Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

tiểu luận cao học TÌM HIỂU đạo đức KINH tìm hiểu tác phẩm “đạo đức kinh” của lão tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.84 KB, 22 trang )

Phần 1: MỞ ĐẦU
Nghiên cứu Lịch sử Triết học là một nhiệm vụ quan trọng của những
người làm công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Lịch sử của các trào
lưu triết học Phương Đông rất đồ sộ được biên soạn từ hai cái nôi lớn của tư
tưởng triết học nhân loại là Ấn Độ và Trung Quốc.
Trong tư tưởng triết học Trung Quốc, Lão Tử là một nhà triết học lớn,
đã có lúc Khổng Tử đánh giá rất cao tư tưởng của Ông. Ông không có những
tác phẩm đồ sộ nhưng tư tưởng triết học của Lão Tử khá đặc sắc, thể hiện một
trình độ trừu tượng hoá và khái quát hoá cao. Một trong những tác phẩm triết
học có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc, các nước lân cận kể cả phương Tây
chính là tác phẩm “Đạo đức kinh” của Lão Tử.
Nghiên cứu tư tưởng triết học Lão Tử trong tác phẩm “Đạo đức kinh” sẽ
góp phần nâng cao nhận thức về tư tưởng triết học Trung Quốc nói chung
cũng như tư tưởng triết học Lão Tử nói riêng.
Với ý nghĩa đó, Em lựa chọn đề tài “Tìm hiểu tác phẩm “Đạo đức
kinh” của Lão Tử” làm tiểu luận môn học Lịch sử Triết học.
Đề tài được kết cấu gồm ba phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Nội dung cơ bản tác phẩm Đạo đức kinh.
Phần 3: Kết luận
Một số nhận xét ( Thay cho lời kết của tiểu luận)
Để hoàn thành nhiệm vụ này, Em trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn
Đình Cấp, Tiến sĩ Bùi Thanh Hương đã nhiệt tình giảng dạy và truyền thụ
những kiến thức quý báu của môn học lịch sử Triết học để từ đó giúp Em có
được những kiến thức cơ bản và phương pháp nghiên cứu khoa học để tiếp
tục nghiên cứu hiểu rõ hơn những tư tưởng Triết học vĩ đại của nhân loại.

1



Phần 2: NỘI DUNG CƠ BẢN TÁC PHẨM ĐẠO ĐỨC KINH.
1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Cũng như cuộc đời của Lão Tử, tác phẩm Đạo đức kinh cũng có nhiều ý
kiến về hoàn cảnh ra đời của nó.
Theo sách Sử ký của Tư Mã Thiên, tác phẩm Đạo đức kinh là do Lão Tử
viết, gồm trên năm nghìn chữ.
Thời gian ra đời của tác phẩm có nhiều ý kiến. Có sách cho rằng tác
phẩm ra đời vào cuối thời Xuân Thu, có sách lại cho rằng tác phẩm ra đời vào
đầu thời kỳ Chiến Quốc. Ngày nay, nhiều ý kiến cho rằng tác phẩm ra đời vào
giữa thời Chiến Quốc.
Bản lưu hành Đạo đức kinh phổ biến từ trước đến nay là bản chú thích
của Vương Bật đời nhà Nguỵ, gồm 81 chương, chia làm hai phần, phần đầu là
Đạo kinh có 37 chương, phần sau là Đức kinh có 44 chương.
Theo tác giả Hà Thúc Minh, năm 1973, giới khảo cổ học của Trung
Quốc đã khai quật những ngôi mộ cổ đời Hán ở Trường Sa (tỉnh lỵ Hồ Nam)
phát hiện bản Đạo đức kinh chép tay được coi là bản chép tay xưa nhất, bản
này đặt Đức kinh trước Đạo kinh.
Tài liệu Đại cương triết học Trung Quốc do PGS TS Doãn Chính chủ
biên, cho rằng, tác phẩm Đạo đức kinh là do các môn đệ của trường phái Đạo
gia viết sau này, ghi lại tư tưởng của Lão Tử, chứ không phải trước tác của
Lão Tử.
Theo GS Phan Ngọc, thì Đạo đức kinh không thể do nhiều người viết vì
văn phong của nó rất thống nhất, tất cả các chương đều viết với văn phong
cực kỳ trau chuốt và thể hiện trình độ rất cao về tư tưởng, về văn học. Cho
nên, phải là một người viết thì mới đạt đến trình độ thống nhất và chuẩn mực
đến như thế.
Ở nước ta, tác phẩm Đạo đức kinh đã được các nhà nghiên cứu rất quan
tâm, nên đã dịch tác phẩm này ra tiếng Việt. Chẳng hạn, Đạo đức kinh, Nxb
Khai Trí , Sài Gòn, 1962, do tác giả Nguyễn Duy Cần dịch; Đạo đức kinh,


2


Nxb Bộ giáo dục quốc gia, Sài Gòn, 1959, do tác giả Nghiêm Toản dịch; Đạo
đức kinh, Nxb Văn hoá , Hà Nội, 1994, do tác giả Nguyễn Hiến Lê dịch; Đạo
đức kinh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1997, do tác giả Phan Ngọc dịch; … Ngoài
ra có một số tài liệu tham khác viết về tác giả và tác phẩm Đạo đức kinh.
Như vậy, để tìm hiểu tư tưởng triết học của Lão Tử, ở nước ta cũng đã
có nhiều bản dịch về tác phẩm này.
Trong tiểu luận này tác giả lựa chọn bản dịch Đạo đức kinh, Nxb Văn
học, Hà Nội, 1997, do tác giả Phan Ngọc dịch vì nó xuất bản mới nhất và trên
cơ sở như lời tựa tác giả nói là tiếp thu những giá trị cũng như tránh được
những sai lầm của các bản dịch trước. Bản dịch của Phan Ngọc khoảng hơn
90 trang, ông gọi bản này là Đạo đức kinh dễ hiểu, bởi theo ông đây là cách
dịch dễ hiểu, nên ông tạm gọi như vậy.
2. Nội dung cơ bản của tác phẩm:
Tư tưởng triết học Lão Tử được trình bày ngắn gọn, súc tích trong Đạo
đức kinh. Cùng với trào lưu tư tưởng Nho giáo do Khổng Tử sáng lập, tư
tưởng của Lão Tử đã soi sáng hành trình phát triển tư tưởng triết học Trung
Quốc cổ đại và từ đó về sau đã ảnh hưởng sâu sắc nền văn hoá Trung Quốc,
các nước trong khu vực và vươn ra cả phương Tây. Có thể ví tư tưởng triết
học của Lão Tử là kim tự tháp lớn trong lịch sử triết học Trung Quốc. Những
phạm trù triết học cũng như tư tưởng của ông đã ảnh hưởng và chi phối đến
sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử.
Về nội dung tác phẩm có rất nhiều vấn đề được Lão Tử bàn đến, nhưng
cơ bản có thể khái quát thành ba nội dung lớn là:
- Quan niệm về đạo.
- Tư tưởng về phép biện chứng.
- Chủ nghĩa vô vi.
Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu các nội dung cơ bản nêu trên.

