ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC XÃ HộI Và NHÂN VĂN
Đỗ THị VÂN
VAI TRò CủA NHÂN VIÊN CÔNG TáC XÃ HộI
ĐốI VớI PHụ Nữ Bị BạO LựC GIA ĐìNH
(Nghiên cứu tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam §Þnh)
TĨM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUN NGÀNH CƠNG TÁC XÃ HỘI
Hµ Néi - 2014
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng tâm hồn và nhân cách
của mỗi người, là nơi con người tìm thấy sự bình n và an tồn khi ở đó. Tuy nhiên
trong thực tế đối với khơng ít người thì gia đình lại là “địa ngục”, là nỗi đau bởi các cuộc
bạo lực đang diễn ra. Bạo lực trong gia đình khơng những làm tổn hại đến sức khoẻ, thể
xác cho nạn nhân mà còn làm tổn thương về mặt tinh thần, ảnh hưởng đến cuộc sống của
tất cả những người xung quanh và gây ra nhiều hậu quả cho xã hội.
Bạo lực gia đình là một hiện tượng phổ biến mang tính tồn cầu, vượt qua ranh
giới về khu vực, văn hoá, thu nhập, mức sống, tuổi tác, địa vị xã hội… nó diễn ra ở cả
các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển. Bạo lực gia đình xảy ra dưới rất
nhiều các hình thức khác nhau: Bạo lực thể chất (các hành vi đánh đập, chửi
mắng…), bạo lực tinh thần (tấn công bằng lời nói, đập phá tài sản, kiểm sốt kinh tế,
cơ lập nạn nhân, kiểm sốt quyền sinh sản, ngoại tình, ...), bạo lực tình dục (cưỡng
đoạt tình dục). Dù có tồn tại dưới hình thức nào thì bạo lực gia đình đều để lại những
hậu quả hết sức nặng nề, đã, đang và sẽ là nỗi đau, nỗi lo ngại của khơng ít gia đình,
của mỗi quốc gia, của cộng đồng quốc tế. Hiện nay bạo lực gia đình ngày càng gia
tăng với mức độ phức tạp, dưới nhiều hình thức khác nhau, với nhiều đối tượng trong
đó điển hình phải kể đến tình trạng bạo lực đối với phụ nữ. Bạo lực gia đình đã kéo
theo nhiều hệ lụy, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống đạo đức, đây cũng là một thực tế
đáng lo ngại cần có sự quan tâm sâu sắc của toàn xã hội, đặc biệt là những người trợ
giúp như nhân viên công tác xã hội.
Trên địa bàn huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, vấn đề bạo lực gia đình đang là hiện
tượng xảy ra nhiều, nhất là bạo lực đối với phụ nữ. Sự gia tăng về số vụ và mức độ
nghiêm trọng của bạo lực gia đình là điều đáng lo ngại cho chính quyền địa phương.
Mặc dù trong những năm gần đây đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân trong
huyện ngày càng được nâng cao, đã có một số hoạt động phối hợp giữa các tổ chức chính
quyền, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quần chúng để nâng cao nhận thức của người
dân về bạo lực, tác hại của nó cũng như tăng cường những hoạt động giúp đỡ phụ nữ bị
bạo lực với cố gắng nhằm giảm bớt và loại trừ bạo lực gia đình. Tuy nhiên phải nhận thấy
rằng vấn đề phụ nữ bị bạo lực vẫn đang xảy ra, trước thực trạng đó địi hỏi cần có sự trợ
giúp tích cực hơn nữa từ phía cộng đồng xã hội và khơng thể khơng kể đến vai trị của
nhân viên cơng tác xã hội trong việc trợ giúp, tham vấn tư vấn, hòa giải, truyền thông,
biện hộ, trợ lý pháp lý và là cầu nối giữa người phụ nữ với các nguồn lực hỗ trợ của xã
hội. Với mong muốn được góp một phần cơng sức nhỏ bé của mình vào việc trợ giúp nạn
1
nhân, giảm hậu quả bạo lực, phòng, chống bạo lực gia đình, tơi đã lựa chọn đề tài “Vai trị
của nhân viên Công tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình” (Nghiên cứu tại huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định) để thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Từ những năm 90 của thế kỷ 20, các nghiên cứu chuyên sâu về bạo lực gia đình ở
Việt Nam đã bắt đầu đựơc quan tâm và triển khai thực hiện. Lê Thị Quý, Vũ Mạnh Lợi,
Nguyễn Hữu Minh, Hoàng Bá Thịnh, Trần Thị Vân Anh, Vũ Tuấn Huy, Lê Ngọc Văn…
là những nhà khoa học có rất nhiều cơng trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này.
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã khẳng định mọi nguời sinh ra đều có
quyền bình đẳng về phẩm giá và các quyền, cả nam và nữ đều bình đẳng với nhau. Bất kỳ
một hành vi bạo lực nào đối với phụ nữ đều vi phạm nhân quyền. Nhưng trên thực tế, bạo
lực đối với phụ nữ dưới nhiều hình thức đã và đang xảy ra ở mọi cộng đồng, mọi quốc gia
trên thế giới bất kể sự khác biệt về giai cấp, chủng tộc, tôn giáo. Bạo lực đối với phụ nữ
không chỉ là vấn đề một quốc gia hay khu vực mà nó là một vấn đề mang tính chất tồn
cầu.
Bài viết “Bạo lực gia đình - Bất bình đẳng trong quan hệ giới”của Lê Thị Quý đăng
trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 4/2000 dựa trên cơ sở thu thập phân tích một số tài liệu
kết hợp với việc điều tra xã hội học năm 1998 tại xã C.N (Từ Liêm, Hà Nội) và các mối
quan hệ trong gia đình của nhóm nghiên cứu Giới (khoa Xã hội học, phân viện báo chí
tuyên truyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Bài viết cung cấp một số thơng
tin phân tích về phía khía cạnh bạo lực gia đình, một biểu hiện bất bình đẳng giới
Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam đưa ra con số đáng lo ngại: Tỷ lệ
của phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình dưới nhiều hình thức khác nhau chiếm từ 40
đến 80% số người được phỏng vấn. Những thiệt hại về thể chất và tinh thần do bạo lực gia
đình gây ra đối với nạn nhân là vô cùng nghiêm trọng.
Nghiên cứu của Vũ Tuấn Huy (2003) ở một số tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ cho
thấy trong vòng 12 tháng trước thời điểm điều tra, có 79% hộ gia đình xảy ra ít nhất một
lần về một loại hành vi bạo lực giữa vợ và chồng trong gia đình. Các hộ gia đình được
điều tra, hình thức bạo lực về tình cảm như thờ ơ lãnh đạm “chiến tranh lạnh là khá phổ
biến: 54,4% ở các mức độ khác nhau. Tiếp theo là bạo lực về lời nói như lăng mạ hoặc
chửi bới xảy ra ở 20% hộ gia đình. Tỷ lệ hộ gia đinh có các hình thức bạo lực khác nhau
như đe doạ, đánh đập hoặc ném đồ vật là 4,3%, đập phá đồ đạc 2,1%, đuổi ra khỏi nhà
1,6%. những hành vi bạo lực mang tính ngược đãi về thân thể như đánh, tát xô ngã ở 5,5%
số hộ gia đình.
2
Một nghiên cứu khác ở một xã nông thôn ở đồng bằng Bắc bộ cho thấy có 87% số
người được hỏi nói rằng ở xóm, thơn, nơi họ sinh sống có hiện tượng bạo lực gia đình. Về
bạo lực tinh thần có 94,4% người chồng chửi mắng vợ. Ngược lại, cứ có 3 người vợ thì có
có 1 người chửi mắng chồng. Về bạo lực thể chất: 54,4% số người được hỏi cho rằng hiện
tượng chồng đánh vợ và 8,9% số người được hỏi cho biết có hiện tượng vợ đánh chồng
(Hoàng Bá Thịnh, 2002).
Nghiên cứu “Bạo lực trên cơ sở giới” của Vũ Mạnh Lợi và đồng nghiệp, 1999) cho
thấy hiện tượng ngược đãi về lời nói xảy ra trong khoảng 20% gia đình và bạo lực thân thể
xảy ra trong khoảng 10% gia đình ở thành phố Hồ Chí Minh. Ở Miền trung, khoảng 50%
người chồng có hành vi ngược đãi về lời nói đối với vợ, tỷ lệ này ở thành phố Hà Nội là
10%. Có tới 75% người chồng trong tổng số mẫu nghiên cứu có hành vi ngược đãi về tình
cảm đối với người vợ và trung bình có tới 30% phụ nữ bị đánh đập, lạm dụng, cưỡng bức
theo nhiều hình thức, phần lớn là do những người quen biết, chồng và những người thân
trong gia đình. Trong đó, có 15% phụ nữ bị chồng đánh, gần 80% bị chồng mắng chửi,
hơn 70% bị chồng bỏ mặc, gần 10% bị chồng cấm đoán quan hệ và gần 20% bị chồng
cưỡng ép quan hệ tình dục.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng trong những năm gần đây mặc dù chất lượng cuộc
sống ngày càng được cải thiện, các quyền cơ bản của con nguời được tơn trọng hơn nhưng
bạo lực gia đình có xu hướng gia tăng (Vũ Mạnh Lợi và đồng nghiệp, 1999; Lê Thị Quý,
2000). Điều đáng quan tâm là bạo lực gia đình đã trở thành một nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến tình trạng tan vỡ của gia đình.
