động này.

5


1.3.2.Mục tiêu cụ thể
- Nêu và phân tích, làm rõ các quan niệm chung về công lý và “quyền
tiếp cận công lý” trên phương diện lịch sử nhà nước và pháp luật; so sánh giữa
quan niệm về công lý với các quan niệm khác thường dùng trong pháp luật.
- Nghiên cứu và tìm hiểu, phân tích một số yếu tố ảnh hưởng đến kết
quả thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay ở Việt Nam.
1.4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1. Đối tượng của đề tài:
- Hệ thống lý luận về công lý,“quyền tiếp cận công lý”.
- Thực trạng thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay ở Việt Nam.
- Một số giải pháp nâng cao thực hiện quyền tiếp cận công lý hiện nay.
1.4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
“Công lý” là mô ̣t khái niê ̣m rô ̣ng lớn , do đó , nô ̣i dung của quyề n tiế p
câ ̣n công lý cũng rấ t rô ̣ng . Tuy nhiên, để phù hợp với quy mô của một Luận
văn Tha ̣c s ĩ, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu quyền tiếp cận công lý trong tư
pháp, tức là gắ n chă ̣t với viê ̣c xét xử của Tòa án.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử - cụ thể trong việc tìm hiểu,
nghiên cứu các quan điểm về công lý qua các tài liệu sưu tầm được.
- Đề tài sử dụng phương pháp điều tra xã hội học trong việc đánh giá
thực trạng tiếp cận công lý ở một số nhóm đối tượng trên địa bàn thành phố
Hà Nội.
- Nguồn số liệu được sử dụng lấy từ các báo cáo về chỉ số công lý của
UNDP, một số cơ quan tư pháp trên địa bàn Hà Nội và qua khảo sát, điều tra
xã hội học của tác giả.
2.Kết cấu nội dung luận văn: bao gồm 3 chương, 8 tiết.

6


Chương 1
NHỮNG QUAN NIỆM CHUNG VỀ CÔNG LÝ VÀ
QUYỀN TIẾP CẬN CÔNG LÝ
1.1. Khái niệm về Công lý
Khái niệm công lý là khái niệm thu hút được nhiều sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu khoa học trong nhiều lĩnh vực khác nhau cũng như trong
suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Trong khoa học pháp lý, công lý cần được

xem xét trên một số khía cạnh như: lịch sử nhà nước và pháp luật; thực hiện
pháp luật; xây dựng pháp luật... Trong khuôn khổ luận văn này, tôi sẽ trình
bày quan điểm phân loại của mình dựa trên những khía cạnh đó.
1.1.1. Khái niệm về công lý trong lịch sử tư tưởng nhà nước và pháp luật
Theo đó, các phân đoạn phát triển của công lý tương ứng với các giai
đoạn phát triển của xã hội. Luận văn căn cứ vào một số bộ luật tiêu biểu hoặc
quan niệm của một số nhà tư tưởng tiêu biểu cho từng thời kỳ phát triển lịch
sử nhà nước để làm cơ sở cho việc phân tích sự biểu hiện của quan niệm về
công lý trong thời kỳ tương ứng.
1.1.1.1. Thời kỳ cổ đại
Trong thời kỳ này xã hội còn sơ khai, ý niệm về công lý cũng mới bắt
đầu được hình thành gắn với sự ra đời của các nhà nước và pháp luật đầu tiên.
a)

Phương Tây cổ đại

Thật thiếu sót nếu đi tìm hiểu một định nghĩa chỉ ở nơi các nhà tư tưởng
hay các triết gia lỗi lạc, đặc biệt ở giai đoạn này ở phương Tây. Bởi văn
minh phương Tây thời cổ đại gắn liền với hệ thống các truyền thuyết, thần
thoại mà ở đó thể hiện sự kiến giải vũ trụ, con người và những khát vọng của
họ. Do đó, việc đi tìm quan niệm về công lý xuất phát từ các câu truyện với
sự tồn tại của các vị thần theo tín ngưỡng của người dân thời cổ đại lúc bấy
giờ là một điều cần thiết.

7


Sớm nhất, người Ai Cập cổ đại có 2 vị thần đại diện cho công lý, đó là
nữ thần Isis và nữ thần Maats. Nữ thần Isis được cho là vị thần tượng trưng
cho Sự thât, Công bằng, Trật tự, Pháp luật Đạo đức và Công lý trong đời