2.1 Quan niệm về đạo

3


Phạm trù Đạo đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử triết học Trung Quốc,
các văn bản cổ như Thượng thư, Kinh thi, … đã nói đến đạo với nhiều ý nghĩa
khác nhau: thiên đạo, đại đạo, nhân đạo, … Theo PGS Hà Thúc Minh, phạm
trù đạo trong thời Xuân Thu – Chiến Quốc người đầu tiên đề cập đến đạo là
Tử Sản: “Đạo trời xa, đạo người gần, khó lòng mà nắm bắt được” (Tả truyện,
Chiêu công tập cửu niên), với ý nghĩa là con đường.
Đến Lão Tử, đạo đã được ông nâng lên thành khái niệm có nội dung khá
sâu sắc và hệ thống hơn, được coi là một phạm trù cơ bản của tư tưởng triết
học Lão Tử. Và cũng từ đó về sau trong lịch sử triết học Trung Quốc, phạm
trù đạo là phạm trù cơ bản, xuyên suốt. Ngòi nghĩa là con đường thì đến Lão
Tử, phạm trù đạo còn được hiểu là quy luật, là bản nguyên, là chuẩn mực, …
Trong tác phẩm Đạo đức kinh, phạm trù đạo được Lão Tử sử dụng với
tổng số 74 lần, tuy nhiên, có những khái niệm được ông sử dụng tương đương
với từ đạo thì chúng ta chưa thống kê được, chẳng hạn như là “một”, “cốc
chấn” , …
Vậy phạm trù đạo có nội dung như thế nào?
Ngoài nghĩa là con đường, đạo còn có nghĩa là bản thể luận, Lão Tử
trình bày đạo theo ba mặt: thể, tướng, dụng.
Về mặt thể của “đạo”, Lão Tử đã dùng nhiều thuật ngữ để diễn đạt, như
“đạo huyền”, “đại đạo”, “đạo thường”, “một”, “cốc thấn” … Các thuật ngữ
này đều đồng nhất với “đạo”, song chỉ những tính chất khác nhau của “đạo”.
Trước hết, đó là tính chất khách quan, tự nhiên, thuần phác của “đạo”. Tính
chất này được Lão Tử đưa lên hàng đầu. Ông viết: “Nhân pháp địa, địa pháp
thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (Chương 25).
Tính khách quan, tự nhiên của “đạo” được hiểu nó vốn như thế, mộc

mạc, thuần phác, không bị nhào nặn, gọt giũa bởi con người và nó hoàn toàn
độc lập với ý muốn, nguyện vọng của con người. Nó sinh ra vạn vật nhưng
không có ý chí, không có dục vọng và mục đích. Nó cứ thản nhiên lạnh lùng
“không vì kẻ rét mướt mà gạt bỏ mùa đông”. “Đạo” sinh ra vạn vật nhưng

4


không cho vạn vật là của mình. Nó vô tình “coi vạn vật như loài chó rơm”
(Chương 5). Chính tính khách quan, tự nhiên đó mà trời đất hóa sinh phó mặc
tự nhiên, không can thiệp, chẳng có lòng nhân, còn vạn vật cứ tự nhiên sinh
sinh hóa hóa, chẳng cậy chẳng khoe. Tính tự nhiên trong “đạo” không giống
như cách hiểu của triết học phương Tây là đối lập với ý thức, tư tưởng, mà
“đạo” với bản tính tự nhiên chứa đựng và viên đồng hết thảy cả cái tồn tại và
không tồn tại, cả cái tĩnh lặng và biến đổi, cả cái siêu hình và hữu hình. Vì thế
không thể nói Lão Tử đứng trên quan điểm duy vật hay duy tâm để bàn về
“đạo” được.
Ý kiến cho rằng đạo là duy vật vì họ dựa vào một số câu trong Đạo đức
kinh: Hữu vật hỗn thành (Chương 25), Đạo chi vi vật, duy hoảng, duy hôt.
Hốt hề hoảng hề, kỳ trung hữu tượng. Hoảng hề hốt hế, kỳ trung hữu vật
(Chương 21). Và trong tư tưởng của ông phủ nhận sự tồn tại của thần và vai
trò sáng tạo, chi phối của thần, cho nên, đó là tư tưởng vô thần.
Ý kiến khác, cho rằng đạo là duy tâm, họ dựa vào câu nói của Lão Tử
sau: “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh muôn vật” (Chương
42).
Như vậy, trong tư tưởng của Lão Tử có chứa đựng mâu thuẫn. Tuy
nhiên, giữa duy vật và duy tâm thì các nhà triết học phương Đông đều có tư
tưởng không nhất quán. “Đạo” chứa ẩn tiềm tàng trong nó cả hai và cả hai chỉ
có thể được biểu hiện ra trong quá trình vận hành của nó. Ông viết: “Trời
được một mà trong. Đất được một mà yên. Thần được một mà linh”. Dùng từ

“một” (nhất) Lão Tử diễn đạt “đạo” là cái gốc ban đầu của toàn bộ vũ trụ, cái
một tuyệt đối vĩnh hằng, có trước trời đất. Trong câu: “Đạo sinh một, một
sinh hai, hai sinh ba, ba sinh muôn vật” (Chương 42), Lão Tử muốn diễn đạt
“một” là cái mà “đạo” hiện ra chứa đựng “thái cực”. Diễn đạt như vậy, Lão
Tử đã coi đạo là cái vô cực và chứa đựng trong nó thái cực. Đúng như trong
Kinh Dịch, Hệ từ có câu: “Dịch hữu thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi…”.
Vậy “thái cực” là “một”, là cái được hiện ra từ “đạo”, nó sinh ra từ “đạo”.

5


Đề cao tính tự nhiên, thuần phác của “đạo”, Lão Tử không thừa nhận sự
biến hóa của thế giới tuân theo mục đích định sẵn của thế lực siêu tự nhiên
nào đó. Ông cũng phản đối việc lấy hành động tự giác và có ý chí của con
người gán cho giới tự nhiên. Ông kêu gọi “dứt thánh, bỏ trí”, “bão pháp tự
nhiên”, kịch liệt chống lại tính chất “hữu vi” của các trường phái Nho, Mặc.
Quan điểm ấy của ông cũng chống lại mục đích luận của chủ nghĩa duy tâm.
Ông đã cố gắng tìm ra tính quy luật khách quan của vạn vật vận động và biến
hóa, dạy mọi người phải hành động theo quy luật tự nhiên. Nhưng ông lại cho
rằng con người chỉ có thể thích ứng với quy luật tự nhiên một cách bị động,
đứng trước tự nhiên, con người không cần làm gì cả.
Thuộc tính thứ hai của “đạo” được Lão Tử nói đến nhiều trong Đạo đức
kinh là tính chất lặng yên và trống không. Ông viết: “Hãy đạt đến cái trống
không cùng cực; hãy giữ lấy cái hết sức yên tĩnh. Muôn vật đều sinh ra, ta qua
đó thấy chúng đều trở về gốc. Vật tuy nhan nhãn, tất cả đều trở về cái gốc của
mình…. Trở về cái bản tính gọi là cái lẽ tự nhiên(/thường/). Biết được cái lẽ
tự nhiên gọi là sáng suốt” (Chương 16). Lão Tử thường dùng từ “cốc thấn” để
chỉ tính chất trống rỗng của “đạo”. “Cốc thấn” chỉ khoảng trống không giữa
lòng hang sâu, không hình, không ảnh, không ngược, không trái, ở thấp không
hèn không động, giữa lặng yên không suy.