Cuốn sách “Bạo lực giới trong gia đình Việt Nam và vai trị của truyền thông đại
chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ” Hoàng Bá Thịnh chủ biên được xây dựng từ một
tập hợp bài nghiên cứu, tham luận được trình bày trong hội thảo “Bạo lực với phụ nữ
trong gia đình và vai trị của truyền trơng đại chúng trong sự nghiệp phát triển phụ nữ”
ngày 28-29/6/2001 tại Hà Nội. Cuốn sách gồm 2 phần chính. Phần 1 gồm 13 bài viết của
nhiều tác giả khác nhau tập trung vào vấn đề “Bạo lực giới trong gia đình Việt Nam, quan
điểm và giải pháp”. Phần hai gồm 9 bài đề cập đến “Vai trị của truyền thơng đại chúng
trong sự nghiệp phát triển phụ nữ”.
Lê Thị Quý, Đặng vũ Cảnh Linh (2007) trong nghiên cứu “Bạo lực gia đình - một
sự sai lệch giá trị” đã trình bày những lý luận và phương pháp luận về bạo lực trong gia
đình nêu lên những bài học kinh nghiệm của Việt Nam trong công tác phịng chống bạo
lực gia đình.
Nguyễn Hữu Minh, Trần Thị Vân Anh (2009) trong nghiên cứu “Bạo lực gia đình
đối với phụ nữ ở Việt Nam, thực trạng, diễn tiến và nguyên nhân” đã nêu những vấn đề
3
nhận diện bạo lực gia đình và cơ sở pháp lí phịng chống bạo lực gia đình, mức độ phổ
biến phổ biến của bạo lực gia đình và các yếu tố ảnh hưởng, phân tích thực trạng bạo lực
gia đình, hậu quả và môi trường nảy sinh bạo lực gia đình, các yếu tố thúc đẩy và hạn chế
các hành vi bạo lực.
Trong nghiên cứu “Các giải pháp hạn chế bạo lực gia đình đối với phụ nữ và trẻ em
Bùi Thị Xuân Mai (2009) cùng các cộng sự đã nghiên cứu, đề xuất các giải pháp khả thi
để hạn chế bạo lực gia đình với phụ nữ và trẻ em hiện nay ở Việt nam.
Từ năm 2006 hết năm 2011, qua kết quả nghiên cứu của Bộ Văn hoá – Thể thao và
Du lịch, Tổng cục Thống kê, Viện gia đình và giới thì có 21,2 % các cặp vợ chồng có trải
qua hình thức bạo lực từ chửi mắng, nhục mạ, buộc quan hệ tình dục khi khơng có nhu
cầu. Cứ 05 cặp vợ chồng thì có 01 cặp từng xảy ra bạo lực dưới mọi hình thức. Tình trạng
Bạo lực gia đình những năm gần đây đang diễn ra với tính chất ngày càng nghiêm trọng,
đối tượng vi phạm cùng với số nạn nhân gia tăng ở khắp các vùng miền trong cả nước.
Như vậy, các nghiên cứu đi trước đã cung cấp những góc nhìn đa dạng, sâu sắc về
vấn đề bạo lực gia đình; nhiều nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu, phân tích các hình thức bạo
lực, thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình tồn tại
trong nhiều gia đình, ở cả nơng thơn lẫn thành thị. Bạo lực gia đình chưa được nhận thức
đúng mức vì đa số người dân đều cho rằng đó là vấn đề riêng của mỗi gia đình, của từng
cá nhân, người ngồi khơng có tư cách can thiệp. Tư tưởng trọng nam khinh nữ, sự ngộ
nhận về vai trò của phụ nữ và nam giới trong các lĩnh vực đời sống cũng là mảnh đất màu
mỡ nuôi dưỡng bạo lực gia đình. Những ngun nhân khác có thể kể ra là nghèo khổ, thu
nhập thấp, việc làm không ổn định, bn bán thua lỗ, phá sản, thất nghiệp, gia đình đông
con, vv… bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần, bạo lực tình dục… tất cả đều để lại những
vết thương tích nặng nề cho đời sống của người phụ nữ .
Hiện nay, ngành Công tác xã hội đang tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ
biến pháp luật và xây dựng các mơ hình hoạt động phịng chống bạo lực gia đình có hiệu
quả tại các địa phương như là các hoạt động tương trợ nhóm phụ nữ là nạn nhân của bạo
lực; bênh vực quyền lợi cho chị em và hướng tới sự bình đẳng. Qua đó, nâng cao nhận
thức của người dân về phạm vi của vấn đề, để từ đó xã hội có những hành động cấp bách
để ngăn ngừa và đối phó với vấn đề bạo lực đối với phụ nữ.
Mặc dù đã có khơng ít cảnh báo của nhiều nhà nghiên cứu về những hậu quả trước
mắt cũng như lâu dài của bạo lực đối với đời sống tinh thần và thể chất của người phụ nữ,
nhưng cơng tác phịng chống nạn bạo lực trong gia đình vẫn thiếu tính đồng bộ và triệt để.
4
Trong bối cảnh chung đó, kế thừa các giá trị của những cơng trình nghiên cứu khoa học về
trợ giúp nạn nhân bị bạo lực, tôi lựa chọn đề tài “Vai trị của nhân viên Cơng tác xã hội
đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình” (Nghiên cứu tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) là vấn
đề nghiên cứu có tính mới của đề tài là việc nghiên cứu vai trị của nhân viên cơng tác xã
hội - một lĩnh vực còn mới mẻ tại Việt Nam - lĩnh vực vai trị của nhân viên cơng tác xã
hội trợ giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình.
3. Ý nghĩa của nghiên cứu
3.1. Ý nghĩa lý luận
Việc vận dụng các kiến thức xã hội vào nghiên cưú chủ đề trên sẽ góp phần làm
phong phú thêm lý thuyết của ngành khoa học xã hội nói chung và cơng tác xã hội nói
riêng.
Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần làm sáng tỏ một số lý thuyết Công tác xã hội: Lý
thuyết hệ thống sinh thái, lý thuyết nhu cầu, lý thuyết vai trò, vị thế xã hội.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu góp phần đưa ra một bức tranh rõ nét hơn về vấn đề bạo lực đối với
phụ nữ trong gia đình ở một lĩnh vực mới - lĩnh vực cơng tác xã hội. Kết quả nghiên cứu
cịn cho chúng ta thấy các hình thức bạo lực đối với phụ nữ trong gia đình, nguyên nhân
dẫn đến bạo lực gia đình và hậu quả do bạo lực gây nên và vai trị của nhân viên cơng tác
xã hội trong việc trợ giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình.
Nghiên cứu rút ra một số kết luận, khuyến nghị làm cơ sở cho các tổ chức xã hội
cùng có mối quan tâm kết hợp với nhau trong hoạt động giảm bớt hậu quả, ngăn ngừa và
phòng chống hiện tượng này. Đối với công tác xã hội, nghiên cứu cũng đưa ra một vài kết
luận khuyến nghị có tính chất khả thi nhằm nâng cao vai trị của nhân viên cơng tác xã hội
tiếp cận và trợ giúp với nạn nhân là người phụ nữ bị bạo lực gia đình giúp giảm được hậu
quả cho bị nạn bạo lực, giúp nạn nhân phòng, chống bạo lực của người chồng gây ra một
cách có hiệu quả.
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vai trị nhân viên cơng tác xã hội đối với phụ nữ bị bạo lực gia đình.
4.2. Khách thể nghiên cứu
5
Thứ nhất, là phụ nữ - nạn nhân của bạo lực gia đình.
Thứ hai, nhân viên CTXH đang thực hiện vai trò can thiệp, hỗ trợ những nạn nhân
bị bạo lực gia đình.
5. Phạm vi nghiên cứu
Khơng gian và giới hạn nội dung nghiên cứu: Bạo lực gia đình đối với phụ nữ đã
lập gia đình, độ tuổi từ 18 đến 55 tuổi, tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Thời gian nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu từ tháng 6 năm 2013 đến tháng 12
năm 2013.
6. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng phụ nữ bị bạo lực gia đình.
Vai trị của nhân viên công tác xã hội trong việc trợ giúp nạn nhân bị bạo lực gia
đình là người phụ nữ.
Một vài khuyến nghị nhằm nâng cao vai trò của nhân viên công tác xã hội trong
công tác trợ giúp phụ nữ bị bạo lực gia đình.
6.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng, các hình thức bạo lực gia đình đối với phụ nữ và phân tích
những nguyên nhân gây ra bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Tìm hiểu và phân tích những hậu quả bạo lực gia đình đối với phụ nữ.
Làm rõ vai trị của nhân viên cơng tác xã hội trong việc trợ giúp phụ nữ bị bạo lực
gia đình.
Một số kết luận nhằm nâng cao vai trị của nhân viên cơng tác xã hội trong cơng tác
trợ giúp nhằm giảm hậu quả cho nạn nhân bị bạo lực, giúp phịng, chống bạo lực gia đình
đối với phụ nữ.
7. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, thực trạng bạo lực gia đình tại huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định đang diễn
ra như thế nào?
Thứ hai, hậu quả của nạn nhân bị bạo lực gia đình và ảnh hưởng đến đời sống hàng
ngày như thế nào?
