Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với lao động trẻ em tại thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.45 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ
NHÂN VĂN
--------------------------------------------

NGUYỄN THỊ BÍCH HẰNG

VAI TRÒ CỦA NHÂN VIÊN CÔNG TÁC
XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG TRẺ EM
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
(Nghiên cứu tại Quận Ba Đình và Huyện
Thƣờng Tín)

TÓM TĂT LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công tác xã hội

Hà Nội - 2014


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời gian qua, quá trình đổi mới đã mang lại kết quả rõ
rệt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng
cao, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em có nhiều chuyển
biến tích cực từ nhận thức đến hoạch định chính sách và tổ chức thực
hiện. Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, một
mặt mang lại nhiều cơ hội đưa đất nước theo kịp với khu vực và thế
giới, mặt khác cũng tạo ra môi trường có nhiều diễn biến phức tạp và
thách thức mới đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Tình hình lao động trẻ em ở nước ta đã và đang gây ra nhiều bức
xúc. Theo kết quả điều tra lao động trẻ em năm 2012, nước ta có


khoảng 1,7 triệu lao động trẻ em từ 5-17 tuổi, trong đó có khoảng
1,5 triệu em ở độ tuổi từ 10-16, đây là độ tuổi mà nhiều trẻ em có
hoàn cảnh đặc biệt phải tham gia lao động kiếm sống, bỏ nhà đi lang
thang, phải làm việc những công việc không phù hợp với sức khoẻ
và tâm sinh lý của trẻ em, (theo báo cáo của 63/63 tỉnh, thành phố và
ước tính toàn quốc đến tháng 12 năm 2012 có trên 39 ngàn trẻ em
phải lao động trong điều kiện năng nhọc, độc hại, nguy hiểm) đa
phần những trẻ em nay thường có những hoàn cảnh gia đình hết sức
khó khăn hoặc đời sống gia đình có nhiều diễn biến phức tạp, tính
riêng Hà Nội năm 2012 có khoảng 7 ngàn trẻ em lao động trong điều
kiện nặng nhọc, nguy hiểm. Bản thân các em thiếu thốn cả về vật
chất lẫn tinh thần, hầu hết các em không chỉ tự nuôi sống bản thân
mà còn phải chắt chiu, dành dụm gửi tiền giúp đỡ gia đình các em,
gặp nhiều rủi ro trong công cuộc mưu sinh, khi mắc bệnh hoặc gặp
tai nạn không được chăm sóc chu đáo. Trước thực trạng trên, công

1


tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đặc biệt là lao động trẻ em
chưa được coi trọng. Đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội chuyên
trách các cấp làm việc với trẻ em, gia đình và cộng đồng chưa có
hoặc còn rất thiếu, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu, hầu hết
các phường xã trên địa bàn Hà nội chưa có đội ngũ cán bộ làm công
tác xã hội được đào tạo cơ bản về bảo vệ trẻ em, phòng ngừa tình
trạng lao động trẻ em. Chính sách đối với đội ngũ cán bộ này chưa
được quan tâm đúng mức; công tác xã hội mới được công nhận là
một nghề; chưa có các cán bộ công tác xã hội chuyên nghiệp cũng
như thiếu phương pháp tiếp cận mang tính lý luận và toàn diện để
phòng ngừa và có những dịch vụ can thiệp, hỗ trợ kịp thời, phù

hợp. Đây cũng là lý do vì sao tôi chọn đề tài: “ Vai trò của nhân
viên công tác xã hội đối với lao động trẻ em tại Thành phố Hà
Nội (nghiên cứu tại quận Ba Đình và huyện Thường Tín)”.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1 Trên th giới
Lao động trẻ em đã trở thành chủ đề được thế giới quan tâm
trong nhiều năm qua, đặc biệt là Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và
đối với các chính phủ các nước. Trên thế giới có rất nhiều những
nghiên cứu đã được thực hiện; đồng thời cũng có nhiều dự án và
chương trình hành động cũng như các chiến dịch truyền thông đã
được phát động nhằm chia sẻ thông tin và giải quyết tình trạng lao
động trẻ em.
Tình trạng bóc lột sức lao động trẻ em đang diễn ra phổ biến
ở nhiều nước trên thế giới. Theo báo cáo của Bộ Lao động Nam Phi
công bố ngày 11/6/2008 ( năm nào), hiện nước này có hơn 4,8 triệu
lao động trẻ em từ 5 đến 17 tuổi. Mặc dù tại Nam Phi, việc sử dụng

2


trẻ em làm những công việc nguy hiểm và độc hại như pha trộn hoặc
phun thuốc trừ sâu, điều khiển các loại máy móc dễ xảy ra tai nạn,
máy móc có động cơ lớn và nặng hoặc làm việc trong những điều
kiện thời tiết khắc nghiệt, đều bị cấm.
Trẻ em thường làm việc trong điều kiện hà khắc như phải
vào trong các hầm sâu dưới lòng đất để khuân vác những thứ nhiều
khi còn nặng hơn cả trọng lượng cơ thể của các em. Trước thực trạng
lao động trẻ em, đặc biệt là những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất
hiện nay, ngày 8/5/2008, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã kêu gọi
cộng đồng thế giới hành động mạnh mẽ hơn nữa để tiếp tục giảm và tiến

tới loại trừ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất trên toàn cầu vào năm
2016.
2.2 Tại Việt Nam
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, tình trạng lao động trẻ
em xuất hiện từ khá lâu trong lịch sử. Gần đây vấn đề này càng trở
nên bức xúc khi số lượng lao động trẻ em không ngừng tăng lên, bên
cạnh đó là một số biểu hiện của mặt trái của nền kinh tế thị trường,
đặt ra và tiềm ẩn nhiều vấn đề xã hội nan giải, đòi hỏi phải giải quyết
kịp thời.
Trong những năm qua, có rất nhiều đề tài, công trình nghiên
cứu khoa học về lao động trẻ em như:
“Báo cáo Phân tích tình hình trẻ em ở Việt Nam” (19) do
UNICEF thực hiện năm 2010. Báo cáo lấy cách tiếp cận dựa trên
quyền con người, xem xét tình hình trẻ em dựa trên quan điểm các
nguyên tắc chính về quyền con người như bình đẳng, không phân
biệt đối xử và trách nhiệm giải trình.