Nghiêm Phục đã giải thích: “gọi là cốc vì giữ lấy nghĩa trống không, gọi
là thấn vì lặng lẽ mà cơ ứng vô cùng, bảo là bất tử vì không bao giờ kiệt,
chuyển động mà càng ra, ba điểm này đều thuộc tính của đạo”. Như vậy, sự
lặng yên, trống rỗng của “đạo” là một định tính có tính chất căn bản. Sự trống
rỗng này vô cùng vô tận, chứa đựng muôn vật vạn loài mà chẳng bao giờ đầy,
biến hóa khôn lường mà chẳng bao giờ kiệt. Cứ lặng yên, trống rỗng của
“đạo” còn được Lão Tử diễn đạt bằng từ “vi diệu, huyền thông”. Ông cũng
dùng chữ “huyền” với nghĩa sâu kín, mầu nhiệm, không danh tính, không
hình thể, không thể nói ra được bằng lời để chỉ “đạo” biến hóa. Ông viết: “Cái
“Vô”là cái tên chỉ cái khởi thuỷ của trời đất; cái “Hữu” là cái tên chỉ bà Mẹ

6


của muôn vật… Cả hai cái (mặt vô và mặt hữu) này cùng xuất hiện với nhau
mà tên gọi khác nhau. Hiện tượng cùng xuất hiện này là cái huyền diệu. Đó là
cái huyền diệu của sự huyền diệu, cái cửa để bước vào mọi cái huyền diệu”
(Chương 1). Xét về mặt khái niệm, Lão Tử không phải đi tìm những thuộc
tính chung của vạn vật mà thực chất là tìm ra những nguyên nhân đầu tiên,
sinh ra vũ trụ, vạn vật? Vì thế mà ông coi “đạo” là mẹ của muôn loài, là chủ
của trời đất “ta không nó là con của ai, dường như có trước thượng đế”
(Chương 4). Thế nhưng, cái đầu tiên đó lại có trong tất cả vạn vật. Nó “ngổn
ngang rối rít” nhưng “pha trộn vào ánh sáng”, “hòa chung vào bụi bặm”, lớn
vô cùng và nhỏ vô cùng, không ở đâu không có sự tồn tại của “đạo”. “Đạo”
lớn giàn giụa, lan tràn khắp nơi, không chỗ nào không tới. Với quan điểm đó,
mặt thể của “đạo” cũng chính là bản chất sâu kín, huyền nhiệm của vũ trụ,
vạn vật.
Mặt tướng của “đạo”, Lão Tử đã dùng rất nhiều từ ngữ, hình ảnh để làm
bật lên hình dáng, trạng thái của nó. Ông cho rằng “đạo” cơ sở đầu tiên của
vạn vật không phải là một thể đặc biệt cố định, mà là thực thể của khối hỗn

độn, không có một tính quy định nào, ngoài tính chất khách quan, tự nhiên
chất phác, trống rỗng huyền diệu. Nó là cái tồn tại tuyệt đối, sâu kín, mập mờ,
thấp thoáng, là thể thống nhất hòa hợp không phân chia giữa sáng và tối, hữu
và vô. Nó không có hình trạng, “Vật mà nhìn không thấy thì gọi là “Di”; lắng
tai nghe mà không nghe thì gọi là “Hi”; chộp mà không nắm được thì gọi là
“Vi” ba cái này không thể truy cứu được nên gộp làm một. Cái trên của nó
không sáng; cái dưới của nó không tối. Cho nên gọi nó là cái hình trạng
không có hình trạng, cái hình tượng không có sự vật.”(Chương 14). Nhưng
“đạo” không bao giờ mất, nó tồn tại đầy khắp cả vũ trụ, là đầu của trời đất, là
mẹ của muôn vật. Vì thế không thể diễn tả nó bằng lời, không thể gọi nó bằng
các tên thường, mà nếu gọi được tên thì ắt tự nhiên có đối chọi, cân xứng với
nhau như tốt xấu, thiện ác, đầu cuối. Nhưng Lão Tử cũng gượng đặt tên cho
nó là “đạo”, gọi là “đạo vô danh”, “Cái Lớn ấy đi; cái đi của nó xa; cái xa của

7


nó quay về” (Chương 25). “Đạo vô danh”, nhưng nó vẫn tồn tại. Sự tồn tại
của “đạo” được biểu hiện trong mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại biến hóa
vô cùng vô tận. Như vậy, “đạo” không chỉ một sự vật, hiện tượng cụ thể hữu
hình nào, mà nó là cái tất cả mọi vật từ đó sinh ra và là cái tồn tại tiềm ẩn
dưới những thay đổi của vạn vật. Do đó, “đạo” vừa duy nhất, vừa thiên hình
vạn trạng, vừa bất biến, vừa biến hóa.
Trong chương đầu của Đạo đức kinh, Lão Tử đã viết: “cái đạo cực lớn
thì không có tên. Chỉ có cái đạo là khéo sinh ra và tạo thành muôn vật”. Ông
cũng nói: Đạo ẩn nấp thì vô danh (Chương 41), nhưng “từ xưa đến nay tên
của nó chẳng mất để làm cái gốc của muôn vật” (Chương 21). Theo Lão Tử,
từ trời đất đến muôn vật và tất cả những gì có hình tượng, màu sắc, âm thanh
đều bắt đầu từ cái tự nhiên, sâu kín, không danh tính, không hình thể, vô cùng
vô tận ấy, đó là “đạo vô danh”. Vì thế, ông nói: “Cái Đạo vĩnh viễn thì không

có tên gọi, nguyên mộc” (Chương 32) và “muôn vật trong thiên hạ đều do cái
Hữu mà sinh ra. Cái hữu là do cái vô mà sinh ra” (Chương 40).
Đặc biệt trong Đạo đức kinh, Lão Tử thường lấy nước để diễn đạt trạng
thái của đạo. Đó là tính mềm mại, linh hoạt và dễ thích ứng của nước. Ông
viết: “Trong thiên hạ không có gì mềm yếu hơn nước nhưng công việc phá cái
cứng rắn mạnh thì không có cái gì hơn nước, khôôccs cái gì thay thế được nó
(Chương 78). Theo Lão Tử, dưới trời mềm nào bằng nước, rắn nào bằng đá,
vậy mà nước chảy đá mòn, núi lở. Nước lại giống đạo ở chỗ không thể chất,
không hình trạng. Nước không nơi nào không tới, làm yên tĩnh bằng phẳng,
êm ái ở khắp nơi. Nó rất mềm song không có gì mạnh hơn nó, nên Lão Tử
chủ trương lấy mềm thắng cứng, lấy nhu thắng cương: “Nếu như cái nước lớn
chịu ở chỗ thấp thì sẽ là nơi quy tụ (/giao/)của thiên hạ” (Chương 61).
“Đạo” không giống như nước chảy về nơi thấp, giống như sông dài, biển
rộng, to lớn mênh mông, nhưng nó là chỗ thấp nên trăm dòng chảy dồn về.
Nước mềm mại không tranh chấp ganh đua vì nó nhún nhường, cho nên nó
lan tràn và len lỏi khắp nơi, có thể làm vua các dòng nước vì khéo biết ở chỗ