6
Thứ ba, Vai trò nhân viên CTXH trong việc trợ giúp người phụ nữ bị bạo lực gia
đình được thực hiện như thế nào? Thuận lợi, khó khăn và trở ngại trong việc trợ giúp nạn
nhân?
8. Giả thuyết nghiên cứu
Các hình thức bạo lực đối với người phụ nữ trong gia đình rất đa dạng.
Phụ nữ bị bạo lực gia đình xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như
văn hóa , xã hội, phong tục tập quán, kinh tế, lạm dụng rượu bia, trình độ học
vấn…
Phụ nữ bị bạo lực gia đình để lại những hậu quả nặng nề nhưng người phụ
nữ chưa nhận thức được mức độ nghiêm trọng trong tình trạng bị bạo lực của
mình.
Bạo lực gia đình cịn nhiều tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định do thiếu đội
ngũ nhân viên CTXH chuyên nghiệp, cán bộ thơn, xóm, hội liên hiệp phụ nữ,
chính quyền địa phương, ban ngành đồn thể có tham gia hỗ trợ nhưng chưa
được đào tạo chuyên nghiệp, bài bản trong quá trình trợ giúp nạn nhân bị bạo lực
gia đình.
9. Phương pháp nghiên cứu
9.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Các cơng trình nghiên cứu, tạp chí, kỷ yếu, hội thảo của một số tổ chức
làm việc về vấn đề bạo lực trong gia đình.
Các bài viết, số liệu, cơng trình nghiên cứu được đăng trên tạp chí Khoa
học về Phụ nữ, tạp chí Xã hội học, tạp chí Cộng sản, báo gia đình, xã hội.
Kết quả từ nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đới với phụ nữ ở Việt
Nam, khung theo dõi và đánh giá việc thực hiện Luật phịng chống bạo lực gia
đình tại Việt Nam.
Tài liệu tập huấn cơng tác quản lý nhà nước về gia đình và phịng, chống
bạo lực gia đình, tài liệu về cơng tác bình đẳng giới vì sự tiến bộ của phụ nữ, sổ
tay công tác quản lý nhà nước về gia đình…
9.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
7
Đề tài tiến hành 35 cuộc phỏng vấn sâu. Trong đó 18 cuộc phỏng vấn đối
với nạn nhân, 7 cuộc phỏng vấn đối với người gây ra bạo lực, 10 cuộc phỏng vấn
đối với nhân viên CTXH, cán bộ chính quyền địa phương, công an, cán bộ Hội
phụ nữ, ban ngành đoàn thể. Mục tiêu chung của phỏng vấn sâu không phải để
hiểu một cách đại diện, khái quát về tổng thể mà giúp người nghiên cứu hiểu sâu,
hiểu kỹ về vấn đề bạo lực gia đình đối với phụ nữ và vai trị trợ giúp của nhân
viên cơng tác xã hội. Người phỏng vấn tự do hoàn toàn trong cách dẫn dắt cuộc
phỏng vấn, đặt trình tự các câu hỏi và cách thức đặt câu hỏi nhằm thu thập thơng
tin mong muốn. Trong q trình phỏng vấn nhân viên công tác xã hội tập trung
phỏng vấn sâu các cá nhân để thu thập thông tin. Việc chọn người để phỏng vấn
có chủ định, đó là những người có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
9.3. Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát được áp dụng trong suốt quá trình nghiên cứu để
nắm bắt được một số thông tin sơ bộ tại địa bàn nghiên cứu.
Thơng qua q trình quan sát trực tiếp để thu thập thông tin cần thiết liên
quan đến đề tài, những hành động, biểu hiện bên ngoài của người phụ nữ bị bạo
lực, những biểu hiện và nhu cầu được trợ giúp khỏi nạn bạo lực trong gia đình ,
nắm bắt được thể trạng và các biểu hiện trong giao tiếp, ứng xử giữa người gây
ra bạo lực và nạn nhân bị bạo lực, giữa người phụ nữ bị bạo lực với cán bộ. Qua
đó đánh giá sự trợ giúp của cán bộ, nhân viên với vai trị là những nhân viên
cơng tác xã hội để từ đó có những biện pháp trợ giúp nạn nhân là người phụ nữ bị
bạo lực gia đình.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU
1.1. Các khái niệm cơng cụ
1.1.1. Gia đình
Theo Điều 8 “Luật hơn nhân và gia đình” của Quốc hội nước Cộng hồ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khố XI (ký họp thứ 7, ngày 09/06/2000: “Gia đình là tập hợp
những người gắn bó với nhau do hơn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi
dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau”.
Các nhà xã hội học coi gia đình là đơn vị cở sở của tổ chức xã hội nhưng thuật
ngữ này được hiểu theo nhiều cách khác nhau như: Gia đình là một nhóm mà các quan
hệ của nó đối với nhau đều dựa vào cùng một huyết thống và do đó họ là họ hàng thân
thuộc của nhau. Có nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình, nhưng định nghĩa sau đây
được sử dụng trong luận văn: Gia đình là một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các
quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng tuy khơng có quan hệ máu mủ.
Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi, giữa họ có
những rằng buộc có tính pháp lý được Nhà nước thừa nhận và bảo vệ, đồng thời có
những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đốn trong quan hệ tình dục
giữa các thành viên gia đình .
1.1.2. Bạo lực và bạo lực gia đình
Bạo lực là việc đe doạ hay dùng sức mạnh thể chất, quyền lực đối với người khác
hoặc một nhóm người, một cộng đồng gây ra hoặc làm tăng khả năng gây ra tổn thương,
tử vong, tổn hại về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển, gây ra sự mất mát [46, tr17].
Bạo lực gia đình là các hành vi bạo lực xảy ra trong phạm vi gia đình, đó là sự
xâm phạm và ngược đãi về thân thể hay tình cảm giữa các thành viên trong gia đình.
Bạo lực trong gia đình là sự lạm dụng quyền lực, một hành động sử dụng vũ lực nhằm
hăm doạ đánh đập một người thân trong gia đình để điều khiển hay kiểm sốt người đó [
46, tr.17].
Hiện nay bạo lực gia đình đang diễn ra phổ biển đặc biệt ở các nước đang phát
triển, nạn nhân của bạo lực gia đình khơng loại trừ một ai nhưng chủ yếu tập trung ở
nhóm đối tượng yếu thế như phụ nữ, trẻ em. Đặc biệt là phụ nữ là nạn nhân chính của
các vụ bạo lực gia đình.
Có thể phân chia bạo lực gia đình thành bốn loại sau:
Thứ nhất, bạo lực thể chất
Thứ hai, bạo lực tinh thần
9
Thứ ba, bạo lực kinh tế hay lao động:
Thứ tư, bạo lực tình dục: Gồm có hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục.
1.1.3. Vai trị viên cơng tác xã hội
Với lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển của khoa học và nghề nghiệp chuyên
môn công tác xã hội, ở nhiều nước trên thế giới, vai trò của nhân viên xã hội đã được xác
định về thể hiện vai trò một cách rõ nét trong đời sống xã hội, Sự hoạt động, tác nghiệp
của nhân viên xã hội phổ biến và rộng khắp trên nhiều lĩnh vực, địa bàn từ thành thị đến
nông thôn. Nhân viên công tác xã hội đã đảm trách nhiệm nghiệp vụ chuyên môn, phát
huy vai trị, chức năng của mình trong việc trợ giúp những đối tượng yếu thế, thiệt thòi
và giải quyết các vấn đề xã hội. Trong hệ thống nghề nghiệp và tổ chức cấu trúc thành
phần với tư cách là những lực lượng xã hội, nhân viên xã hội có vị trí độc lập đồng thời
có mối liên hệ với nhiều nghề nghiệp khác. Tính chuyên nghiệp của nghề nghiệp và tính
tổ chức chặt chẽ của hoạt động chun mơn được thể hiện ở mã nghề, thang bảng lương,
chức danh và vị trí của nhân viên xã hội trong cơ quan quản lý nhà nước, giám sát điều
hành hoạt động như Hiệp hội công tác xã hội, Bộ xã hội hoặc Bộ an sinh xã hội hay Bộ
giải quyết các vấn đề xã hội (tùy thuộc vào quy định, cơ cấu tổ chức của từng quốc gia).
Xuất phát từ nhu cầu của xã hội và mục đích hoạt động của ngành công tác xã
hội, dựa trên đặc thù nghề nghiệp là trợ giúp đối tượng yếu thế, thiệt thòi giải quyết các
vấn đề xã hội, nhân viên xã hội có khả năng tác nghiệp trong nhiều lĩnh vực khác nhau
dựa trên vấn đề của đối tượng như kinh tế, pháp luật, tâm lý, tình cảm, sức khỏe, văn
hóa, giáo dục, mối quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong hoạt động của mình, bên
cạnh việc tác nghiệp và phát huy vai trị chun mơn độc lập, nhân viên xã hội còn là
cầu nối, khai thác liên kết cơ quan tổ chức công tác xã hội với các nguồn lực hỗ trợ khác
nhằm giải quyết vấn đề của đối tượng.