3


Đề tài: “Điều tra thu thập thông tin ban đầu nhằm xác định
đối tượng hưởng lợi của dự án lao động trẻ em tại 05 tỉnh Việt Nam”
của Viện khoa học Lao động xã hội. Thực hiện năm 2011.
Đề tài nghiên cứu khoa học: “Tình hình lao động trẻ em –
thực trạng và giải pháp” của TS Nguyễn Hải Hữu – Cục trưởng Cục
Bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Thực hiện năm 2010 (27 tr 11-60).
Nghiên cứu “Một số vấn đề cơ bản về trẻ em Việt Nam”
(14.tr 8) của tác giả Đặng Bích Thủy đã chỉ ra những vấn đề xã hội
mang tính gay gắt mà trẻ em đang phải đối mặt như bất bình đẳng
trong tiếp cận các cơ hội chăm sóc, bảo vệ, lao động sớm, bị xâm

hại, bị bỏ rơi.
Báo cáo “Điều đầu tiên trước hết trong lao động trẻ em: xoá
bỏ những công việc độc hại với trẻ em” do Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO) phối hợp với quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) điều
tra năm 1999, “một thế giới phù hợp với trẻ em” được thực hiện năm
2001 dưới sự tài trợ của Quỹ bảo trợ nhi đồng Anh.
Ngoài ra, còn rất nhiều các đề tài, báo cáo nghiên cứu khác
đề cập đến vấn đề lao động trẻ em.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1 Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ lý luận
lao động trẻ em và bảo vệ lao động trẻ em, qua đó bổ sung và làm
phong phú thêm cách nhìn nhận, đánh giá, các biện pháp can thiệp
,phòng ngừa và vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với lao động
trẻ em

4


3.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài chỉ ra cách nhìn tổng quan về tình hình lao động trẻ
em, những nguy cơ và thách thức đối với các em khi làm việc ở
những môi trường độc hại, nguy hiểm và vai trò của nhân viên
CTXH trong hoạt động thực tiễn để giảm thiểu tình trạng này.
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Lao động trẻ em, các chính sách, cơ chế, luật pháp liên quan
đến lao động trẻ em và nhân viên xã hội đối với lao động trẻ em.
4.2 Khách thể nghiên cứu
Nhóm trẻ em lao động trên địa bàn thành phố Hà Nội ( chọn
quận Ba Đình và huyện Thường Tín của Thành phố Hà Nội).

5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi nội dung nghiên cứu
Tác giả tập trung vào tìm hiểu vai trò của nhân viên công tác
xã hội với lao động trẻ em với các nội dung chủ yếu sau: Số lượng,
độ tuổi, giới tính, tình trạng đi học, các công việc trẻ em lao động
tham gia, nguyên nhân, điều kiện làm việc, sức khoẻ, thu nhập của
lao động trẻ em, các hình thức lao động, hệ quả của lao động trẻ em.
Qua các nội dung nghiên cứu trên để có các giải pháp phòng ngừa và
giải quyết tình trạng lao động trẻ em và phát huy vai trò của nhân
viên công tác xã hội đối với việc phòng ngừa và giải quyết tình trạng
lao động trẻ em trên địa bàn nghiên cứu.
5.2. Phạm vi không gian
Nghiên cứu được thực hiện tại địa bàn thành phố Hà Nội,
trong đó lấy mẫu nghiên cứu tại quận Ba Đình và 02 xã Nhị Khê và

5


Hiền Giang thuộc huyện Thường Tín. Bởi vì quận Ba Đình và huyện
Thường Tín là nơi tập trung nhiều nhất các trẻ em lao động sớm và
dưới nhiều hình thức, đa dạng các đối tượng.
5.3. Phạm vi thời gian
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 5/2012 đến hết tháng
12/2013
6. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, Thực trạng lao động trẻ em trên địa bàn thành phố
Hà Nội như thế nào? Nguyên nhân nào dẫn đến lao động trẻ em ?
cuộc sống hiện tại của các em ra sao?
Thứ hai, Nhân viên công tác xã hội có vai trò như thế nào
đối với việc phòng ngừa và giải quyết tình trạng lao động trẻ em?

7. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
7.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tình hình lao động trẻ em tại thành phố Hà
Nội, đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hạn chế tình trạng
lao động trẻ em hiện nay, trên cơ sở đó xác định vai trò của nhân
viên công tác xã hội trong việc phòng ngừa, giải quyết vấn đề lao
động trẻ em trên đại bàn thành phố Hà Nội.
7.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu và đánh giá thực trạng lao động trẻ em đang diễn ra
tại quận Ba Đình và huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội. Nghiên
cứu xác định nguyên nhân và đánh giá các hệ quả của vấn đề lao
động trẻ em tới đời sống xã hội và đưa ra một số giải pháp phòng
ngừa. Vai trò của nhân viên công tác xã hội đối với lao động trẻ em.