8


thấp. Chỉ vì ở dưới thấp nên biển mênh mông rộng lớn không có gì là không
thể chứa đựng.
Một đặc tính của nước là thế quân bình của nó. Trong bất cứ trường hợp
nào dù nghiêng ngửa, chao đảo đến đâu đi chăng nữa thì nước vẫn mau chóng
tìm được thế quân bình của mình, tạo ra mặt phẳng, san lấp tất cả lồi lõm. Có
lẽ, diễn đạt luận quân bình trong “đạo”, không có một ví dụ nào, không có
hình ảnh nào hơn nước.
Mặt dụng của “đạo” chính là công dụng, năng lực của nó. Đó là trạng
thái vận động, biến đổi với năng lực sản sinh và huyền đồng vạn vật. “Đạo”
có sức sáng tạo vĩ đại, bao quát, ngự trị trời đất. Nhận được “đạo” tắm tưới,

vạn vật hiển hiện ra trong trời đất bằng muôn loại hình dạng khác nhau. Lão
Tử viết: “Cái khoảng giữa trời đất, giống như ông bễ, tuy trống không mà vô tận,
càng động lại càng ra hơi”. Lão Tử đã lấy hình ảnh của ông bễ, của người thợ rèn
để diễn đạt cái năng lực sáng tạo vô tận của “đạo”. Từ trong sự trống rỗng của ông
bễ khi vận động, vạn vật sinh sôi nảy nở như hoa thoát ra từ ống bễ. Tuy “đạo”
bao trùm, che chở và nuôi dưỡng vạn vật, nhưng nó không khoe khoang, ỷ thế mà
cứ thản nhiên như không làm gì. Ông nói: “Cái Đạo bao giờ cũng Vô vi, nhưng
không việc gì không làm” (Chương 37). Năng lực của đạo là ở chỗ không làm,
không có gì mà không cậy đến “đạo” để phát sinh, tồn tại và nuôi dưỡng. “Đạo”
làm cái không làm, săn sóc cái không việc, nếm cái không mùi vị, nên thánh nhân
bắt chước “suốt đời không làm việc gì lớn nên có thể làm nên việc lớn” (Chương
63).
Khi dùng hai chữ “đạo”, “đức” Lão Tử muốn chỉ cả hai mặt thể và dụng của
“đạo”, vì “đạo” là thể của “đức”, “đức” là dụng của “đạo”. Nói riêng bản thể thì
gọi là “đạo”, nói riêng công dụng thì gọi là “đức”, nên Lão Tử mới viết “Cái Đạo
sinh muôn vật, cái đức nuôi chúng, vật cấp cho chúng hình hài, hoàn cảnh làm cho
chúng trưởng thành. Vì thế cho nên muôn vật không vật nào không trọng cái Đạo
quý cái Đức” (Chương 51). Theo Lão Tử, “đạo” vốn không tên, đến “đức” tên
mới bắt đầu có, vạn vật nhờ “đức” chứa mà không đồng đều, sinh ra đối chọi lớn

9


nhỏ, nhiều ít, sướng khổ để suy tính phân biệt nhân, nghĩa, lễ vậy. Do đó mới nói:
“Cho nên cái Đạo có mất thì sau đó mới có cái Đức; cái Đức có mất thì sau đó
mới có chữ nhân; chữ Nhân có mất đi thì sau đó mới có chữ Nghĩa; chữ Nghĩa có
mất đi thì sau đó mới có chữ Lễ” (Chương 38).
Như vậy “đạo” là quả ngầm chứa lẽ sống mà chưa hiển lộ. Khi cây mọc thì
“đức” là rễ, nhân là thân, nghĩa, lễ là lá cành, trí là hoa. Trong Đạo đức kinh, Lão
Tử đã sự dụng 33 lần phạm trù đức. “Đạo”, “đức” do đó cao hơn và là chủ của

nhân , nghĩa, lễ, trí, tín. Nhân , nghĩa, lễ, trí, tín chỉ là cái vỏ hình thức bề ngoài, là
cái ngọn của “đạo” và “đức” mà thôi. Nho giáo theo vương đạo đều coi nhân ,
nghĩa, lễ, trí, tín đều từ đạo trời mà có, còn Lão Tử chủ trương bỏ nhân, nghĩa để
quay về với “đạo” và “đức”, chính là kêu gọi trở về với cái gốc của muôn vật, chứ
đừng ôm ngọn để rồi đánh mất “đạo”. Ông nói: “Thiên hạ có cái khởi thủy, coi
như là mẹ của thiên hạ, hễ giữ được mẹ là được con, đã biết được con trở về giữ
mẹ thì đến chết vẫn không nguy” (Đạo đức kinh. Chương 42). Xét về mặt tư duy,
khái niệm “đạo” của Lão Tử rất gần khái niệm “chân không” (sunyata) của Long
Thọ bồ tát. Cả hai đều cố gắng đi tìm nguyên thể đầu tiên làm cội nguồn của vũ
trụ vạn vật với những tính chất tự nhiên, tĩnh lặng trống không. Cả hai đều đạt
trình độ tư duy trừu tượng cao đến mức biến cả hai khái niệm mất tính thực tại để
lẩn vào bóng tối của sự thần bí, mầu nhiệm, linh thiêng.
Do đề cao vai trò của tư duy trừu tượng và tính chất huyền vi của “đạo”, nên
quan điểm về nhận thức của Lão Tử mang đậm màu sắc của chủ nghĩa duy tâm
tiên nghiệm. Theo ông, đối tượng của nhận thức không phải là thế giới vạn vật
cùng với quy luật của nó mà là “đạo”. Phải nhận thức “đạo” dựa vào sự thể
nghiệm trực quan, không cần phải thông qua kinh nghiệm thực tiễn. Ông nói:
“Không ra khỏi cửa lớn mà biết thiên hạ; không liếc nhìn ra cửa sổ mà thấy được
đạo trời. Người càng đi xa thì cái được của anh ta càng ít”. Do đó, “bậc thánh
nhân không đi mà biết, không nhìn mà thấy, không làm mà nên công” (Chương
47). Theo quan điểm của ông, thông thường cái gọi là tri thức là điều có hại đối
với “đạo”, phải loại bỏ. Ông viết: “Khi sự khôn ngoan, tính toán sinh ra là có cái

10


dối trá lớn” (Chương 18). Cho nên Lão Tử chủ chương “dứt thánh bỏ trí”, “tuyệt
học vô ưu” (Chương 48), nhằm đạt đến trạng thái hỗn nhiên, vô tri vô giác, trở về
với đức tính của trẻ thơ, tức trở về với cảnh giới gọi là “quy chân phản phác”. Có
như vậy mới xem là đắc đạo.