“ Sự đa dạng và tính chất tương tác, liên kết sâu rộng giữa công tác xã hội với các
ngành nghề, tổ chức khác quy định nhân viên xã hội đóng những vai trị cụ thể khác
nhau, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh, vấn đề của từng trường hợp như: người đánh
giá, người lập kế hoạch, chuyên gia tham vấn, tư vấn, nhà trị liệu, cố vấn, nhà giáo dục,
nhà đàm phán, nhà hịa giải, nhà truyền thơng, nhà biện hộ, nhà trợ lý pháp lý, người
thương lượng, người hỗ trợ, nhà truyền thông, nhà nghiên cứu, người quản trị và là cầu
nối giữa các nguồn lực hỗ trợ của xã hội ….. Ở bất kỳ bối cảnh nào thì nhân viên xã hội
giữ vai trị là người trợ giúp, không là người làm thay, làm hộ hoặc làm cho đối tượng”
[23, tr.103].
1.2. Lý thuyết ứng dụng trong nghiên cứu
1.2.1. Lý thuyết nhu cầu của A.Maslow
10
Thứ nhất, nội dung thuyết nhu cầu của A.Maslow
A.Maslow đã nêu ra thuyết nhu cầu, ông cho rằng mỗi nhu cầu con người trong
hệ thống thứ bậc phải được thỏa mãn trong mối tương quan với môi trường để con người
có thể phát triển khả năng cao nhất của mình. Ông đã nêu ra 5 bậc thang:
Bậc thang thứ nhất: Nhu cầu vật chất là sự sinh tồn cơ bản, nếu nhu cầu cơ bản
này không đạt được sẽ bị tắc thì khơng thể tiến thêm ở bậc nhu cầu tiếp theo.
Bậc thang thứ hai: Nhu cầu an toàn là nhu cầu về an sinh, có nghĩa là một mơi
trường khơng nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh ở trẻ.
Bậc thang thứ ba: Nhu cầu xã hội là nhu cầu được thừa nhận, được yêu thương,
được bảo vệ, được yên ổn và được chấp nhận. Ở mức nhu cầu này hoạt động giao tiếp
đựợc coi trọng. Sự tổn thương về tâm lý trong môi trường gia đình, nhà trường, xã hội sẽ
làm cho cá nhân không thể phát triển lên bậc cao hơn.
Bậc thang thứ tư: Nhu cầu về sự tôn trọng, cảm thấy tốt về bản thân, trải nghiệm
những ý nghĩa về những giá trị của bản thân và tự hào về những thành quả cá nhân.
Bậc thang thứ năm: Nhu cầu khẳng định mình, đây là nhu cầu về sự phát triển cá
nhân (cơ hội để phát triển cá nhân).
Thuyết nhu cầu của A.Maslow đóng góp 1 phần quan trọng trọng việc giải thích
các hành vi lệch chuẩn của con người khi tác động vào môi trường và ngược lại.
Để đạt được một nhu cầu đặc biệt nào đó cần có sự kích thích, vận động và qua đó
định hướng hành vi của một người, đáp ứng nhu cầu cơ bản trong hệ thống thứ bậc nhu
cầu của A.Maslow.
Như vậy vận dụng lý thuyết nhu cầu của A.Maslow trong nghiên cứu, có thể xác
định được thứ bậc nhu cầu hiện tại của thân chủ, xem xét các nhu cầu nào đã được đảm
bảo, nhu cầu nào chưa được đảm bảo, đảm bảo ở mức độ nào, có ưu tiên đáp ứng nhu
cầu nào trước, nhu cầu nào sau hay theo trình tự các bậc nhu cầu của nhà tâm lý học
A.Maslow. Giúp nhân viên CTXH đánh giá và phân tích nhu cầu của thân chủ một cách
hợp lý nhất, giúp cho quá trình trợ giúp thân chủ là người phụ nữ bị bạo lực gia đình đạt
hiệu quả và giúp thân chủ giải quyết được vấn đề khó khăn đang gặp phải, tự vươn lên
trong cuộc sống, sớm hòa nhập với cộng đồng xã hội. [ 22, tr.115].
1.2.2. Lý thuyết Hệ thống
Hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố đối với cùng loại hoặc cùng chức năng có quan
hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ làm thành thể thống nhất.
Thuyết hệ thống được phát triển vào những năm 30 và 40 của thế kỷ XX do nhà
sinh học Ludvig VonBertalanffy khởi xướng. Thuyết hệ thống bao quát mọi lĩnh vực (tin
học, sinh học, kinh tế, xã hội học), một hệ thống được định nghĩa là một tổng thể phức
hợp gồm nhiều yếu tố liên quan với nhau và mỗi biến động trong một yếu tố nào đó đều
tác động lên những yếu tố khác và cũng tác động lên toàn bộ hệ thống. Một hệ thống có
11
thể bao gồm nhiều hệ thống, đồng thời là một bộ phận của một đại hệ thống. Có những
hệ thống khép kín, khơng trao đổi với hệ thống xung quanh.
Trong một hệ thống có tiểu hệ thống, là hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ trợ.
Coi đó là những hình thức nhỏ hơn trong hệ thống lớn. Các tiểu hệ thống được phân biệt
với nhau bởi các ranh giới, là bộ phận của hệ thống lớn, con người là một tiểu hệ thống,
gia đình là hệ thống trung mơ, xã hội là hệ thống vĩ mô.
Một cá nhân được coi là một hệ thống vi mô. Hệ thống vi mơ có 3 tiểu hệ thống:
hệ thống tâm lý, hệ thống sinh học và hệ thống hành vi. Các tiểu hệ thống của con người
chịu sự tác động của cả hệ thống gia đình, hệ thống xã hội.
Vai trị của hệ thống được xác định theo 3 cách đó là vai trò của tiểu hệ thống
trong mối quan hệ gia đình, mối quan hệ với đồng nghiệp, mối quan hệ với cộng đồng
trong xã hội. Như vậy mỗi cá nhân trong tiểu hệ thống của mình sẽ bộc lộ vai trị nào đó
ở một mơi truờng nào đó mà cá nhân đó gặp phải.
Trong nghiên cứu, thuyết hệ thống được sử dụng để đưa ra mối quan hệ tương tác
giữa người phụ nữ bị bạo lực gia đình và vai trị nhân viên cơng tác xã hội trong q
trình trợ giúp thân chủ, từ đó đánh giá mối liên hệ nào cần phải cải thiện, trợ giúp thân
chủ vượt qua khỏi những khó khăn đang gặp phải. [ 22, tr. 61].
1.2.3. Lý thuyết sinh thái học
Tiếp cận dựa trên sinh thái học là một trong những tiếp cận truyền thống khi
nghiên cứu về văn hố của cá nhân, nhóm, cộng đồng công tác xã hội. Đây là một khoa
học nghiên cứu mối quan hệ giữa các cơ thể sống với môi trường tự nhiên của chúng. Ở
đây môi trường tự nhiên khách quan có ảnh hưởng sâu tới các chế độ xã hội và tư tưởng
của con người. Những người theo thuyết sinh thái học văn hoá cho rằng, kiểu văn hoá
của mỗi tộc người được tạo ra là do sự quy định của những nguồn tài nguyên và những
giới hạn của môi trường xung quanh, kể cả những thay đổi trong mơi trường đó. Điều đó
có nghĩa khác biệt trong cách tổ chức xã hội và văn hoá là kết quả của sự thích nghi với
các điều kiện vật chất và sinh thái bao quanh. Ở đây “kiểu văn hố” đóng vai trị căn bản
được hiểu như một tập hợp những nét khác biệt cho một lối sống do kết quả thích nghi
với mơi trường xung quanh và tạo nên hạt nhân của văn hoá – cái gắn liền với các hoạt
động tạo ra phương tiện tồn tại, các thiết chế kinh tế, chính trị, xã hội, tơn giáo…. Nếu
mơi trường tự nhiên có ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế và tổ chức như thế nào thì
việc giao tiếp ngơn ngữ, tâm hồn, tính cách, tư duy, ẩm thực và tương tác xã hội cũng có
tác động như vậy, thậm chí cịn nhiều hơn và rõ ràng hơn.
Như vậy hướng tiếp cận sinh thái học văn hoá địi hỏi khi nghiên cứu phải đào sâu
tìm hiểu nội dung, đặc điểm cùng với những hệ quả tinh thần – xã hội của một văn hố
nào đó ở mơi trường tự nhiên đã hình thành nên chúng, nhất là trong công tác xã hội. Bất
cứ một can thiệp hay giúp đỡ cho dù là một cá nhân hay tổ chức xã hội nào thì trước hết
12
phải tìm hiểu mơi trường sống của cá nhân hay tổ chức xã hội đó. Các hệ thống mơi
trường ở đây là hệ thống mở, các hệ thống có liên hệ chặt chẽ với nhau. Một hệ thống này
bao gồm những phần từ nhỏ hơn nhưng nó có khi lại thuộc một hệ thống lớn hơn. Chẳng
hạn: Gia đình bao gồm nhiều thành viên: cha mẹ, con cái gọi là gia đình hạt nhân. Nhưng
gia đình con này lại nằm trong trong một gia đình lớn hơn cịn gọi là gia đình mở rộng.
Theo thuyết này, tất cả các vấn đề của con người phải được nhìn nhận một cách
tổng thể trong mối quan hệ với các yếu tố khác, chứ khơng được nhìn nhận một cách độc
lập, riêng lẻ. Nói cách khác, trong hồn cảnh sống mỗi người đều có những hành động và
phản ứng làm ảnh hưởng lẫn nhau. Một hoạt động can thiệp hoặc giúp đỡ một cá nhân,
một nhóm đếu có ảnh hưởng ít nhiều tới những yếu tố xung quanh. Vì thế trong các hoạt
động công tác xã hội, việc giúp đỡ, hỗ trợ một cá nhân, một nhóm, gia đình, cộng đồng, xã
hội… cần phải được xem trên nhiều phương diện, nhiều mức độ khác nhau.