6


8. Giả thuy t nghiên cứu
Lao động trẻ em trên địa bàn thành phố Hà nội là một vấn đề xã hội
bức xúc.
Nếu có sự hỗ trợ, can thiệp của nhân viên CTXH thì lao
động trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội có cơ hội được trợ giúp
về tâm sinh lý, trợ giúp về chỗ ở, hồi gia, tiếp cận các dịch vụ giáo
dục, y tế và phúc lợi xã hội khác tốt hơn và tình trạng lao động trẻ
em sẽ có xu hướng giảm
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
9.1. Phƣơng pháp nghiên cứu thứ cấp:
Đây là phương pháp thu thập thông tin về lao động trẻ em từ
những nguồn đã có từ trước và đã được công bố rộng rãi như:
Nghiên cứu sử dụng tư liệu từ các công trình sau:

Các báo cáo: Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu cấp bộ tình
hình lao động trẻ em thực trạng và giải pháp của TS. Nguyễn Hải
Hữu chủ nhệm năm 2010. Báo cáo tổng kết Quyết định 19/2004/QĐ –
TTg ngày 12/02/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương
trình Ngăn ngừa và giải quyết tình trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị
xâm hại tình dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc, trong điều kiện độc
hại và nguy hiểm giai đoạn 2004 -2010…. Và các văn bản pháp lý:
Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em năm 1990, Công ước số
182 ( tên công ước) và công ước số 138 ( tên công ước), Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em sửa đổi năm 2004, Bộ Luật Lao
động bổ sung và sửa đổi năm 2012, Nghị định 67/2007/NĐ-CP và
Nghị định 13/2010/NĐ-CP bổ sung Nghị định 67/2007/NĐ/CP, Chỉ
thị số 1408/CT-TTg ngày 1/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ
….Ngoài ra tác giả nghiên cứu từ các công trình nghiên cứu, sách,

7


báo, đánh giá, bài viết về trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, lao
động trẻ em, mô hình chăm sóc, bảo vệ trẻ em lao động của nhiều
nhà khoa học, nhà nghiên cứu, học giả trong cả nước…
9.2 Phƣơng pháp nghiên cứu sơ cấp:
9.2.1. Cách tiếp cận
Vận dụng cách tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu, nhìn nhận
thành phố Hà Nội trong đó quận Ba Đình và 02 xã là Nhị Khê và
Hiền Giang thuộc huyện Thường Tín là một hệ thống bao gồm các
thành tố như phòng LĐTB&XH quận Ba Đình và huyện Thường
Tín, người sử dụng lao động, các Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em, các
cơ quan ban ngành đoàn thể, cán bộ lãnh đạo, cán bộ trẻ em, nhân
viên chăm sóc trẻ em, gia đình trẻ...

9.2.2 Khảo sát mẫu về lao động trẻ em
Đối tượng: Lao động trẻ em độ tuổi từ 10 đến dưới 16 tuổi tại
Quận Ba Đình và 02 xã Nhị Khê và Hiền Giang thuộc huyện Thường
Tín – TP Hà Nội.
Quy mô mẫu khảo sát: 100 em trong đó 40 em quận Ba Đình
và 60 em huyện Thường Tín
Phương pháp chọn mẫu: Tác giả sử dụng phương pháp chọn
mẫu ngẫu nhiên, chọn mẫu thuận tiện.
9.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Đối tượng: Cán bộ làm công tác Bảo vệ chăm sóc trẻ em thuộc
phòng Lao động -TBXH Quận Ba Đình và huyện Thường Tín); địa
phương (Ủy ban nhân dân tỉnh/huyện/xã thuộc địa bàn quận Ba Đình và
huyện Thường Tín): 10 phiếu. Trẻ em lao động: 10 Phiếu
9.2.4. Phương pháp quan sát

8


Quan sát thể trạng và các biểu hiện trong giao tiếp, ứng xử
giữa trẻ với trẻ, giữa trẻ với chủ sử dụng lao động để biết được mối
quan hệ của trẻ với công việc, với chủ sử dụng lao động.
Quan sát công việc mà trẻ đang làm, các trang thiết bị, dụng
cụ làm việc để biết được môi trường và điều kiện làm việc của trẻ.
Quan sát thái độ, hành vi của chủ sử dụng lao động đối với
các em trong các hoạt động hằng ngày.
Quan sát thái độ, hành vi giữa cha mẹ - gia đình có trẻ em
lao động sớm với các em.
9.2.5. Phương pháp x l số liệu
Phương pháp xử lý số liệu thống kê: dùng phần mềm SPSS.


NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Các khái niệm công cụ
1.1.1.1 Khái niệm Trẻ em
Công ước quốc tế về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có
nghĩa là người dưới 18 tuổi” [16;tr.2].
Tại Việt Nam, căn cứ vào những điều kiện, đặc điểm của con
người Việt Nam, Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ban hành luật số 25/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004
về bảo vê, chăm sóc và giáo dục trẻ em, trong đó quy định: “Trẻ em
là những công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [20;1].

9


Trẻ em trong nghiên cứu này là những người dưới 16 tuổi,
chưa phát triển hoàn thiện về tâm lý - sinh lý và chưa trưởng thành
về xã hội. Việc lựa chọn độ tuổi này là dựa vào Công ước Liên Hợp
Quốc về quyền trẻ em và nó cũng phù hợp với thông lệ quốc tế cũng
như các nghiên cứu về lao động trẻ em ở nước ta trong những năm
gần đây.
1.1.1.2 Khái niệm lao động
Lao động là hoạt động của con người nhằm tạo ra sản phẩm vật
chất và tinh thần cho xã hội; Tuy vậy, cũng có giải thích khác: Lao động
là sự nỗ lực thể lực, tinh thần và tình cảm định hướng cho việc sản xuất
ra sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng
của cá nhân và xã hội (nhu cầu tồn tại) và đáp ứng nhu cầu bộc lộ,
khẳng định và phát triển năng lực con người ở mỗi cá nhân.