2.2 Tư tưởng về phép biện chứng
Bên cạnh ý nghĩa là bản thể luận, đạo còn có ý nghĩa là quy luật. Đây là
phần quý giá nhất trong triết học của Lão Tử, đó là phép biện chứng chất phác,
Lão Tử cho rằng, toàn bộ vũ trụ vạn vật do sự chi phối của “đạo” luôn luôn trong
quá trình vận động, biến hóa không ngừng, không nghỉ. Ông nói: “Đối với sự vật
thì có người làm trước; có người làm theo; có người nôn nóng; có người lạnh
nhạt; có người cứng rắn; có người mềm yếu; có người bối đắp; có người huỷ hoại
(/đây là hành động của người đời/)”(Chương 29) .Theo Lão Tử mọi sự vật hiện
tượng trong vũ trụ đều bao hàm hai mặt đối lập dựa vào nhau liên hệ, tương tác
lẫn nhau. Như: “Thiên hạ đều biết cái tốt là tốt thì đó đã là xấu rồi. Khi thiên hạ
đều biết cái thiện thì đó đã là cái bất thiện rồi. Cho nên, cái Hữu và cái Vô sinh ra
nhau, cái khó và cái dễ nghiêng vào nhau; cái dài và cái ngắn giao tiếp nhau; âm
và thanh chuyển hoá cho nhau; cái đi trước và cái đi theo sau – Thiên hạ giai tri vi
mỹ, tư ác dĩ, giai vi thiện, tư bất thiện; cố hữu vô tương sinh, nan dị tương hành,
trường đoản tương giao, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hòa, tiền hậu
tương tùy” (Chương 2), hay: “Cái hoạ là nơi cái phúc nương náu, cái phúc là nơi
cái hoạ ẩn nấp . Ai biết được kết quả của nó ra sao? Chẳng ai xác định được”
(Chương 58). Lão Tử khẳng định, chính sự liên hệ, tác động giữa các mặt, các
khuynh hướng đối lập nhau trong sự vật, hiện tượng đã tạo ra sự vận động, biến
đổi không ngừng của vũ trụ, và sự vận động, biến đổi của vũ trụ, vạn vật theo Lão
Tử không hỗn loạn, mà chúng tuân theo quy luật tất yếu – “đạo”. Đây là những
quy luật nghiêm ngặt, không có sự vật nào có thể tồn tại mà đứng ngoài quy luật
đó, kể cả trời đất, thần linh. Lão Tử viết: “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng lại
chẳng khó lọt” (Chương 73).

11


Theo Lão Tử, toàn bộ vũ trụ bị chi phối bởi hai quy luật cơ bản nhất là định
luật cơ bản nhất là luật quân bình và luật phản phục. Luật quân bình bắt nguồn từ

tư tưởng của Dịch học. Đó chính là thế cân bằng, trung dung. Luật này được biểu
hiện trong quẻ Thái của dịch, đó là trạng thái mà tri đất giao hòa, muôn vật hanh
thông. Phát triển tư tưởng trên, Lão Tử cho rằng luật quân bình làm cho vạn vật
vũ trụ vận động, biến hóa trong trạng thái cân bằng, theo một trật tự điều hòa tự
nhiên, không có cái gì thái quá, không có cái gì bất cập. Cái gì khuyết ắt sẽ được
tròn đầy, cái gì cong sẽ được thẳng, cái gì vơi sẽ được bù đắp cho đầy, cái gì cũ sẽ
được đổi mới. Ông viết: “(Đạo khiến) cái quanh co sẽ được bảo toàn; cái công thì
được duỗi thẳng; cái gì trũng xuống thì được tràn đầy; cái gì cũ nát thì sẽ mới lại;
cáio gì ít ỏi thì được thêm; cái gì nhiều thì sẽ gây mê hoặc. Chính vì vậy bậc thánh
nhân gữ cái một (/đạo/) mà làm mẫu mực cho thiên hạ” (Chương 22). Đó chính là
cái “Các sự vật có khi bớt nó mà lại thêm, thêm cho nó mà lại là bớt” (Chương
42). Nếu vi phạm luật quân bình, phá vỡ trạng thái vận động cân bằng của vũ trụ,
thì vạn vật sẽ rối loạn, trì trệ và có nguy cơ bị phá hoại.
Cùng với luật quân bình, vũ trụ vạn vật còn tuân theo luật phản phục. Theo
luật phản phục, cái gì phát triển đến tột đỉnh thì tất sẽ trở thành cái đối lập với nó;
sự vật khi phát triển đến cực điểm các tính chất của nó thì những tính chất ấy sẽ đi
ngược lại để trở thành tính chất tương phản. Lão Tử viết: “cái gì ít ỏi thì sẽ được
thêm, cái gì nhiều thì sẽ gây mê hoặc” (Chương 22), “Các sự vật có khi bớt mà nó
lại là thêm, thêm cho nó mà lại là bớt” (Chương 42) và “Cái cực mềm trong thiên
hạ chi phối cái cực cứng trong thiên hạ” (Chương 43). Phản phục, theo Lão Tử có
thể được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất, phản phục là sự vận động, biến hóa
có tính chất tuần hoàn, đều đặn, nhịp nhàng và tự nhiên của vạn vật. Như hết ngày
lại đến đêm trăng tròn rồi lại khuyết , trăng khuyết rồi lại tròn. Đó là quy luật bất
di bất dịch của tự nhiên. Vạn vật cứ “mập mờ, thấp thoáng”, khi đầy khi vơi, lúc
sinh lúc tử,… dưới sự chi phối tác động của luật phản phục. Vòng biến đổi tuần
hoàn, tự nhiên bất tận ấy của vạn vật, Lão Tử gọi là “thiên quân”. Phản phục còn
có nghĩa là sự vận động trở về với “đạo” của vạn vật, gọi là “sự phản giả đạo chi

12



động” (Chương 40). Trở về với đạo tự nhiên, vô vi là trở về với gốc rễ, cội nguồn
của mình, bền bỉ, trường tồn. Lão Tử viết: “Hãy đạt đến cái trống không cùng cực;
hãy giữ lấy cái hết sức yên tĩnh. Muôn vật đều sinh ra, ta qua đó thấy chúng đều
trở về gốc. Vật tuy nhan nhãn, tất cả đều trở về cái gốc của mình” (Chương 16).
Sự trở về với “đạo” của vạn vật, ở trạng thái nguyên sơ, tĩnh lặng, trống rỗng
và tự nhiên được coi là tất yếu, bởi theo Lão Tử: “Cái nặng là gốc rễ cho cái nhẹ,
cái yên tĩnh là gốc rễ cho cái nôn nóng – Trọng vi khinh căn, tĩnh vi táo quân”
(Chương 26), cái trống không là cơ sở để sinh ra cái có. Chỉ có trở về với “đạo”
thì vạn vật mới tồn tại, phát triển điều hòa, hanh thông. Cho nên Lão Tử nói: “đạo
pháp tự nhiên” là vì vậy. Từ đó, Lão Tử cho rằng tất cả những chủ trương cố định
can thiệp vào cái trật tự tự nhiên thì nhất định sẽ bị thất bại: “ Nếu trời không đạt
đến cái trong thì sợ sẽ vỡ. Đất không có cách đạt đến cái yên thì sợ sẽ hỏng. Thần
không có cách đạt đến cái thiêng thì sự sẽ tan; Các hang không có cái gì đạt đến
cái đầy sợ sẽ kiệt; muôn vật không có cái gì sống sợ sẽ diệt vong; các vương hầu
không đạt đến cái cao quý sợ sẽ mất ngôi” (Chương 39).
Từ luật quân bình và phản phục của vũ trụ, vạn vật, Lão Tử đã nâng lên
thành nghệ thuật sống của con người. Đó là sự từ ái, khiêm nhường, tri túc, tri chỉ.
Ông dạy mọi người: “Cái đạo muốn rút ngắn một vật thì ắt phải cố kéo nó ra.
Muốn làm cho nó yếu đi ắt phải làm cho nó mạnh lên. Muốn bỏ nó đi, ắt phải cố
đề cao nó … Mền yếu thắng cứng mạnh.” (Chương 36).
Ông cũng nói: “Vì vậy bậc thánh nhân đặt thân mình ra sau, cho nên cái thân
ông ta lại ở trước; đặt thân mình ra ngoài nên thân ông ta mới còn” (Đạo đức kinh.
Chương 7). “Không tự mình nhìn làm cho nên sáng; không cho mình là đúng nên
rực rỡ; không tự kheo mình nên có công lao; không tự mãn cho nên đứng đầu”
(Chương 22). Vì vậy, ông khuyên con người ta: “Ngọc vàng đầy nhà chẳng ai có
thể giữ được. Giàu sang mà kiêu căng thì tự chuốc lấy họa. Công đã thành thì
thân rút lui, đó là đạo trời” (Chương 9). Điều quan trọng nhất là trong nghệ thuật
sống của con người theo luật quân bình, phản phục đó là phải biết đủ (tri túc) và
biết ngừng (tri chỉ). Biết đủ và biết ngừng thì không bao giờ làm cái gì thái quá