Lý thuyết mơi trường sinh thái có ảnh hưởng nhiều đến các phương thức thực hành
trong công tác xã hội như tư vấn, xử lý trường hợp, tư vấn gia đình, tư vấn nhóm, thiết kế
và phát triển cộng đồng[ 43, tr.47].
1.2.4. Lý thuyết vai trò, vị thế xã hội
Mỗi xã hội có cơ cấu phức tạp bao gồm các vị trí, vai trị xã hội khác nhau. Lý
thuyết vị trí vai trị xã hội cho rằng mỗi một cá nhân có một vị trí xã hội là vị trí tương đối
trong cơ cấu xã hội, hệ thống quan hệ xã hội, nó được xác định trong sự đối chiếu so sánh
với các vị trí xã hội khác. Vị thế xã hội là vị trí xã hội gắn với những trách nhiệm và
những quyền hạn kèm theo. Vị thế chính là bất kỳ vị trí ổn định nào trong một hệ thống xã
hội với những kỳ vọng quyền hạn và nghĩa vụ đặc thù. Các quyền và nghĩa vụ này thường
tương ứng với nhau. Phạm vi quyền và nghĩa vụ hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm của
các xã hội, của các nền văn hố thậm chí của các nhóm xã hội nhỏ. Nhưng khi xem xét vị
trí với nhứng quyền và nghĩa vụ kèm theo, tức là xem xét vị thế xã hội của cá nhân, chúng
ta sẽ thấy sự khác biệt trong thứ bậc khác biệt trong thứ bậc xã hội và thay đổi theo từng
xã hội, từng khu vực.
Mỗi cá nhân có nhiều vị trí xã hội khác nhau, do đó cũng có nhiều vị thế khác nhau.
Những vị thế xã hội của cá nhân có thể là vị thế đơn lẻ, vị thế tổng quát hoặc có thể chia
theo cách khác là: vị thế có sẵn - được gán cho, vị thế đạt được, một số vị thế vừa mang
tính có sẵn, vừa mang tính đạt được.
Vai trò xã hội cá nhân được xác định trên cơ sở các vị thế xã hội tương ứng. Nó
chính là mặt động của vị thế xã hội, vì luôn biến đổi trong các xã hội khác nhau, qua các
nhóm xã hội khác nhau. Tương ứng với từng vị thế sẽ có một mơ hình hành vi được xã
hội mong đợi. Mơ hình hành vi này chính là vai trò tương ứng của vị thế xã hội. Các nhà
xã hội học cho rằng “hành vi con người thay đổi khác nhau tuỳ theo bối cảnh và gắn liền
với vị trí xã hội của người hành động”, rằng “hành vi phần nào đựơc tạo ra bởi những
13
mong đợi của người hành động và những người khác. Như vậy, vai trò xã hội là sự tập
hợp hành vi, thái độ và sự thực hiện của cá nhân có vị thế đó.
Vai trị là những địi hỏi của xã hội đặt ra với các vị thế xã hội. Những đòi hỏi được
xác định căn cứ vào chuẩn mực xã hội. Trong các xã hội khác nhau thì chuẩn mực này
cũng khác nhau. Vì vậy, cùng một vị thế xã hội, nhưng trong các xã hội khác nhau thì mơ
hình hành vi được xã hội trơng đợi cũng khác nhau và các vai trò xã hội cũng khác nhau.
Theo thuyết này, trong cơng tác xã hội, việc tìm hiểu những nhận thức cũng như
hành động của cá nhân, nhóm xã hội, cộng đồng phụ thuộc nhiều vào chính vị trí mà họ
được thừa nhận trong gia đình và xã hội. Nếu như họ được coi trọng, được có tiếng nói
của mình, được bình đẳng như mọi người trong gia đình và ngồi xã hội thì họ sẽ làm tốt
hơn vai trị của mình, đáp ứng được nhiều hơn những mong đợi của mọi người và ngược
lại [ 43, tr.48].
1.3. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên - lịch sử của địa bàn nghiên cứu
Huyện Vụ Bản nằm ở phía Tây tỉnh Nam Định, vùng phía Nam đồng bằng châu
thổ Sơng Hồng. Mảnh đất được hình thành bởi phù sa bào mịn trong q trình biển lùi
thuộc kỷ hô lô xen (từ bảy ngàn năm về trước) và phù sa Sông Hồng, Sông Đáy bồi đắp.
Trải qua mấy nhìn năm biến thiên của đất nước, huyện Vụ Bản cũng đổi thay nhiều về tên
gọi và cương vực.
Vụ Bản nằm giữa Sông Đào và Sông sắt chạy dài theo hướng Nam, Bắc tiếp giáp
với huyện Mỹ Lộc và thành phố Nam Định; Phía Đơng tiếp giáp với huyện Nam Trực
ngăn cách bởi Sơng Đào; phía Nam tiếp giáp với huyện Ý Yên, phía Tây bắc giáp với
huyện Bình Lục và Tây Nam giáp với huyện Ý n đều ngăn cách bởi dịng sơng Ba Sát.
Điểm cực bắc của huyện là làng Hướng Nghĩa xã Minh Thuận và điểm cực Nam là làng
Cồn Dâu xã Vĩnh Hào, cách nhau chừng 15 km. Điểm cực Đông là làng Thi Liệu xã Đại
Thắng, và điểm cực Tây là Trại Dầu xã Tân Khánh cách nhau khoảng 10km. Huyện Vụ
Bản nằm gọn trong đồng bằng châu thổ Sông Hồng, nhưng địa hình Vụ Bản khơng hồn
tồn bằng phẳng. Dọc phía tây huyện có dãy núi đất cao từ 45 đến 74m, chạy từ Bắc
xuống Nam có sáu ngọn núi liên tiếp: núi Ngăm, núi An Thái, núi Báng, núi Lê, núi Gơi
và núi Hổ. Điều kiện tự nhiên có núi có sơng giữa đồng bằng đã tạo nên cảnh sơn thủy
hữu tình.
Về lịch sử, huyện Vụ Bản đất thiên bản lục kỳ với lịch sử phát triển từ lâu đời, nơi
đậm dấu ấn văn hóa văn minh cuả vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng, là một trong
những cửa ngõ quan trọng của thành phố Nam Định. Nơi đây từ ngàn đời, mồ hôi máu
xương của người dân đã quyện hòa trong đất viết nên bản hùng ca bất diệt trong quá trình
tạo dựng và giữ gìn quê hương, đất nước. Là một trong những cái nôi sinh ngụ của người
Việt Cổ, cùng với sự lựa chọn của lịch sử, khí thiêng sơng núi đã hình thành và hun đúc
14
nên truyền thống quý báu của người dân nơi đây: cần cù, dũng cảm trong lao động sản
xuất, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, thủy chung tình nghĩa
trong đời sống…truyền thống đó như sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ với hiện tại tạo nên sức
sống, bồi đắp trí tuệ, khí phách của người dân Vụ Bản. Đặc biệt từ khi Đảng bộ ra đời lãnh
đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập tự do xây dựng chủ nghĩa xã hội truyền thống đó lại
được nhân lên gấp bội.
Là vùng quê văn hiến và truyền thống yêu nước thiết tha, trong bão táp cách mạng
những năm đầu thế kỷ XX, vừa chống thực dân thống trị hà khắc, vừa chống tay sai bạo
lực cường quyền, nhiều thanh niên trí thức tiến bộ Vụ Bản mang trong mình dịng máu bất
khuất của cha ơng đã sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - LêNin do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và
những đồng chí của Người truyền bá về trong nước, biết kết hợp lòng yêu nước sâu sắc
với tư tưởng cách mạng vô sản sớm tập hợp và rèn luyện trong tổ chức Việt Nam thanh
niên cách mạng đồng chí hội và trở thành những hạt giống đỏ gieo mầm cách mạng trên
quê hương khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Trong những năm kháng chiến chống
thực dân pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng bộ và nhân dân Vụ Bản luôn trung dũng kiên
cường chiến đấu hy sinh xứng đáng với truyền thống cách mạng vẻ vang của q hương
mình. Hịa bình trở lại nhân dân Vụ Bản hân hoan phấn khởi ra sức xây dựng cuộc sống
mới chế độ mới xã hội chủ nghĩa. [2, tr5].