1.1.1.3 Khái niệm việc làm
Theo quy định của Bộ Luật lao động sửa đổi năm 2012 thì
mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều
được thừa nhận là việc làm. Vì trên thực tế có nhiều việc tạo ra thu
nhập nhưng không được coi là việc làm vì nó vi phạm pháp luật hoặc
không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, ví dụ như buôn bán
ma túy, hoạt động mại dâm...
1.1.1.4 Khái niệm lao động trẻ em
Lao động trẻ em là ám chỉ những người dưới 18 tuổi phải
làm những công việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm,
lao động trong điều kiện bị cưỡng bức, bóc lột sức lao động hoặc
làm quá nhiều thời gian so với độ tuổi của trẻ em; việc lao động này
gây ảnh hưởng tới việc phát triển về thể chất, tâm lý, tình cảm, nhận
thức,đạo đức và xã hội của trẻ em.

10


1.1.1.5 Phân biệt trẻ em tham gia lao động và lao động trẻ
em
Mặc dù chưa có sử dụng một định nghĩa thống nhất về lao
động trẻ em trên khía cạnh kĩ thuật, nhưng hầu hết các cách tiếp cận
đều thống nhất rằng tiêu chí chính để phân biệt giữa LĐTE và trẻ em
tham gia lao động chính là: (i) tính chất công việc dẫn đến việc ảnh
hưởng tiêu cực đối với sự phát triển của trẻ, đặc biệt là về thể chất,
nhân cách đạo đức (ii) điều kiện lao động có nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm hay không (iii) thời gian làm việc có phù hợp với độ tuổi
hay không. Trên thực tế, trẻ em tham gia lao động là khái niệm để
chỉ sự tham gia không mang tính chất bóc lột của trẻ em vào các hoạt
động kinh tế, không gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của trẻ em

và pháp luật quốc gia không cấm.
Sự tham gia lao động, làm việc của trẻ em khác với lao động
trẻ em. Việc tham gia làm việc của trẻ em không gây ra những ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển của trẻ em vì đó là những việc làm
tự nguyện hoặc một hoạt động phi lợi nhuận những công việc gia
đình. Đồng thời nó cũng mở ra những công việc trong cuộc sống và
cho trẻ em những kinh nghiệm mới mẻ. Trái lại, lao động trẻ em
hướng đến mục tiêu kinh tế, trẻ em phải làm việc nhiều giờ trong
ngày, thời gian làm việc liên tục để tạo ra sản phẩm, làm suy giảm
sức lực, ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần của trẻ em; (iii) Thời
gian làm việc trong ngày, trong tuần so với độ tuổi của trẻ em, nếu
làm quá thời gian theo quy định của pháp luật so với độ tuổi thì đó là
lao động trẻ em

11


1.1.1.6. Trẻ em tham gia hoạt động kinh tế
Trẻ em tham gia họat động kinh tế là “những trẻ em tham gia
vào các hoạt động sản xuất- kinh doanh- dịch vụ, không phân biệt
sản xuất để tiêu dùng hay để bán, được trả lương hay không trả
lương, chỉ làm việc vài giờ hoặc làm đầy đủ thời gian, thỉnh thoảng
hay thường xuyên làm việc, công việc hợp pháp hay không hợp pháp
nhưng phải làm việc ít nhất một giờ đồng hồ vào bất kỳ ngày nào
trong tuần tham chiếu” [4; tr.21]. (là khoảng thời gian 7 ngày tính từ
thời điểm điều tra trở về trước)
1.1.1.7 Khái niệm công tác xã hội
Theo đề án 32 của Thủ tướng Chính phủ thì CTXH là một
nghề chuyên nghiệp, có triết lý và phương pháp tiếp cận khoa học
riêng, nó góp phần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và

con người, hạn chế phát sinh các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng
cuộc sống của thân chủ xã hội, hướng tới một xã hội lành mạnh,
công bằng, hạnh phúc cho người dân và xây dựng hệ thống an sinh
xã hội tiên tiến.
1.1.1.8. Khái niệm nhân viên công tác xã hội
Theo quan niệm của hiệp hội công tác xã hội thế giới thì
Nhân viên công tác xã hội là là người làm việc chính trong lĩnh vực
công tác xã hội và được đào tạo cơ bản (trình độ cử nhân) về công
tác xã hội; nhưng đối với Việt Nam thi nhân viên công tác xã hội là
người làm việc chính trong lĩnh vực công tác xã hội và được đào tạo
cơ bản, đào tạo ngắn hạn hoặc được tập huấn nghiệp vụ về công tác
xã hội.

12


1.1.1.9. Khái niệm vai trò và vai trò nhân viên Công tác xã
hội
Từ khái niệm vài trò và khái niệm Công tác xã hội, tác giả
đưa ra cách hiểu về vai trò của công tác xã hội như sau: “Vai trò của
công tác xã hội là tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và
nghĩa vụ gắn liền với vị thế của tổ chức của những người làm công
tác xã hội cũng như vị trí của hoạt động công tác xã hội trong đời sống
xã hội”.
1.2 Lý thuy t ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1 Thuy t vai trò xã hội
Ứng dụng thuyết vai trò trong nghiên cứu:
Vận dụng lý thuyết vai trò trong nghiên cứu, tác giả nhận
thấy cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác bảo vệ trẻ
em và chăm sóc trẻ em, các cơ quan ban nghành đoàn thể, gia đình

trẻ, bản thân trẻ tại địa bàn nghiên cứu có những vai trò nhất định.
Mỗi một vai trò thể hiện qua những công việc, nhiệm vụ, hành vi cụ
thể.
1.2.2 Thuy t hệ thống sinh thái
Dưới góc độ của CTXH hệ thống hệ thống là tập hợp các
nhân tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ với nhau để hoạt động
thống nhất.
Ứng dụng thuyết vai trò trong nghiên cứu:
Công tác bảo vệ trẻ em, lý thuyết hệ thống sinh thái chỉ ra
sự tác động mà các tổ chức, các chính sách, các cộng đồng, nhóm,
gia đình ảnh hưởng lên trẻ em. Lý thuyết hệ thống sinh thái cho
phép phân tích thấu đáo sự tương tác giữa trẻ em và hệ thống sinh