sống tâm linh của người Ai Cập cổ đại. Và nữ thần Maat được biết đến là
chủ nhân của Phòng phân xử với tính cách thẳng thắn, đánh giá tất cả bằng
sự xem xét tình cảm thận trọng.
Thần thoại Hy Lạp còn lưu giữ đến ngày nay phần lớn thông qua các
tác phẩm văn học, nghệ thuật, mang tính nhân văn và tư tưởng triết học, giàu
tính duy lý, triết lý. Được cho là sự hòa quyện giữa tư duy cảm tình và tư
duy lý luận, cả hai hòa quyện tạo thành thể thống nhất và tạo nên những tác
phẩm huy hoàng thời cổ đại. Trải qua nhiều biến cố, ngày nay thần thoại Hy
Lạp chỉ còn giới hạn trong quá khứ, văn học và nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng
ta không thể phủ nhận được tính giáo dục, triết lý, giá trị sâu sắc và ý tưởng
được thể hiện trong thần thoại Hy Lạp.
Theo truyền thyết, ở thời cổ đại của Hy Lạp, Bầu trời (Uranus) và Mặt
đấy (Gaia) lấy nhau và sinh ra nữ thần Themis, một trong mười hai Titan
(thần) tối cao của đỉnh Olympus. Themis là người làm ra luật định, thiết lập
trật tự và ổn định trên thế gian để đảm bảo công lý. Themis tượng trưng cho
Công lý, là hiện thân của pháp luật và trật tự tự nhiên, khác với luật và trật tự
do con người đặt ra. Themis tham dự các cuộc tranh luận của chư thần, làm
cố vấn cho chư thần trong các dịp đó. Themis thường chủ tọa các cuộc họp
của thường nhân. Những thỏa hiệp kí kết giữa thường nhân đều được sự bảo
trợ của Themis. Sự chính trực, nghiêm minh của bà đã khiến người Hy Lạp
cổ xưa tạc tượng bà tay cầm kiếm, tay cầm cân, mắt bịt một dải băng để
chứng tỏ sự vô tư, không thiên vị của phán quan.
Themis có sáu người con với Zeus, một trong số đó đã kế tục bà trở
thành hiện thân của công lý, đó là nữ thần Dike, thường được gọi là nữ thần

8


của Lẽ phải, Chân lý và Sự thật. Nàng chuyên theo dõi việc tuân thủ quy
định của Zeus dưới trần gian và báo lại cho cha mình biết những trường hợp

vi phạm để Chúa thần giáng sấm sét trừng trị. Nhưng cuộc sống nơi trần thế
mỗi lúc một thêm hỗn loạn, những hạt giống xấu xa từ chiếc hộp Pandora
ngày càng lớn mạnh đến nỗi Dike cai quan không xuể, đành đổi tên thành
Astreae có nghĩa là “tinh cầu” và bay về trời, như một ám chỉ: công lý tuyệt
đối chỉ có thể được tìm thấy ở chân trời xa tắp, nơi người trần không thể nào
vươn tới được.
Khi người La Mã thôn tính Hy Lạp từ thế kỷ II Tr.CN, họ đã xây dựng
nữ thần Công lý của họ, nữ thần Justitia dựa trên hình tượng của nữ thần
Themis và nữ thần Dike. Theo đó, nữ thần Justitia là hiện thân của công lý
trong thần thoại La Mã. Bà là một trinh nữ sống giữa loài người cho đến khi
loài người trở nên hủ bại và tha hóa, buộc bà phải bay lên trời và hóa thân
thành chòm sao Xử nữ (Virgo). Hình tượng nữ thần Justitia thường được
xuất hiện với một vòng nguyện quế trên đầu, ngồi trên ghế, tay cầm một
chiếc gậy dài và một nhành cây. Đôi khi, bà xuất hiện khi một tay cầm thanh
gươm, một tay cầm cuộn giấy giữa hai con sư tử (dinh tổng trấn trong thành
phố Venezia).
Tuy nhiên, không phải ở nơi nào, hình tượng nữ thần tự do cũng xuất
hiện với đôi mắt bị kín. Có nhiều bức tượng và bức tranh vẽ Nữ thần Công lý
không bịt mắt, với lời giải thích rằng, Nữ thần Công lý với quyền năng của
mình, không cần bịt mắt vẫn có thể tránh được sự tác động của các yếu tố
ngoại cảnh và đảm bảo được việc xét xử công bằng, không thiên vị. Điển
hình như tượng thần Themis tại Tòa án tối cao Brisbane, tiểu bang
Queensland, Australia hay thần Themis ở tòa nhà thượng viện Nga.
Qua những hình tượng thần thoại kể trên, chúng ta có thể thấy được, dù
ở các khu vực địa lý, nền văn minh khác nhau nhưng, công lý – ước vọng