15
1.3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của địa bàn nghiên cứu
Quá trình xây dựng cuộc sống mới là một cuộc cách mạng có tính chất cải biến
xã hội sâu sắc, là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa mặc dù có những gian trn, Vụ Bản đã hồn thành tốt việc cải cách xã
hội chủ nghĩa ở nông thôn và thúc đẩy sản xuất phát triển. Nông thôn đã có những
thay đổi kỳ diệu trên các lĩnh vực chính đặc biệt là kinh tế - xã hội. Từ mảnh đất “Tứ
cùng” Vụ Bản đã “hóa thân” trong từng chặng đường phát triển. Năng động, sáng tạo,
nhạy bén, kịp thời chuyển đổi theo đường lối đổi mới của Đảng, những thập kỷ cuối
thế kỷ XX nhân dân Vụ Bản đã chứng tỏ sự chuyển đổi nhanh nhạy và vững chắc của
mình. Từng bước đột phá trong sản xuất nơng nghiệp từng bước phát huy năng lực
sản xuất, khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Nhờ đó Vụ Bản đã có
sự bứt phá trong nền kinh tế, từ nền kinh tế mang tính thuần nơng là cơ bản đã từng
bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển nơng
nghiệp một cách toàn diện, từ năm 1990 trở lại đây, Vụ Bản đã đạt được những thành
tích khả quan, năng suất lúa hàng năm đạt mức đỉnh cao, kinh tế phồn thịnh đời sống
nhân dân ngày một ấm no, sung túc… Đây cũng chính là tiền đề cơ bản để nhân dân
vững vàng bước vào thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng quê hương
ngày càng giàu mạnh văn minh. Mặc dù khơng ít những khó khăn, thiếu sót, nhưng
những thành quả mà nhân dân huyện Vụ Bản đạt được trong những năm qua, những
năm thực hiện sự đổi mới là vô cùng to lớn, bộ mặt nông thôn ngày càng thắm tươi
màu sắc, Vụ Bản đã đổi thay không còn là một trong “tứ cùng” (bốn huyện nghèo)
của tỉnh như xưa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chính quyền Vụ Bản đã
vươn lên làm chủ về mọi mặt để trở thành một trong những huyện giàu mạnh. Có thể
thấy Huyện Vụ Bản là một huyện có nền kinh tế tăng trưởng khá nhanh, mặc dù
những yếu tố vật chất tạo điền kiện cho sự phát triển phần lớn vẫn phụ thuộc vào sự
hỗ trợ của Trung ương, nhưng cũng góp phần dần đưa Vụ Bản thốt khỏi tình trạng
đặc biệt khó khăn và rút ngắn khoảng cách với các huyện phát triển, tạo lập các yếu
tố cơ bản làm tiền đề phát triển trong những năm tiếp theo. [2,tr14]
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, ở Vụ Bản mặt bằng dân trí
vẫn cịn thấp và trình độ phát triển khơng đều. Vì vậy cịn nhiều hủ tục lạc hậu đặc
biệt là tư tưởng phân biệt nam nữ.
Vì vậy, mặc dù đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử với những cuộc cách mạng
to lớn thì người dân Vụ Bản, nhất là phụ nữ ở ở một số xã vẫn chịu thiệt thòi về nhiều
mặt, vẫn phải chịu sự bất bình đẳng nam nữ trong đời sống xã hội và trong gia đình.
16
Chương 2
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
CỦA BẠO LỰC GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ
TẠI HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH
2.1. Thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại huyện Vụ Bản
Thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở Việt Nam nói chung và của
huyện Vụ Bản nói riêng ngày càng gia tăng với những con số đáng lo ngại. Theo số
liệu thống kê năm 2007 - 2013 của Hội liên hiệp phụ nữ huyện Vụ Bản, thực trạng
phụ nữ bị bạo lực gia đình ngày một gia tăng. Tổng số 643 vụ bạo lực gia đình đối
với phụ nữ bao gồm cả bạo lực về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo lực kinh tế và
bạo lực tình dục.
Thực trạng này phổ biến khắp các xã, thị trấn trong toàn huyện, chiếm tỷ lệ
80% trong các vụ án về hôn nhân và gia đình. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ không
chỉ xảy ra với đối tượng là những người có trình độ học vấn thấp mà cịn xảy ra với đối
tượng có trình độ học vấn cao, có địa vị trong xã hội. Mặc dù trong các báo cáo đã nêu rất
chi tiết về thực trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ, tuy nhiên những con số này chưa
phải đã phản ánh đúng thực tế (đây là những vụ người nhà báo cho chính quyền) vì cịn
nhiều nạn nhân sợ ảnh hưởng đến con cái, muốn níu giữ hạnh phúc gia đình nên khơng
cho mọi người xung quanh biết chuyện mà che giấu, âm thầm chịu đựng.
2.2. Nguyên nhân của phụ nữ bị bạo lực gia đình tại huyện Vụ Bản
2.2.1. Nhóm ngun nhân từ phía xã hội
Thứ nhất, do tư tưởng gia trưởng
ười phụ nữ cũng chính là nguyên nhân cho nạn bạo lực nảy sinh.
Thứ hai, do văn hóa - xã hội, phong tục tập qn
Thứ ba, Do q trình đơ thị hố trong thời kỳ phát triển
2.2.2. Nhóm ngun nhân từ phía gia đình
Thứ nhất, do gia đình có kinh tế khó khăn:
Thứ hai, do khủng hoảng các mối quan hệ trong gia đình:
2.2.3. Nhóm nguyên nhân từ cá nhân
Thứ nhất, do người phụ nữ bị lệ thuộc về kinh tế:
Thứ hai, do nhận thức sai lầm của nạn nhân:
Thứ ba, do nạn nhân chịu đựng, cam chịu:
17
2.3. Hậu quả của bạo lực gia đình đối với người phụ nữ tại huyện Vụ Bản
2.3.1. Hậu quả đối với nạn nhân
Theo số liệu thống kê năm 2007 – 2013 của Hội liên hiệp phụ nữ huyện Vụ
Bản thực trạng của phụ nữ bị bạo lực gia đình điễn ra ngày một gia tăng. Trong tổng
số 643 vụ bạo lực gia đình, trong đó bạo lực thể chất là 204 vụ, bạo lực tinh thần 278
vụ và bạo lực kinh tế 156 vụ, bạo lực tình dục 5 vụ. Thực trạng bạo lực gia đình đối
với người phụ nữ đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề.
Những người phụ nữ bị bạo lực họ bị xâm phạm nghiêm trọng các quyền về con
người, bị xúc phạm về danh dự, nhân phẩm và xâm hại về thân thể. Họ bị ảnh hưởng
đến sức khỏe, gây đau đớn, thương tích dẫn đến suy giảm khả năng lao động và có thể
dẫn tới cái chết. Phụ nữ bị bạo lực sẽ bị ảnh hưởng về tinh thần thường có tâm trạng bi
quan, chán nản, thất vọng trong cuộc sống, hay quẫn chí, dễ nóng giận, thần kinh
khơng ổn định và có thể dẫn đến trầm cảm, thậm chí nghĩ đến cái chết để giải tự thoát
cho bản thân.
2.3.2. Hậu quả đối với gia đình
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại huyện Vụ Bản làm tan vỡ hạnh phúc của
các gia đình có bạo lực, cuộc sống của họ ln bất hịa, mất ổn định, ảnh hưởng
nghiêm trọng tới các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là trẻ em. Khơng những
thế gia đình họ cịn bị thệt hại về kinh tế như chi phí điều trị thương tích do bạo lực,
thu nhập giảm do khơng có người lao động, danh dự, uy tín của dịng họ hoặc của các
thành viên khác trong gia đình bị giảm sút đáng kể.
Bạo lực gia đình đới với người phụ nữ tại huyện Vụ Bản để lại hậu quả không
chỉ cho nạn nhân mà cho các thành viên khác trong gia đình, nhất là trẻ em. Bạo lực
gia đình đối với người phụ nữ có tác động rất xấu tới sự phát triển cả về thể chất, tinh
thần, đạo đức và trí tuệ của trẻ em, bạo lực gia đình khiến trẻ em khủng hoảng, sợ hãi,
mất ngủ, thiếu tự tin, thất vọng, rối nhiễu tâm lý, trầm cảm.
2.3.3. Hậu quả đối với cộng đồng và xã hội
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ tại huyện Vụ Bản làm giảm sự đóng góp của nạn
nhân cho xã hội. Nó là mầm mống phát sinh tội phạm (hành vi hành chính dễ dẫn tới
hành vi hình sự). Bạo lực gia đình làm tăng áp lực lên hệ thống y tế và làm mất ổn
định, trật tự trong xã hội. Đồng thời cũng chất gánh nặng lên hệ thống các cơ quan tư
pháp của huyện. Ngoài ra, gánh nặng của hệ thống tư pháp trong vấn đề này còn thể
hiện ở việc phải giam giữ, quản lý và cải tạo những kẻ có hành vi bạo lực gia đình và
đặc biệt làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, chính trị và văn hoá - xã hội của
huyện Vụ Bản cũng như của cả nước ta.
18
Chương 3
VAI TRỊ CỦA NHÂN VIÊN CƠNG TÁC XÃ HỘI BÁN CHUYÊN NGHIỆP
TRONG VIỆC TRỢ GIÚP PHỤ NỮ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN VỤ
BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH
3.1. Vai trò tham vấn, tư vấn
Tham vấn, tư vấn là quá trình tương tác giữa nhà tham vấn (người có chun mơn,
kỹ năng, người có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp) và thân chủ (là người có khó khăn
trong cuộc sống cần được giúp đỡ) thông qua sự trao đổi, chia sẻ thân mật, chân tình (dựa
vào nguyên tắc đạo đức và mối quan hệ mang tính nghề nghiệp) giúp thân chủ hiểu và
chấp nhận thực tế của mình, tự tìm thấy tiềm năng bản thân để giải quyết vấn đề của chính
mình.