13


thái – môi trường xã hội. Mỗi cá nhân trẻ đều có một môi trường
sống và một hoàn cảnh sống, chịu tác động của các yếu tố trong
môi trường sống và cũng tác động, ảnh hưởng ngược lại môi
trường xung quanh.
1.3 Cơ sở thực tiễn
1.3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
1.3.1.1 Vị trí địa lý
1.3.1.2 Điều kiện tự nhiên
1.3.1.3 Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.3.2 Quan điểm của Đảng và Nhà nước về lao động trẻ em
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn có quan điểm và chính
sách nhất quán về quyền trẻ em, theo đó, công tác bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em được coi là một trong những nhiệm vụ chính trị
trọng tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền từ trung ương đến địa

phương, là một vấn đề ưu tiên trong mọi chính sách và chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hệ thống pháp luật, công tác
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã từng bước được hoàn
thiện. Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em được tăng cường. Công tác bảo vệ, xây dựng môi trường sống an
toàn và lành mạnh cho trẻ em được chú trọng, đời sống văn hóa, tinh
thần, vui chơi, giải trí, phúc lợi xã hội và các quyền dành cho trẻ em
ngày càng được bảo đảm.

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG TRẺ EM TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
(Nghiên cứu trƣờng hợp tại quận Ba Đình và huyện Thƣờng Tín)

14


2.1 Thực trạng về lao động trẻ em
2.1.1. Tình hình bi n động về lao động trẻ em giai đoạn
2005 đ n nay
Theo báo cáo của các địa phương thì số trẻ em lao động trong
điều kiện nặng nhọc độc hại và nguy hiểm nhóm dưới 16 tuổi chỉ dao
động trong khoảng 68 nghìn (2005) đến 30,080 nghìn (2012) nhưng trên
thực tế con số này có thể còn cao hơn nhiều; Hà Nội – Ước tính 9,6%
dân số trẻ em trong độ tuổi từ 5 đến 17 ở Việt Nam là lao động trẻ
em. Đây là một trong những kết quả chính từ cuộc Điều tra Quốc gia
về Lao động trẻ em được công bố tại Hà Nội ngày 14/3. Tỷ lệ lao
động trẻ em tại Việt Nam thấp hơn tỷ lệ trung bình của toàn thế giới
và rất gần tỷ lệ của khu vực. Báo cáo mới nhất của ILO về Xu hướng
Lao động trẻ em toàn cầu ước tính trong năm 2012, khoảng 168 triệu
trẻ em ở độ tuổi từ 5 – 17 là lao động trẻ em trên toàn thế giới, chiếm

khoảng 10,6% dân số trẻ em. Tỷ lệ này là 9,3% tại khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương.
Báo cáo Quốc gia về Lao động trẻ em 2012 là báo cáo đầu
tiên về vấn đề này tại Việt Nam. Với sự hỗ trợ kỹ thuật từ ILO, Tổng
cục Thống kê đã khảo sát trên 50.000 hộ gia đình trên toàn quốc và
số liệu đó đã được Viện Khoa học Lao động và Xã hội sử dụng để
hoàn thành báo cáo.
Trong tổng số 1,75 triệu lao động trẻ em, có khoảng 1,315 triệu
em, chiếm gần 75% tổng số lao động trẻ em, chiếm gần 46,6% tổng số trẻ
em hoạt động kinh tế và chiếm gần 7,2% trẻ em từ 5-17 tuổi có nguy cơ
làm trong các nghề thuộc nhóm nghề cấm bị sử dụng lao động chưa thành
niên hoặc điều kiện lao động có hại theo quy định của Thông tư số 09/TTLĐ ngày 13/4/1995.

15


2.1.2 Thực trạng chung về lao động trẻ em tại Hà Nội
2.1.2.1 Tình trạng đi học
Qua khảo sát 100 lao động trẻ em tại 02 địa bàn là quận Ba
Đình và huyện Thường Tín – Hà Nội thì hầu hết số lao động trẻ em
được điều tra đều nhập học tiểu học đúng độ tuổi tại các trường công
lập. Kết quả khảo sát cũng cho thấy tại huyện Thường Tín, tỷ lệ bỏ
học ở trẻ em lao động tương đối cao, ở độ tuổi 10-11 (sau khi học
xong tiểu học) và ở độ tuổi 14-15 (sau khi tốt nghiệp trung học cơ
sở). Trong 60 lao động trẻ em được điều tra thì có tới 16 em nữ
(chiếm 26.6%) và 20 em nam (chiếm 33.3%) bỏ học. Có 01 trường
hợp chưa từng đi học và không biết chữ. Khi đó, tại quận Ba Đình
trong quá trình nghiên cứu 40 em lao động có đến 17 em nam bỏ học
(chiếm 42.5%), 11 em nữ (chiếm 25%), trường hợp chưa từng đi học
không có em nào điều đó chứng tỏ giáo dục phổ cập cho các em ở

nơi đây toàn diện, hầu hết đều đi học và biết chữ.
Tóm lại, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em bỏ
học để tham gia lao động tại huyện Thường Tín gồm: phải tham gia
lao động giúp việc cho cha mẹ, không có tiền đi học, học lực yếu, ốm
đau, bệnh tật và có cả nguyên nhân do cha mẹ bắt nghỉ học.
2.1.2.2. Môi trường sống hiện tại của lao động trẻ em
Đa phần trẻ em lao động sống trong những hộ gia đình có
hoàn cảnh kinh tế khó khăn, điều kiện sống nghèo nàn, không đảm
bảo cho sự phát triển bình thường của trẻ. Trong hộ gia đình có lao
động trẻ em, do kinh tế nghèo nàn nên nhiều bậc cha mẹ không thể lo
được cho con cái các điều kiện sinh sống tối thiếu, các em phải sinh
sống trong các ngôi nhà ở tạm bợ, không có các công trình vệ sinh,