13


hay bất cập đối với đạo tự nhiên, và tất nhiên sẽ không bao giờ bị tai họa. Ông
viết: “Không có cái hoạ nào lớn hơn là không biết tri túc; không sai lầm nào lớn
hơn là tham lam. Cho nên kẻ biết cái đủ là đủ thì không bị nhục và bao giờ cũng
thấy đủ. (Chương 44). Khi đã nhận thức được quy luật vận động, biến hóa của vũ
trụ vạn vật và có thái độ, hành động hợp với đạo tự nhiên, đó là sự “biết thường
gọi là sáng”. Lão Tử nói: “Theo đạo thì lâu dài, suốt đời không bị nguy hiểm”
(Chương 16). Như vậy, trong tư tưởng về phép biện chứng, có thể nói về căn bản,
Lão Tử đã vạch ra được quy luật, con đường vận động, biến đổi của vạn vật trong
thế giới khách quan. Theo ông, nguồn gốc của sự vận động, biến đổi ấy của vũ trụ,
vạn vật là sự liên hệ, tác động, chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong chính các sự
vật. Đây là thành quả đặc sắc nhất trong triết học của Lão Tử, biểu hiện năng lực
quan sát tinh vi và trình độ tư duy sắc sảo của ông đối với sự vật khách quan.
Trong học thuyết về quy luật vận động của vạn vật, Lão Tử mới chỉ thấy các mặt
đối lập trong sự vật, hiện tượng tồn tại nương tựa nhau một cách hình thức, giản
đơn. Lão Tử quan niệm sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập chỉ là sự thay thế,
chuyển đổi vị trí cho nhau một cách tuần tự, kế tiếp, phản phục, quân bình, không
có sự đấu tranh phủ định, bài trừ, thâm nhập vào nhau một cách biện chứng. Do
vậy, sự vận động, biến đổi của sự vật hiện tượng không có bước nhảy vọt, không
có sự thay đổi về chất, mà chỉ là quá trình lặp đi lặp lại, có tính chất tuần hoàn
buồn tẻ.
Tư tưởng biện chứng của Lão Tử tuy đã vẽ nên đúng đắn bức tranh sinh
động của hiện thực, nhưng về căn bản, nó vẫn mang tính chất tự phát, ngây thơ,
dựa trên những kinh nghiệm có tính trực quan cảm tính và chủ yếu là mô tả sự
biến chuyển của sự vật, hiện tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như trong xã hội.
Nó chưa có cơ sở để vạch ra bản chất bên trong của sự biến đổi đó. Đây không chỉ
là sự hạn chế bị quy định bởi tính chất thời đại lịch sử mà còn do sự hạn chế bởi

trình độ nhận thức còn thấp kém ở Trung Quốc thời bấy giờ.
2.3 Chủ nghĩa vô vi

14


Mở rộng tư tưởng về “đạo” đến mặt đời sống xã hội, Lão Tử đã đề xướng
học thuyết “vô vi”, qua đó ông đã trình bày những quan điểm hết sức đặc sắc của
mình về các vần đề đạo đức nhân sinh và chính trị xã hội. “Vô vi” là một học
thuyết triết học – đạo đức của người Trung Hoa cổ đại, đã được Lão Tử nâng lên
thành học thuyết về nghệ thuật sống của con người trong sự hòa nhập với tự
nhiên. Trong tác phẩm Đạo đức kinh, Lão Tử đã sử dụng 11 lần phạm trù vô vi.
“Vô vi” có thể dịch theo nghĩa đen là “không làm gì”. Nhưng thực chất theo
Lão Tử

cũng như theo cách hiểu của người Trung Hoa, danh từ “vô vi”

không có nghĩa là không có sự hoạt động gì, không làm gì cả, mà là hoạt động
một cách tự nhiên, không làm trái với quy luật tự nhiên, không can thiệp vào
guồng máy tự nhiên, không hoạt động có tính giả tạo, gò ép, không thái quá và bất
cập. Lão Tử viết: “Cái đạo bao giừo cũng vô vi, nhưng không việc gì không làm.
Các vương hầu nếu có thể giữ được nó thì muôn vật có thể tự mình thay đổi. .. Ta
không có ham muốn (riêng), dùng cái tĩnh để ứng phó thì thiên hạ tự nó sẽ ngay”
(Chương 37). Theo ông, đạo đức là cái luật tự nhiên, không cần tranh mà thắng,
không cần nói mà ứng nghiệm, không cần mời mà các vật vẫn theo về, lờ mờ mà
hay mưu tính. Nếu không thuận theo đạo tự nhiên, đem ý chí, dục vọng của con
người cưỡng ép vạn vật tức là lấy cái nhân vi, giả tạo thay thế cho cái tự nhiên, là
trái với “đạo vô vi”, tất nhiên sẽ thất bại. Cho nên, Lão Tử thường nói: “Lấy thiên
hạ bao giờ cũng bằng vô vi. Còn nếu gây việc thì không đủ để lấy thiên hạ”
(Chương 48).

“Vô vi” còn có nghĩa là không làm mất cái đức tự nhiên, thuần phác vốn có
của vạn vật, không ý chí, dục vọng, không ham muốn những gì trái với bản tính tự
nhiên của mình và của vật. Nếu để mất đức tự nhiên, ham muốn những gì trái với
bản tính tự nhiên của mình, cố tìm cách thỏa mãn những dục vọng đó, dẫn tới sự
can thiệp của guồng máy tự nhiên sẽ mang lại những tai họa: “Năm màu khiến
mắt người ta tối đi. Năm âm khiến tai người ta điếc đi. Năm mùi khiến miệng
ngwoif ta tê đi. Ham theo đuổi săn bắn khiến lòng người ta phát cuồng” (Chương
12).