Với vai trị là người thực thi chính cách của Đảng và Nhà nước, đại diện bảo vệ,
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ. Trong những năm qua, nhân viên
CTXH huyện phối hợp cùng hội LHPN tỉnh Nam Định cũng như Uỷ ban nhân dân huyện
Vụ Bản và các cấp đã chủ động phối hợp với chính quyền địa phương, với ngành Tư
pháp, Cơng an trong công tác tuyên truyền, tham vấn, tư vấn cho các nạn nhân của các vụ
bạo lực gia đình. Tuy nhiên, các nạn nhân bị bạo lực thì lại khơng nhìn nhận hành vi bạo
lực là vi phạm pháp luật, chỉ khi bị đánh đập tàn nhẫn khơng cịn chịu đựng nổi thì họ mới
tìm đến các đồn thể, cơ quan chức năng để nhờ giải quyết, bởi họ không muốn đem vụ
việc ra giải quyết theo pháp luật. Vai trị trợ giúp của nhân viên cơng tác xã hội huyện Vụ
Bản đã tư vấn trợ giúp nạn nhân là người phụ nữ bị bạo lực được thể hiện cụ thể như sau:
Khi nhân viên CTXH được báo cáo có bạo lực gia đình xảy ra tại địa phương, nhân
viên CTXH phối hợp với hội LHPN kịp thời có mặt tại nơi xảy ra bạo lực, thơng báo với
tổ hịa giải và chính quyền, cơng an tại địa bàn dân cư để kịp thời trợ giúp bảo vệ nạn
nhân.
Nhân viên CTXH đã gặp trực tiếp thân chủ lắng nghe và tìm hiểu nguyên nhân,
hậu quả phụ nữ bị bạo lực đang gặp phải, bằng tâm huyết và nhiệm vụ, kỹ năng của mình
nhân viên CTXH đã lắng nghe, chia sẻ và động viên thân chủ, tư vấn cho thân chủ bình
tĩnh và sẽ cùng thân chủ giải quyết vấn đề khó khăn đang gặp phải. Nhân viên CTXH đã
tư vấn cho nạn nhân về luật hơn nhân và gia đình; luật bình đẳng giới; luật phịng, chống
bạo lực gia đình; các chính sách của Đảng và Nhà nước…Qua việc tư vấn, tâm lý của nạn
nhân đã trở lại ổn định và nhìn nhận được vấn đề của mình đang gặp phải, cố gắng vượt
qua khó khăn vươn lên trong cuộc sống.
19
Bên cạnh đó Nhân viên cơng tác xã hội tư vấn các chị em đến với những địa chỉ tin
cậy, các câu lạc bộ phịng, chống bạo lực gia đình, các chính sách của Đảng và Nhà nước,
ngân hàng cho vay vốn của các xã, thị trấn cho các chị em bị bạo lực trong huyện Vụ Bản.
Điều này đã góp phần tích cực giảm hậu quả cho nạn nhân, giúp nạn nhân phịng, chống
bạo lực gia đình một cách tốt nhất và trong công tác tư vấn giúp nâng cao nhận thức của
người dân về hành vi bạo lực gia đình.
3.2. Vai trị truyền thơng giáo dục việc phịng, chống bạo lực gia đình
Có nhiều biện pháp trợ giúp ngăn ngừa, phịng, chống nạn bạo lực gia đình đã được
thực hiện ở huyện Vụ Bản, đó là nhân viên CTXH đi sâu vào việc tuyên truyền thông qua
việc phát thanh tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh của các xã trong huyện, phát
tờ rơi, băng rôn, khẩu hiệu tuyên truyền với nội dung “Hành động vì một xã hội khơng
bạo lực”…, tun truyền về Luật phịng, chống bạo lực gia đình; Luật hơn nhân và gia
đình; Luật bình đẳng giới… và các hành vi bạo lực và biện pháp ngăn ngừa, phịng chống
bạo lực gia đình, mạng lưới hỗ trợ trong huyện là biện pháp nhằm đề phòng, phát hiện
sớm các mâu thuẫn, sự quan tâm lẫn nhau của cộng đồng trong cuộc sống, làm cho mỗi
người dân cảm thấy vững tin và có thêm chỗ dựa ngồi gia đình. Phong trào xây dựng gia
đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, thực hiện phong trào tồn dân đồn kết xây dựng đời
sống văn hóa, có vai trị quan trọng trong việc xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc, ngăn
ngừa các hành vi bạo lực gia đình đối với người phụ nữ. Nhân viên CTXH truyền thông
trong huyện đã đóng vai trị quan trọng trong các chiến lược nhằm thay đổi các giá trị văn
hóa bởi vì truyền thơng thể hiện sự đồng tình hoặc phản đối các giá trị văn hóa hiện hành.
Truyền thơng khơng chỉ chống lại hay xố bỏ những thói quen lâu đời được gọi là truyền
thống, tiềm ẩn những nguy cơ vi phạm quyền con người, mà còn phải chống lại cả những
thói quen tưởng như bình thường nhưng thực chất đang huỷ hoại tình thương u, lịng
tơn trọng giữa người chồng gây ra bạo lực đối với người phụ nữ. Cùng với các cơ quan xã
hội như hệ thống giáo dục và các quy tắc văn hóa, truyền thơng góp phần hình thành nên ý
thức xã hội. Nhân viên cơng tác xã hội truyền thơng thúc đẩy và duy trì hệ tư tưởng chủ
đạo của một xã hội và giúp duy trì sự hình thành văn hóa. Truyền thơng định hướng cho
cộng đồng và vì vậy nó có sức mạnh trong các phong trào thay đổi xã hội. Với sức mạnh
này, truyền thơng của nhân viên cơng tác xã hội có vai trò quan trọng trong việc phòng,
chống bạo lực gia đình. Nhân viên cơng tác xã hội truyền thơng đã giúp cho nạn nhân và
mọi người trong huyện được tiếp cận với những kiến thức, thông tin cần thiết, nâng cao
nhận thức, từ đó thay đổi hành vi, thói quen ứng xử, lối sống theo hướng tích cực, tiến bộ.
3.3. Vai trị hồ giải
Hồ giải giúp thân chủ giải quyết những tranh luận, xung đột tầm cỡ vĩ mô, trung
mô hay liên quan tới hệ thống vĩ mô. Ở mức độ vĩ mơ, người hồ giải giúp những tiểu hệ
thống khác nhau trong cộng đồng hay một cộng đồng và vài hệ thống khác, tạo sự khác
20
biệt. Ở mức độ vi mô và trung mô, người hồ giải giúp đỡ ở những lĩnh vực ly hơn. Nhân
viên cơng tác xã hội duy trì sự trung lập và ủng hộ đảng phái trong cuộc tranh luận.
(Zastrov and Kist-Ashman,1997).
Hiện nay tại các xã và thị trấn của huyện Vụ Bản đều có hệ thống hồ giải: Ban hồ
giải phường, xã, tổ hồ giải thơn, xóm, tổ dân phố, khu dân cư, những thành viên của ban
hoà giải thường từ chính quyền địa phương và các tổ chức đồn thể như Hội phụ nữ, Hội
nông dân…
Tại huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định các Ban và tổ hoà giải này giải quyết tất cả
những tranh chấp, bất đồng trong cộng đồng, trong đó có việc hồ giải mâu thuẫn về bạo
lực gia đình. Nhân viên cơng tác xã hội trong ban hồ giải là người có trách nhiệm, có uy
tín trong cộng đồng nên tiếng nói có trọng lượng. Trong q trình trợ giúp, can thiệp, hồ
giải mâu thuẫn, xung đột đặc biệt là bạo lực của người chồng gây ra đối với người phụ nữ,
nhân viên CTXH tư vấn cho người phụ nữ bị bạo lực gia đình, bên cạch đó đưa ra những
lời tư vấn tích cực về cách ứng xử, xử lý các mâu thuẫn trong gia đình đối với người gây
ra bạo lực, tư vấn cho thân chủ về pháp luật, Luật phòng, chống bạo lực gia đình, Luật
bình đẳng giới, Luật hơn nhân và gia đình, các chính sách của Đảng và Nhà nước, giúp
nạn nhân và những người gây ra bạo lực trong gia đình đối với người phụ nữ hiểu rõ hơn
về hệ thống trợ giúp.
Nhân viên cơng tác xã hội đóng vai trị quan trọng trong tổ hồ giải về việc can
thiệp và bảo vệ các gia đình và cơng dân đặc biệt là đối với nạn nhân là người phụ nữ, chỉ
ra những địa chỉ cần thiết và kết nối các nguồn lực mà nạn nhân có thể đến nhờ trợ giúp,
chăm sóc như người thân, hàng xóm, bệnh viện, các nhà tạm lánh, các tổ chức trong và
ngồi nước.
Trong cơng tác trợ giúp những người phụ nữ bị bạo lực giảm được hậu quả bạo lực
gây ra và giúp cho nạn nhân phịng, chống bạo lực gia đình tại huyện Vụ Bản, việc hòa
giải là phương thức được sử dụng nhiều nhất. Có trên 80% các vụ việc bạo lực gia đình tại
huyện Vụ Bản được xử lý bằng biện pháp hòa giải.
3.4. Vai trò trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý được hiểu là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người
được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý, giúp người được trợ giúp
pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tơn
trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ cơng
lý, bảo đảm cơng bằng xã hội, phịng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật. Trợ
giúp pháp lý là một phần quan trọng trong chính sách của nhà nước ta nhằm tăng cường
hệ thống tư pháp, các quyền dân chủ và một hệ thống tư pháp phục vụ nhân dân. Thực
hiện trợ giúp pháp lý miễn phí là thực hiện một hoạt động tiến bộ, có tính nhân đạo nhân
văn cao cả vì con người và nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của con người đồng
21
thời cũng là bảo vệ lợi ích pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhờ được trợ giúp pháp lý miễn phí
mà những người nghèo, những đối tượng chính sách có điều kiện tiếp cận, sử dụng các
quy định của pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đặc biệt trợ
giúp pháp lý đã trở thành chỗ dựa của người nghèo, nhóm người yếu thế trong xã hội, nạn
nhân bị bạo lực gia đình trong các vướng mắc, tranh chấp pháp lý.