16


không có/thiếu nước sạch. Trong khi đó, tại huyện Thường Tín tác
giả nhận thấy chủ sử dụng lao động trong các làng nghề chưa trang
bị đầy đủ các thiết bị bảo hộ làm việc cho các em, dẫn đến trẻ em lao
động ở đây đang phải đối diện với nhiều nguy cơ đe dọa về sức khỏe
như: điếc tai do phải làm việc gò, hàn, xì trong môi trường tiếng
động lớn hàng giờ liền, các bệnh về mắt và phổi do hít phải khí than
và chất tẩy, đánh bóng đồ mỹ nghệ và các bệnh về xương khớp do
phải ngồi lâu quá nhiều nên các em hay mắc các bệnh ngoài da do
nhiều khi mất nước mà thời tiết nóng nực không được tắm, mệt quá
cũng mặc kệ và cứ thế ăn rồi lăn ra ngù do làm việc cả ngày đã quá
mệt mỏi rồi.
2.1.2.3 Thời gian làm việc của trẻ em lao động
Kết quả điều tra 40 lao động trẻ em ở tại quận Ba Đình và 60
lao động trẻ em huyện Thường Tín về thời giờ lao động của lao động

trẻ em cũng cho thấy thời gian làm việc bình quân một ngày của lao
động trẻ em là khoảng 7 - 8 giờ. Trong đó nhóm trẻ em có độ tuổi từ
15 -17 tuổi có thời gian làm việc bình quân cao hơn số còn lại là > 8
giờ/ngày. Độ dài của công việc phụ thuộc nhiều vào lĩnh vực hoạt
động kinh tế và công việc cụ thể mà lao động trẻ em đang tham gia.
2.1.2.4 Thu nhập của trẻ em lao động
Thực trạng hiện nay qua khảo sát tại quận Ba Đình, để kiếm
sống và trợ giúp gia đình một số trẻ em tuổi từ 10 – 13 tuổi đang làm
thuê trong các cơ sở dịch vụ như nhà hàng, quán ăn, đi ở giúp việc
trong các gia đình, trẻ lang thang kiếm sống có mức thu nhập trung
bình 800.000 – 1.500.000đ chiếm 62.5%, số trẻ em có mức thu nhập
trung bình dưới 700.000đ chiếm 25% và một số ít có mức thu nhập
trên 2.000.000 đ/tháng chiếm 12.5% . Đối với trẻ em tự làm như đi

17


bán hàng rong, vé số, lượm ve chai,… thì thu nhập cũng chỉ được
khoảng 500.000đ/tháng. Nhìn chung, mức thu nhập của trẻ em lao
động tại quận Ba Đình không quá thấp, trẻ em trai có thu nhập cao
hơn so với trẻ em gái, thu nhập tỷ lệ thuận với tuổi của trẻ, trẻ lớn
thu nhập nhiều hơn trẻ nhỏ.
Tại huyện Thường Tín, theo lĩnh vực kinh tế, trẻ em lao
động trong lĩnh vực công nghiệp có thu nhập cao hơn trẻ em lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ.
2.1.2.5 Điều kiện làm việc
Tóm lại, nhóm trẻ em họat động kinh tế tại Hà Nội (quận Ba
Đình và huyện Thường Tín) trong lĩnh vực công nghiệp có môi
trường làm việc kém nhất (xét theo góc độ có nhiều yếu tố ảnh
hưởng xấu), tiếp đến là nhóm trẻ em lao động trong lĩnh vực dịch vụ

.
2.2 Nguyên nhân dẫn đ n lao động trẻ em
Trong quá trình khảo sát tại 02 địa bàn nghiên cứu là phường
Phúc Xá – Ba Đình và 02 xã Nhị Khê và Hiền Giang thuộc huyện
Thường Tín cho thấy có rất nhiều yếu tố dẫn đến lao động trẻ em,
mỗi yếu tố có vai trò và mức độ tác động khác nhau trong những
hoàn cảnh khác nhau. tất cả những yếu tố bên trong đều có thể trực
tiếp hay gián tiếp, ở mức độ này hay mức độ khác, đẩy trẻ em trong
các gia đình này vào vòng xoáy của lao động trẻ em. Về những
nguyên nhân bên ngoài, lao động trẻ em có tính phổ biến trong các
gia đình lao động nhập cư hoặc các dân tộc thiểu số. Đây là các
nhóm thường khó tiếp cận với dịch vụ xã hội một cách bình đẳng
(trong các tài liệu nước ngoài thường gọi là nhóm bị gạt ra bên lề xã
hội) và sống dưới mức nghèo khổ. Một yếu tố khác đó là những tham

18


vọng vật chất của bản thân trẻ em và của gia đình các em. Một
nguyên nhân “bên ngoài” khác nêu ở bảng trên là sự khủng hoảng về
kinh tế, chính trị hay xã hội. Điều này tác động trực tiếp đến các gia
đình nghèo, buộc các gia đình đó phải huy động mọi thành viên, kể
cả trẻ em, tham gia làm việc để duy trì cuộc sống. Cuối cùng,
HIV/AIDS cũng là một yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lớn đến tình
hình lao động trẻ em, bởi đại dịch này tác động tiêu cực và trực tiếp
đến các cộng đồng, gia đình và bản thân nhiều trẻ em. Trên thực tế còn
nhiều nguyên nhân khác, song đa phần trẻ em lao động tại Hà Nội vẫn
xuất phát từ nguyên nhân kinh tế, nhận thức, học vấn của cha mẹ thấp
và sự cộng hưởng của nguyên nhân trẻ em học kém, chán học, bỏ học.
2.3. Các loại hình lao động trẻ em