9


của con người luôn được thể hiện bởi sự nghiêm minh, khách quan của pháp

luật. Ở đây, công lý dường như tách bạch khỏi công bằng, khi không có sự
xuất hiện của bất kỳ một tầng lớp, hay một giai cấp nào cả. Nó chỉ là quan hệ
giữa cái đúng – sai, cái thiện – ác và pháp luật – sự trừng phạt.
Trong nền văn minh Hy Lạp cổ đại, công lý được cho rằng bắt nguồn từ
trật tự xã hội, một xã hội ổn định, có trật tự sẽ thúc đẩy sự phát triển của
công lý và ngược lại, một nền công lý mạnh mẽ sẽ thúc đẩy một xã hội trật
tự, ổn định. Plato, triết gia vĩ đại của Hy Lạp, người mà ảnh hưởng của ông
được mô tả một cách tuyệt vời bởi nhà triết học thế kỷ 20 Alfred North
Whitehead: “Nét đặc trưng chung rõ ràng nhất của truyền thống triết học
châu Âu là nó bao gồm một chuỗi những phụ chú cho tác phẩm của Plato”,
đã đưa những quan điểm, tư tưởng của mình về vấn đề công lý trong những
tranh luận về vấn đề đạo đức và pháp luật, đặc biệt trong cuốn Luật pháp, tác
phẩm cuối cùng còn dang dở trước khi ông qua đời.
Trong Quyển IV tác phẩm Luật pháp, khi bàn về cuộc sống đức hạnh,
Platon cho rằng, công lý hay những nguyên tắc tôn giáo cùng những đạo đức
đóng vai trò dẫn dắt cuộc sống của họ:
Này các bạn, Thượng đế, theo truyền thuyết, nắm giữ trong tay
Ngài cái đầu, cái giữa và cái cuối của mọi sự vật, nghĩa là chúng vận
hành theo luật tự nhiên do Ngài xếp đặt trên một đường thẳng cho đến
lúc kết thúc. Công lý luôn đi theo Ngài và sẽ trừng phạt những kẻ không
thực hành đến nơi đến chốn luật của Thượng đế…hắn bị luận phạt vì
công lý không có gì khác hơn là phải thuận nhận mà thôi. [2, tr. 818]
Như vậy, khi nói về pháp luật, Platon nhấn mạnh đến luật tự nhiên, theo
đó, công lý với nghĩa trừng phạt những kẻ vi phạm luật tự nhiên cũng mang
tính tự nhiên. Ngoài ra, sự “thuận nhận” hay “tâm phục khẩu phục” cũng
mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho công lý. Tức là kẻ làm sai cũng nhận thấy cái

10



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alexis De Tocqueville, dịch giả Phạm Toàn (2013), Nền dân trị Mỹ,
NXB Tri thức, Hà Nội.
2. Benjamin Jowett & M.J.Knight (2008), The Essential Plato, Plato
chuyên khảo, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
3. TSKH. Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí (2004), Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nôi, Hà Nội.
4. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966.
5. Forrest E.Baird (2005), Tuyển tập danh tác triết học từ Plato đến
Derrida, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
6. Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội
(2008), Nxb Công an nhân dân.
7. Hiến pháp 2013 nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
8. Jean-Jacques Rousseau, dịch giả GS.Dương Văn Hóa (2013), Khế ước xã
hội, Nxb Thế giới NXB thế giới, Hà Nội.
9. John Loke (2014), Khảo luận thứ hai về chính quyền – Chính quyền dân
sự, NXB Tri thức, Hà Nội.
10. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
11. Luật Tố tụng Dân sự năm 2005.
12. Luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
13. Naomi Ozaniec, do Nguyễn Kiên Trường và nhóm cộng sự biên dịch
(2008), Trí tuệ Ai cập, NXB Từ điển bách khoa.
14. Niccolo Machiavelli, dịch giả Vũ Thái Hà (2013) Quân vương, thuật cai
trị, NXB Thế giới, Hà Nội.
15. Pháp luật cho tất cả mọi người- Tập 1, Báo cáo của Ủy ban về đảm bảo
pháp lý cho người nghèo- UNDP 2008.
16. Plato, “Cộng hòa”, dịch giả Đỗ Khánh Hoan (2012), NXB Thế giới, Hà Nội.

11



17. Nguyễn Ái Quốc (2008), Bản án chế độ thực dân Pháp, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
18. Raymond Wacks, dịch giả Phạm Kiều Tùng (2011), Triết học luật pháp,
NXB Tri thức, Hà Nội
19. TS. Lê Hữu Thể, TS.Đỗ Văn Đương, ThS. Nguyễn Thị Thủy (2013),
Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mởi thủ tục tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
20. TS.Nguyễn Minh Tuấn (2014), Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp
luật thế giới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948.
22. TS. Nguyễn Văn Sáu (2001), “Cộng đồng làng xã Việt Nam”, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người – quyền công dân và Trung tâm
Nghiên cứu tội phạm học và tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nôi (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình
sự, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự
Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
25. Từ điển bách khoa Triết học.
26. Từ điển Luật học (1999), NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội
27. Viện Nghiên cứu và chính sách công, Bình luận khoa học Hiến pháp 2013.
28. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1993), Nghiên cứu tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, thuộc đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Nhà nước “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân,
do dân, vì dân” năm 1993 do PTS. Nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng
Bộ Tư pháp làm chù nhiệm đề tài.


12



×