15


“Vô vi”, không chỉ là sống tự nhiên thuần phác, không ham muốn dục vọng
mà còn không cần đến cả tri thức, văn hóa, kỹ thuật và cả sự tiến bộ xã hội. Ông
nói: “Trí tuệ sinh thì có đại ngụy” (Chương 18). Bởi theo ông, hiểu biết càng
nhiều thì trí xảo càng nhiều, trí xảo càng nhiều càng ham muốn, tranh đoạt, chiếm
đoạt, xâm phạm lẫn nhau, trái với đạo tự nhiên. Cho nên: “Theo cái học thì ngày
một tăng thêm, theo cái đạo thì ngày một bớt đi. Bớt đi lại bớt đi cho đến vô vi”
(Chương 48). Tốt nhất người ta hãy: “Cắt đứt cái học sẽ không phải lo lắng. Lời
vâng dạ và lời mắng nhiếc có cách nhau bao nhiêu đâu! Cái thiên và cái ác có
cách nhau bao nhiêu đâu” (Chương 20).
Trong tư tưởng “vô vi”, Lão Tử còn chống lại những chuẩn mực đạo đức và
thể chế pháp luật. Ông coi đó là sự áp đặt, cưỡng chế, can thiệp vào bản tính tự
nhiên của con người. Những cái đó cũng là nguyên nhân của sự giả dối và điều ác:
“Dùng ngay thẳng để trị nứơc; dùng mưu mô đểchiến đấu; nhưng dùng vô vi để
lấy thiên hạ” và “pháp lệnh càng rạch ròi thì giặc cướp càng nhiều” (Chương 57).
Còn tất cả những cái gọi là nhân, nghĩa, lễ, trí, theo Lão Tử, chỉ là giả tạo, trái với
tự nhiên, xa rời mất đạo mà thôi. Ông phê phán những quan điểm và chủ trương
“hữu vi” của Nho giáo và cho rằng: “Cho nên cái Đạo có mất thì sau đó mới có
cái Đức; cái Đức có mất thì sau đó mới có chữ nhân; chữ Nhân có mất đi thì sau

đó mới có chữ Nghĩa; chữ Nghĩa có mất đi thì sau đó mới có chữ Lễ” (Chương
38). Ông còn nói: “Khi cái đạo lớn bị bỏ rơi mới có nhân nghĩa. Khi sự khôn
ngoan tính toán sinh ra là có cái dối trá lớn. Sáu người thân chẳng hoà hợp mới có
hiếu và từ. Nước nhà có tối tăm loạn lạc mới có kẻ trung thần.” (Chương 18).
Thậm chí, sống theo đạo “vô vi”, theo Lão Tử, ngay đến chính bản thân mình
cũng không nên quý nó và lo lắng cho nó. Có thân mà coi như chẳng có, có tự
nhiên thanh thản thì chẳng có gì phải lo cả.
“Vô vi” còn có nghĩa là bảo vệ, giữ gìn bản tính tự nhiên của mình, của vật.
Cho nên Lão Tử nói: “Ta có ba cái quý: Cái thứ nhất là “Nhân từ”; cái thứ hai là
“Tiết kiệm”; cái thứ ba là “Không dám xem mình trước thiên hạ”. Vì nhân từ cho
nên có thể dũng cảm. Vì tiết kiệm cho nên có thể mở rộng. Vì không dám xem

16


mình trước thiên hạ cho nên co sthể thành chúa tể mọi vật(/khí trưởng/)” (Chương
67). Vì từ ái cho nên không cưỡng ép vật, vì tiết kiệm cho nên không thái quá,
không trái với đạo tự nhiên và vì không dám đứng trước thiên hạ cho nên tự
nhiên, thuần phác, không áp chế nhau, không ai lấy không ai bỏ, không ai hơn
không ai kém. Lão Tử viết: “bậc thánh nhân bao giờ cũng khéo cứu người, nên
không có người bị vứt bỏ, bao giờ cũng khéo cứu vật nên không có vật bị bỏ”
(Chương 27). Cho nên: “bậc thánh nhân bỏ cái quá mức, bỏ cái xa hoa, bó cái thái
quá”(Chương 29).
Như thế, theo Lão Tử đạt tới “vô vi” có thể làm cho con người ta trở nên
tuyệt vời. Họ luôn hòa mình vào khoảng không nhưng vẫn biết dành cho người
khác một chỗ mà không làm mất chỗ của mình. Họ biết giảm ánh sáng của mình
để có thể trầm vào bóng tối của kẻ khác. Họ ngập ngừng như kẻ phải lội qua sông
trong mùa đông, lưỡng lự như kẻ e ngại người láng giềng, run rẩy như tuyết sắp
tan, giản dị như miếng gỗ chưa đẽo, trống trải như thung lũng và bất dạng như
nước: Bậc toàn thiện xưa tinh tế, nhiệm màu, siêu huyền thông suốt, sâu chẳng

khả dò… thận trọng dường qua sông lạnh, do dự thường sợ mắt ngó bốn bên,
nghiêm kính dường khách lạ, chảy ra đường băng tan, quê mùa dường gỗ chưa
đẽo gọt, trống không dường hang núi, pha lẫn dường như nước đục (Chương 15).
Đạt được cách sống trên, người đạo học đã vươn tới chân thiện, là người bước vào
vương quốc của giấc mơ, để tỉnh dậy trước thực tế vào lúc chết.
Trong quan điểm về chính trị – xã hội, đối lập với chủ trương “hữu vi” Lão
Tử đề cao đường lối trị nước theo “đạo vô vi”. Ông nói: “Ta vô vi mà dân tự cải
hóa; ta thích yên tĩnh mà dân tính sửa mình; ta vô dự mà dân tự họ giàu có.”
(Chương 57). Trị nước theo đạo “vô vi”, Lão Tử chủ trương xóa bỏ mọi lễ giáo,
pháp luật, văn hóa, kỹ thuật; bỏ tất cả những cái gì trái với tự nhiên, tổn hại đến
bản chất tự nhiên của con người. Lão Tử nói: “Khi thiên hạ lắm chuyện kiêng cấm
thì dân càng nghèo; khi dân có nhiều mánh khéo mưu lợi (/lợi khí/) thì nước nhà
sẽ tối tăm; khi dân có nhiều kỹ xảo thì những vật lạ càng nảy sinh; khi pháp lệnh

17


càng rạch ròi (/chương/) thì giặc cướng càng nhiều”( Chương 57), và “trí tuệ sinh
đại ngụy” (Chương 18).
Cho nên phải “Cắt đứt cái sáng suốt, vứt bỏ cái khôn thì dân lợi gấp trăm lần.
Căt đứt nhâ, rời bỏ nghĩa, dân sẽ quay lại hiếu và từ. Cắt đứt cái khéo, vứt bỏ cái
lợi sẽ không có trộmg cướp… Cho nên phải khiến cho dân có cái để theo : nêu
cao cái giản dị, giữ lấy sự chất phác, giảm lòng riêng tư, bớt sự ham muốn”
(Chương 19). Đặc biệt, Lão Tử đã lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời
và phản đối những hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội do sự áp bức bóc lột của
bọn quý tộc cũng như sự phát triển kinh tế hàng hóa gây nên. Ông chỉ ra rằng, dân
đói là do quan trên ăn hết, bắt dân nộp thuế nhiều. Ông thóa mạ bọn quý tộc ăn
bám là bọn trộm đầu sở, bạo lực và đàn áp không thể nào dập tắt được sự phản
kháng của nhân dân. Bởi vì, dân không sợ chết thì làm sao lấy cái chết đe dọa cho
họ sợ? Từ đó, ông đòi giai cấp thống trị phải tuân theo quy luật tự nhiên, không