Sự bất bình đẳng giới kéo dài và nền văn hóa mà ở đó đàn ông giữ quyền thống trị
xã hội đã chấp nhận, dung túng, thậm chí là hợp lý hóa tình trạng bạo lực gia đình và duy
trì sự im lặng trước tình trạng đó. Đa số các vụ việc đều khơng được báo cáo và không bị
phát hiện. Nhiều nạn nhân khơng báo cáo về tình trạng bạo lực mà họ đang chịu đựng do
xấu hổ, e ngại hoặc sợ hãi. Những vụ cưỡng dâm thường khó có thể phát hiện ra và nếu có
thì chỉ một vài vụ được báo với cơ quan chức năng. Sự im lặng của nạn nhân bạo lực gia
đình gây khó khăn đáng kể cho việc phát hiện và xử lý hành vi bạo lực.
Song song với việc tư vấn pháp luật, nhân viên CTXH đã tổ chức truyền thông kiến
thức về luật pháp theo từng lĩnh vực cho hàng nghìn lượt phụ nữ. Ngay khi Luật Phịng
chống bạo lực gia đình có hiệu lực thi hành (1/7/2008), Phòng LĐ TB&XH phối hợp cùng
Hội LHPN tổ chức truyền thông những nội dung cơ bản của Luật cho phụ nữ nhằm giúp
chị em hiểu được các hành vi bạo lực gia đình; các hành vi bị nghiêm cấm; các biện pháp
bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ
chức trong phịng, chống bạo lực gia đình Qua hoạt động trợ giúp pháp lý cho phụ nữ tại
huyện Vụ Bản, nhân viên CTXH cũng đã nhận và chuyển nhiều kiến nghị, đề xuất của
cán bộ, hội viên và các tầng lớp phụ nữ tới Đảng, Nhà nước, Hội phụ nữ các cấp phối hợp
giải quyết. Bên cạnh đó, cịn phối hợp chặt chẽ với ngành Tư pháp các cấp tích cực tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục kiến thức về pháp luật cho nhân dân, trong đó có phụ nữ, đặc
biệt là các luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em, các văn bản mới được ban
hành nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
3.5. Vai trò biện hộ
Đây là một vai trò quan trọng của nhân viên CTXH huyện Vụ Bản với tư cách là
một người đại diện cho tiếng nói của nạn nhân để bảo vệ cho lợi ích hợp pháp của nạn
nhân.
Đối với những người phụ nữ bị bạo lực gia đình quá sức chịu đựng hoặc là nạn
nhân bị buôn bán đã bi xâm phạm nhiều quyền và lợi ích, thì trong quá trình hỗ trợ, nhân
viên CTXH trực tiếp làm việc với các cơ quan chức năng như cơng an, Hội phụ nữ, tịa
án…. Để biện hộ, bênh vực, bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Biện hộ pháp lý cho phụ
nữ là nạn nhân bạo lực gia đình trong các vụ ly hơn.
Nhân viên CTXH hướng tới mục đích cuối cùng là gia ấm vào êm, hạnh
phúc.trường hợp khơng thể cứu vãn này thì nhân viên CTXH cần tính đến phương án ly
22
hơn để giải thốt cho nạn nhân, tất nhiên phải dựa trên yêu cầu, nguyện vọng của nạn
nhân.
3.6. Người kết nối nguồn lực
Đây là một vai trò quan trọng của nhân viên CTXH với tư cách là một người trung
gian kết nối nạn nhân với các nguồn lực cần thiết. Nguồn lực này có thể là các cá nhân, tổ
chức, ban ngành, đồn thể có liên quan đến vấn đề cần giải quyết của thân chủ; hoặc cũng
có thể là các dịch vụ sẵn có trong cộng đồng. Một nạn nhân bị bạo lực gia đình có thể có
nhiều nhu cầu cần trợ giúp khác nhau như hỗ trợ về mặt tâm lý, pháp lý, chăm sóc sức
khỏe, đào tạo nghề, vay vốn... Bởi vậy, để đảm bảo được vai trò này, nhân viên CTXH
huyện Vụ Bản nắm rõ các dịch vụ, lựa chọn phù hợp với thân chủ của mình và trực tiếp
giúp họ tiếp cận các dịch vụ.
Khi hỗ trợ nạn nhân sử dụng các dịch vụ, nhân viên CTXH có thể trao đổi với
những người cung cấp dịch vụ về hoàn cảnh của nạn nhân để họ có cách tiếp cận phù hợp,
tránh làm tổn thương thân chủ.
Nhân viên CTXH cùng các cấp Hội trong huyện Vụ Bản đã khai thác nguồn vốn
tín dụng ưu đãi trong và ngồi nước hỗ trợ cho các gia đình phụ nữ khó khăn, như: Vốn
vay Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn, các dự
án của các tổ chức phi chính phủ, Quỹ Hỗ trợ phụ nữ nghèo, công tác dạy nghề và giới
thiệu việc làm cho phụ nữ; tổ chức các lớp tập huấn kỹ năng truyền thơng, tun truyền về
phịng, chống bạo lực gia đình; xây dựng và nhân rộng các mơ hình CLB gia đình hạnh
phúc, CLB phịng chống bạo lực gia đình tại các địa phương, xây dựng mơ hình “Địa chỉ
tin cậy” tại cộng đồng; phấn đấu thực hiện “Mỗi cơ sở Hội xếp loại xuất sắc xây dựng
thêm được ít nhất 01 địa chỉ tin cậy ở cộng đồng”; phát huy lực lượng hội viên, cộng tác
viên nòng cốt và nhân dân trong việc phát hiện các hành vi bạo lực gia đình tại cộng đồng,
kịp thời tư vấn, giải quyết mâu thuẫn, bạo lực gia đình; trợ giúp nạn nhân bị bạo lực gia
đình…
Nhiều nạn nhân bị bạo lực bị ảnh hưởng rất nặng nề về thể chất, sức khỏe, tâm lý
tình cảm nếu khơng được chữa trị sẽ gây nên những hậu quả xấu. Nhân viên CTXH cung
cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần thông qua các đối tác cung cấp các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe chuyên nghiệp. Họ kết nối những cơ sở cung cấp các dịch vụ y
tế miễn phí để các nạn nhân bị bạo lực được khám và điều trị bệnh, thậm chí tìm kiếm các
trung tâm giám định y tế để giám định về tỷ lệ thương tật cho họ. Như đã đề cập ở trên,
23
hầu hết các nạn nhân bị bạo lực đều bị xâm hại, xâm phạm về quyền và lợi ích. Vì vậy,
đội ngũ nhân viên làm CTXH giúp nạn nhân tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ tư vấn pháp lý
nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng phụ nữ bị bạo lực thơng qua các văn phịng trợ
giúp pháp lý, các văn phòng luật sư và cơ quan tư pháp. Đồng thời, tìm kiếm các nguồn
lực, xin kinh phí học nghề tại các đối tác đào tạo nghề, hỗ trợ cá nhân và tham vấn nghề
nghiệp định kỳ trong thời gian học nghề, xây dựng kế hoạch nghề nghiệp và chuẩn bị
hành trang, sẵn sàng làm việc sau khi hỗ trợ. Song song với các hoạt động trên, nhóm phụ
nữ bị bạo lực được trang bị các kỹ năng tìm kiếm thơng tin việc làm và phỏng vấn, tiếp
cận với nhà tuyển dụng. Chính đội ngũ nhân viên CTXH phối hợp với các tổ chức, cơ
quan đơn vị giới thiệu việc làm, tổ chức nhân đạo từ thiện để tạo việc làm cho nạn nhân.
Nhân viên công tác xã hội của huyện Vụ Bản là người đóng vai trị trung gian kết nối phổ
biến các chính sách, quy định pháp luật với người phụ nữ bị bạo lực gia đình và người
chồng gây ra bạo lực tại huyện Vụ Bản, để cho họ hiểu và thực hiện.
Nhân viên Công tác xã hội cũng là người kết nối phụ nữ bị bạo lực gia đình với
những chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, tới những chính sách trợ giúp khẩn cấp.
Nhân viên cơng tác xã hội cịn đóng vai trò là người kết nối phụ nữ bị bạo lực với tổ hồ
giải của thơn, xóm, chính quyền địa phương, cơng an, luật sư, tồ án…. những tổ chức xã
hội, để trợ giúp cho họ một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất giúp họ tạm thời tạm lánh khi
bạo lực xảy ra.
Nhân viên xã hội định hướng cho các thân chủ tiếp cận đến các dịch vụ xã hội hiện
có hoặc hướng đến xây dựng các dịch vụ xã hội cho các thân chủ được gọi là người môi
giới hay người kết nối nguồn lực. Nhân viên công tác xã hội dựa vào nhu cầu của thân chủ
và tìm các nguồn lực hỗ trợ phù hợp và kết nối họ với các nguồn lực đó giúp cho những
người phụ nữ bị bạo lực gia đình trong huyện Vụ Bản có được cuộc sống tốt đẹp và hạnh
phúc hơn.
24