2.3.1 Khuân vác và sản xuất vật liệu xây dựng
Trước nhu cầu tiêu thụ vật liệu xây dựng phát triển nhanh,
những năm gần đây xuất hiện ngày càng nhiều các cơ sở sản xuất và
tụ điểm buôn bán vật liệu xây dựng tại các thành phố, thị trấn, đặc
biệt là ở Hà Nội tại quận Ba Đình và các tỉnh/thành phố lân cận.
Ngoài ra, hàng ngày trẻ em nơi đây đều phải làm những việc nặng
nhọc như khuân vác tại các khu chợ khi có người thuê mướn. Nhiều
trẻ em và người vị thành niên hiện đang làm việc ở những lò sản xuất
gạch và khai thác cát bên sông của huyện Thường Tín – Hà Nội.
2.3.2 Chế biến than tổ ong
Nhu cầu sử dụng than ở Hà Nội ngày càng gia tăng do chi
phí thấp, nhiều trẻ em được thuê để trộn vật liệu, nhào than, ép
khuôn và phơi sản phẩm. Công việc không nặng nhọc nhưng rất độc
hại và ô nhiễm môi trường. Theo kết quả của một đánh giá nhanh
được thực hiện ở các điểm chế biến than tổ ong thuộc huyện Thường

19


Tín, trẻ em làm việc ở đây đến từ các vùng ngoài Hà Nội. Chúng đến
Hà Nội làm việc do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn và không đủ
trình độ chuyên môn để làm nghề khác, do vậy phải chấp nhận công
việc này..
2.3.3 Trẻ em làm việc tại các làng nghề truyền thống
Huyện Thường Tín thuộc Hà Nội sống bằng nghề khảm trai,
mỹ nghệ, thêu, đan len, làm hương, trong đó ước tính từ 25% đến
30% lao động dưới 16 tuổi, phần lớn là trẻ em gái từ 14 đến 16 tuổi.
Trẻ em lao động tại đây chủ yếu đến từ các tỉnh/huyện lân cận, chỉ có
một số rất nhỏ là trẻ em bản địa. Một số em sống với chủ, số còn lại
phải đi xa tới 20km để tới nơi làm việc. Từ 65% đến 70% số trẻ em

làm việc được trả công tại huyện Thường Tín ở độ tuổi từ 14 đến 16,
số còn lại từ 12 đến 13 tuổi. Phần lớn trẻ em làm việc tại huyện
Thường Tín đã bỏ học kiếm sống.. Trẻ em lao động ở đây thường
mắc các bệnh phổi và bệnh ngoài da, nhiều trẻ em còn bị đau lưng do
phải ngồi lâu.
2.3.4 Trẻ em làm thuê giúp việc gia đình
Làm thuê giúp việc gia đình thường là các em gái, trong khi
các em trai có xu hướng được sử dụng để phụ giúp chủ tại cửa hàng.
Phần lớn trẻ làm thuê giúp việc gia đình có nguồn gốc từ ngoài TP.
Hà Nội không đăng ký tạm trú với cơ quan có thẩm quyền địa
phương. Điều kiện không giấy tờ có thể khiến trẻ rơi vào các hoàn
cảnh dễ tổn thương và bị ngược đãi, bạo lực và xâm hại. Về chăm
sóc y tế, các bệnh thường gặp ở trẻ giúp việc gia đình là bệnh hô hấp,
đau đầu sốt, đau lưng và thương tật như sứt, đứt, bỏng, trẻ giúp việc

20


gia đình cho biết đã ít nhất một lần chúng vẫn phải làm việc khi đang
ốm và bị đau hoặc ốm khi đang làm việc mà không được chăm sóc
2.4 Những rủi ro mà lao động trẻ em gặp phải
Lao động trẻ em tại 02 địa bàn nghiên cứu là xã Nhị Khê và
Hiền Giang thuộc huyện Thường Tín và phường Phúc Xá – Ba Đình
thường gắn với nhiều nguy cơ rủi ro như bị ngược đãi, bạo lực, bị xâm
hại tình dục, bị bóc lột sức lao động. Lao động trẻ em cũng thường gắn
với rủi ro là mắc tệ nạn xã hội như nghiện ma túy, mại dâm,
HIV/AIDS, cờ bạc, hút thuốc, nghiện rược, tình trạng cá lớn nuốt cá
bé trong một xã hội mà người ta thường nói là “xã hội đen thu nhỏ”
chỉ có những người sống trong môi trường đó họ mới hiểu, họ luôn
gặp nhiều áp lực bất công trong cuộc sống, những lại bị ràng buộc

bởi nhiều vấn đề trong cuộc sống mà chính họ cũng chưa thoát ra
được.
2.5 Đánh giá về lao động trẻ em
2.5.1 Mặt tích cực
Xét ở một chừng mực nào đó khi trẻ em tham gia lao động,
góp phần tạo ra của cải vật chất, thì cũng làm tăng thêm thu nhập
hoặc lợi ích cho bản thân trẻ em, gia đình/tổ chức/cá nhân.
Nhiều làng nghề truyền thống ở 02 địa bàn nghiên cứu cũng
cần có những bàn tay khéo léo, tỉ mỉ của các em để làm nên những
sản phẩm không chỉ để sử dụng trong gia đình mà còn làm tăng thêm
thu nhập và tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
2.5.2 Mặt tiêu cực
2.5.2.1 Đối với bản thân trẻ em