được can thiệp vào đời sống tự nhiên của con người, đưa xã hội và con người trở
về với trạng thái tự nhiên, nguyên sơ, chất phác, không ham muốn, không dục
vọng, không thể chế pháp luật, không bị ràng buộc bởi các nguyên tắc luân lý đạo
đức, không cần tri thức, trí xảo, mà tuân theo bản tính, khả năng, sở thích tự nhiên
của mỗi người và để mỗi người tự làm những việc cần phải làm một cách tự
nhiên. Lão Tử viết: “Không chuộng cái giỏi khiến dân không tranh giành. Không
quý những cái của khó kiếm khiến dân không làm trộm cắp. Không để lộ lòng
ham muốn khiến dân không làm loạn. Chính vì vậy cách cai trị của bậc thánh
nhân là: làm cho lòng dân trống rỗng, bụng dân no, chí dân mềm yếu, xương dân
cứng mạnh. Luôn luôn khiến dân không biết, không ham muốn, khiến kẻ khôn
không trổ được điều gì”(Chương 3). Hơn thế nữa, Lão Tử còn chủ trương đưa đức
tính con người trở lại với thời kỳ trẻ thơ, hồn nhiên, chân chất, vô dục. Ông nói:
“Không xa đức trở lại thì kỳ trẻ thơ”. Thánh nhân “không làm cho dân sáng mà
làm cho dân ngu” (Chương 65). Dân không sáng mà dân ngu ở đây, theo Lão Tử,
không hàm nghĩa là sự ngu dốt, mà là đức tính chất phác, giản dị, tự nhiên, vô tội.
Người lý tưởng trở về với cái đức tự nhiên “vô vi”, theo Lão Tử, là người mà

18


“Người đời sáng chói, riêng ta lù mù. Người đời rạch ròi, riêng ta ngu dốt, thô
lậu” (Chương 20). Cái lù mù, hỗn độn, ngu dốt, thô lậu của Lão Tử chính là cái
thấu suốt mọi lẽ của tự nhiên mà sống hòa hợp với tự nhiên, không tự mãn, không
tự phụ, không xao động, không phô trương, không thái quá hay bất cập. Cái ngu
đó là đại trí.
Theo đạo “vô vi”, Lão Tử mơ ước trở lại đời sống chất phác của thời đại
công xã nguyên thủy, không thể chế, không có chế độ tư hữu và trao đổi hàng
hóa, sống tự cấp tự túc. Đó là cảnh mộc mạc, “vô danh chi phác”, như đạo vô
danh của ông: Nước nhỏ, dân ít. Tuy có khí cụ gấp trăm gấp chục sức người cũng
không dùng đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có xe

thuyền mà không ai ngồi. Có gươm giáo mà không bao giờ dùng. Bỏ văn tự, bắt
người ta trở lại dùng dấu thắt dây ghi dấu thời thượng cổ. Ai nấy đều chăm chú
vào việc ăn no, mặc ấm, ở yên, vui với phong tục của mình. Ở nước này có thể
nghe thấy gà gáy chó sủa của nước kia, nhân dân trong những nước ấy có già chết
mà vẫn không qua lại lẫn nhau (Chương 80).
Trong quan điểm về chính trị – xã hội, với tư tưởng “vô vi”, Lão Tử kịch liệt
lên án chiến tranh, bạo lực và chủ trương “bất tranh” và “khiêm hạ”. Ông coi
chiến tranh là trái với đạo tự nhiên, là tàn bạo và đại họa cho xã hội. Theo ông,
chẳng có cái gì gọi là vinh hay nhục gì khi thắng hay bại trong chiến tranh. Đó là:
iệc chẳng lành, không phải việc của quân tử. Nếu bắt buộc phải dùng binh thì nên
điềm đạm. Nếu thắng cũng đừng cho là hay. Đắc thắng mà cho là hay tức là kẻ
giết người… Cho nên quân giết người nhiều thì phải biết đau xót mà khóc, cuộc
chiến thắng phải xử bằng tang lễ (Chương 31). Chiến tranh, theo Lão Tử không
chỉ gây ra sự chết chóc, tàn phá, đau thương mà hậu quả của nó còn ảnh hưởng lâu
dài trong đời sống xã hội. Vì ở đâu có quân lính đóng thì ở đó có gai góc sinh sôi.
Sau trận chiến lớn ắt có năm mất mùa (Chương 30).

19


Phần 3: KẾT LUẬN
MỘT SỐ NHẬN XÉT
Tư tưởng triết học Lão Tử là một trong những trường phái lớn ở Trung
Quốc cổ đại, mặc dù tác phẩm triết học của ông không nhiều, không đồ sộ
nhưng trong đó đã chứa đựng những nội dung hết sức cô đọng và sâu sắc.
“Lão tử thực sự trở thành viên ngọc quý của nền triết học phương Đông” 1. Bởi
vì trong tư tưởng của ông có những ưu điểm mà người đời sau phải kinh ngạc
vì một trình độ tư duy độc đáo, sâu sắc:
Thứ nhất là, ông đã hình thành một số phạm trù triết học mang tính hệ
thống, nâng lên trình độ cao hơn, mặc dù có phạm trù đã xuất hiện trước đó.

Chẳng hạn, phạm trù Đạo, ông đã sử dụng 74 lần; phạm trù đức, ông sử dụng
33 lần; phạm trù vô vi, ông sử dụng 11 lần trong tác phẩm Đạo đức kinh. Đây
là những đóng góp lớn của ông, từ đó về sau các phạm trù ấy được các nhà
triết học sử dụng rộng rãi.
Thứ hai là, ông đã có đóng góp lớn trong việc hình thành tư tưởng biện
chứng cổ đại Trung Quốc. Ông đã nhìn nhận, thế giới như một bức tranh vận
động và chuyển hoá không ngừng, phát hiện ra các mặt đối lập trong các sự
vật, hiện tượng, giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Thứ ba là, ông đã đề xuất một phương pháp trị nước của nhà cầm quyền.
Xét về mặt giá trị, đây là đóng góp hết sức quý báu, mặc dù trong lịch sử các
nhà cầm quyền Trung Quốc không áp dụng một cách riêng rẽ và thường
xuyên nhưng đã gợi mở những điều rất quan trọng về thủ thuật, cách thức,
đạo đức, tác phong , … của mẫu ngwoif cầm quyền trong xã hội phong kiến.
Thứ năm là, ở phương diện con người nói chung và cá nhân nói riêng,
ông đã lên tiếng kêu gọi hãy trở về với bản tính tự nhiên của con người, mộc
mạc, nhân văn, nhân bản, tránh tham lam, ham ố, tranh giành, chiến tranh , …
gây đau khổ cho con người.
1

Doãn Chính (Cb), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.178

20


Tuy nhiên, bên cạnh đó, ông mắc phải một số hạn chế như, tư tưởng của
ông thể hiện phần nào, thiếu đi tính năng động chủ quan của con người. Quan
điểm biện chứng rất đặc sắc, chỉ tập trung giải quyết vấn đề vận động mà ít
chú ý đến phát triển, đây là thiếu sót đáng tiếc trong tư tưởng của ông. Ông
chỉ chú ý sự thống nhất của hai mặt đối lập, mà chưa chú ý đến quá trình đấu
tranh của hai mặt đối lập, cho nên ông không khỏi rơi vào chủ nghĩa tương

đối. Từ đó, ông nhìn xã hội với tầm nhìn không phát triển, theo kiểu nước
nhỏ, dân ít. Đây là những hạn chế của ông mang tính tất yếu, bởi vì những lý
do của hoàn cảnh lịch sử mà bản thân con người trong hoàn cảnh đó rất khó
tránh

21


MỤC LỤC

22



×