21


Thứ nhất, Bệnh tật và sự kém phát triển về thể chất:
Thứ hai, khủng hoảng về tinh thần, lệch lạc về nhân cách, kém phát
triển về trí tuệ: Thứ ba, tác động về tâm lý:
Thứ tư, tác động về nhận thức:
Thứ năm, tác động về giáo dục:
Thứ sáu, tác động về kinh tế - xã hội:
2.5.2.2 Đối với gia đình và xã hội
Thứ nhất, đối với gia đình:
Thứ hai, đối với xã hội:

CHƢƠNG 3
VAI TRÒ NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI
LAO ĐỘNG TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Vai trò của CTXH đang được thể hiện ẩn ở các tổ chức, ban
ngành, các hội, đoàn thể… tại mỗi địa phương. Họ chưa được đào
tạo bài bản, chuyên nghiệp như một nhân viên CTXH thực thụ nhưng
họ đã làm những công việc mà một nhân viên CTXH sẽ và phải làm.
Dưới đây là các hoạt động trợ giúp của các hội được coi như vai trò
của chính nhân viên CTXH trong hoạt động trợ giúp đối tượng lao
động trẻ em được nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội đặc biệt
là 2 huyện Thường Tín và quận Ba Đình. Các nhân viên công tác xã
hội chuyện nghiệp và bán chuyên nghiệp trực tiếp phụ trách vấn đề
trẻ em hoặc kiêm nhiệm vấn đề trẻ em đã thực hiện tốt các vai trò
sau:

22


3.1. Vai trò truyền thông, vận động xã hội
Qua quá trình nghiên cứu tại thành phố Hà Nội (quận Ba
Đình và huyện Thường Tín), nhân viên CTXH phối hợp với hội phụ
nữ của quận, huyện và các xã trong vấn đề truyền thông, giáo dục,
vận động xã hội để trợ giúp các đối tượng trẻ em yếu thế.
Với mục tiêu: 90% gia đình, nhà trường, cộng đồng xã hội
và trẻ em được nâng cao nhận thức và thay đổi hành vi về bảo vệ trẻ
em. Hội phụ nữ phối hợp với nhân viên CTXH và các hội, đoàn thể
từ cấp huyện đến các xã đã triển khai, thực hiện đồng loạt các hành
động thiết thực trong trợ giúp các đối tượng trẻ em nói chung và lao
động trẻ em nói riêng. Xây dựng, phát triển các chương trình truyền
thông trên các kênh thông tin đại chúng đặc biệt là đài truyền thông
các xã, phường, thị trấn; nhân bản các sản phẩm truyền thông về bảo
vệ trẻ em làm tài liệu tuyên truyền nhằm thay đổi hành vi của gia
đình, nhà trường, cộng đồng xã hội và trẻ em về bảo vệ trẻ em, bảo

vệ nhóm lao động trẻ em.
Từ năm 2013 đến nay, Phòng LĐ TB&XH huyện phối hợp
với các các cấp chính quyền bám sát các mục tiêu, chương trình xây
dựng nông thôn mới, các xã, thị trấn trong huyện đã huy động nhiều
nguồn lực để hoàn thiện các tiêu chí, trong đó ưu tiên bố trí quỹ đất
xây dựng các công trình phúc lợi cho trẻ em. Thực hiện Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng xã, phường phù hợp với
trẻ em, bám sát 25 tiêu chí của Quyết định, các xã, thị trấn đã có sự
đánh giá chi tiết, khách quan các tiêu chí cần đạt trong xây dựng xã,
thị trấn phù hợp với trẻ em. Đến hết năm 2013, toàn huyện đã có
11/11 xã, thị trấn đủ các điều kiện và được công nhận đạt tiêu chuẩn

23


phù hợp với trẻ em. (Theo báo kết quả hàng năm của Phòng LĐ
TB&XH huyện Thường Tín năm 2013).
Năm 2014 nhân viên CTXH lập danh sách những trẻ em có
hoàn cảnh khó khăn, trẻ khuyết tật, mồ côi, trẻ em lao động sớm…
và luôn nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân và cộng đồng.
3.2. Vai trò ngƣời tham vấn, tƣ vấn
Nhân viên CTXH, Phòng LĐTB&XH quận Ba Đình và
huyện Thường Tín phối hợp với các đoàn thể, hội phụ nữ duy trì và
nhân rộng mô hình phòng ngừa, trợ giúp trẻ em lang thang, trẻ em
lao động sớm, lao động nặng nhọc nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc
hại dựa vào cộng đồng. Các em được tập huấn, nâng cao các kiến
thức kỹ năng để hạn chế tối đa những rủi ro trong điều kiện có thể
như:
Tập huấn kiến thức, kỹ năng cần thiết để hòa nhập cộng

đồng, kỹ năng tự bảo vệ mình khỏi bị ngược đãi, xâm hại, bóc lột; kỹ
năng tham gia các hoạt động xã hội ở cộng đồng cho trẻ em lang
thang, lao động trẻ em, lao động trong điều kiện nặng nhọc nguy
hiểm, tiếp xúc với chất độc hại và nhóm có nguy cơ cao.
Tổ chức các hoạt động tham vấn, tư vấn tại gia đình để vận
động trẻ em lang thang hồi gia; trợ giúp trẻ em về đời sống lúc khó
khăn, trợ giúp trẻ em hồi gia, trợ giúp tiếp cận giáo dục nếu bỏ học
hoặc có nguy cơ bỏ học, hỗ trợ chăm sóc sức khỏe khi cần thiết.
Nhân viên công tác xã hội phối hợp với các đoàn thể quận
Ba Đình và huyện Thường Tín hỗ trợ các cơ sở nhận đào tạo và sử
dụng lao động là trẻ em lang thang hồi gia, trẻ em lao động sớm, lao
động nặng nhọc nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại, nhóm có nguy

24


×