Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Tiểu luận các học thuyết tiêu biểu của chủ nghĩa Mac-Lênin và liên hệ thực tiễn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.99 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
CƠ SỞ II TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
--------***--------

ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN
CÁC HỌC THUYẾT TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC- LÊ NIN VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM

Nhóm: ĐỊA CHỦ
Mã lớp: 32
Khóa: K52
Giảng viên: ThS.TRẦN QUỐC ĐẠT

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2014


DANH SÁCH NHÓM ĐỊA CHỦ


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC SƠ ĐỒ

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH
CNTB
GTTD


Chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa tư bản
Giá trị thặng dư


4

LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến K.Marx không thể không nhắc đến những đóng góp to lớn của ông trong
việc nghiên cứu chế độ kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa. Ông đã vận dụng thế giới
quan duy vật và phương pháp luận biện chứng duy vật vào quá trình nghiên cứu
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, từ đó đưa ra các học thuyết kinh tế quan trọng
được trình bày trong bộ sách đồ sộ “Tư bản”, nổi bật là ba học thuyết lớn về giá trị-lao
động, giá trị thặng dư, tích lũy tư bản. Kinh tế học của K.Marx bắt đầu bằng lý thuyết
sức lao động. Nhưng ông nhận thấy rằng giá cả thị trường dưới chủ nghĩa tư bản không
nhất thiết bằng với giá trị sức lao động bỏ ra mà có một phần chênh lệch được gọi là
giá trị thặng dư.
Kế thừa nền tảng học thuyết của K.Marx, Lenin đã viết những tác phẩm kinh tế
quan trọng như: Bàn về cái gọi là vấn đề thị trường(1893); Những người “bạn dân” là
gì, họ đấu tranh chống những người xã hội dân chủ như thế nào?(1984);…Qua các tác
phẩm đó, Lenin đã đưa ra nhiều nhận định và quan điểm có giá trị thời sự, bổ sung và
phát triển những lý luận kinh tế quan trọng của Marx sao cho phù hợp với thực tiễn nền
kinh tế. Đồng thời, Lenin đưa ra học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đây là những nấc thang mới trong quá trình phát
triển và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
để thích ứng với những biến động mới trong tình hình kinh tế - chính trị thế giới từ
cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX cho đến nay.
Trong bài tiểu luận này, nhóm Địa Chủ sẽ trình bày cụ thể về bốn học thuyết kinh
tế tiêu biểu của chủ nghĩa Marx-Lenin, bao gồm: học thuyết giá trị, học thuyết giá trị
thặng dư, học thuyết tích lũy tư bản và học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và

chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Đồng thời liên hệ với thực tế Việt Nam của
chúng ta hiện nay, đưa ra những định hướng cho công cuộc đổi mới và cải cách nền
kinh tế hiện đang còn nhiều bất cập.


5

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG HỌC THUYẾT TIÊU BIỂU CỦA CHỦ NGHĨA MARX
1.1 Học thuyết giá trị - lao động:
1.1.1 Lý luận giá trị trong các học thuyết kinh tế trước đó:
William Petty- Người đầu tiên đưa nguyên lý lao động quyết định giá trị trong kinh
tế chính trị học tư sản:
W. Petty có công lao trong việc nêu ra nguyên lý giá trị lao động. Trong tác phẩm
“Bàn về thuế khóa và lệ phí” viết năm 1662 khi nghiên cứu về giá cả thì Petty đã chia
thành hai hình thức giá cả: giá cả tự nhiên và giá cả chính trị. Ông là người đầu tiên tìm
thấy cơ sở của giá cả tự nhiên là lao động. Tuy nhiên lý thuyết giá trị lao động của W.
Petty còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng chủ nghĩa trọng thương. Ông chưa phân biệt
được sự khác nhau giữa các phạm trù giá trị, giá trị trao đổi và giá cả của sản phẩm
cũng như đồng nhất lao động trừu tượng và lao động cụ thể. Câu nói nổi tiếng của
W.Petty: “Lao động là cha, còn đất đai là mẹ của của cải”.
Adam Smith – Người đầu tiên trình bày một cách có hệ thống lý luận giá trị lao
động:
So với W. Petty và trường phái trọng nông, lý thuyết giá trị lao động của A. Smith
có bước tiến đáng kể. K.Marx đánh giá công lao lớn nhất của ông về lý luận giá trị khi
phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi và cho rằng lao
động là thước đo thực tế của giá trị. Song, ở A. Smith vẫn còn tồn tại những sai lầm,
hạn chế: coi các khoản thu nhập là nguồn gốc đầu tiên của mọi giá trị trao đổi, lẫn lộn
hai vấn đề hình thành giá trị và phân phối giá trị, xem thường tư bản bất biến(C).
Lý luận về giá trị lao động của David Ricacdo đã đạt tới đỉnh cao của kinh tế

chính trị học cổ điển của giai cấp tư sản:
Trong lý thuyết giá trị lao động D. Ricardo kế thừa và phát triển tư tưởng của
A.Smith. Theo D. Ricardo, hàng hóa hữu ích có giá trị trao đổi là do tính khan hiếm và


6

lượng lao động cần thiết để sản xuất ra chúng. Nhưng ông không thấy được mâu thuẫn
giữa giá trị sử dụng và giá trị, vì chưa có được lý thuyết tính hai mặt của lao động, còn
chịu ảnh hưởng của tính khan hiếm quyết định giá trị, chưa phân biệt được giá trị hàng
hóa với giá cả sản xuất, mặc dù có nhìn thấy xu hướng bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận.
1.1.2 Lý luận giá trị trong học thuyết kinh tế Marx:
Chủ nghĩa Marx phát sinh ra là sự tiếp tục trực tiếp của triết học cổ điển Đức, kinh
tế chính trị Cổ điển Anh và CNXH không tưởng Pháp. Lenin coi đó là nguồn gốc lý
luận của chủ nghĩa Marx. Trong hệ thống các học thuyết chính trị, học thuyết về giá trị
- lao động được trình bày như cơ sở của tất cả các học thuyết kinh tế của K.Marx.
Công lao to lớn và điểm mấu chốt đã giúp K.Marx đưa lý thuyết giá trị - lao động tới
đỉnh cao là phát hiện ra tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, đó là lao động cụ
thể và lao động trừu tượng. Ông viết: “ Tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa và khoa kinh tế chính trị học xoay quanh điểm này”.
Lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thái cụ thể của một nghề nghiệp
chuyên môn nhất định. Nó có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng, thao
tác và kết quả riêng. Tính đa dạng và phong phú của của cải là do tính đa dạng và
phong phú của những lao động cụ thể quy định. Tất cả những lao động cụ thể hợp
thành hệ thống phân công lao động xã hội. Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn. Như
vậy, với việc phát hiện ra mặt thứ nhất của lao động sản xuất hàng hóa K.Marx đã trả
lời được câu hỏi: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
Lao động trừu tượng là lao động sản xuất ra hàng hóa khi sự hao phí sức lao động
nói chung của con người không tính đến các hình thức cụ thể của nó. Điều này là đúng
đắn nhưng không phải mọi sự hao phí sức lao động của con người đều gọi là lao động

trừu tượng, chỉ trong những xã hội có sản xuất hàng hóa thì sự hao phí sức lao động
của những người sản xuất hàng hóa mới được coi là lao động trừu tượng. Lao động
trừu tượng là phạm trù lịch sử. Với việc phát hiện ra mặt thứ hai của cùng một lao động
sản xuất hàng hóa, K.Marx đã trả lời được câu hỏi: lao động trừu tượng tạo ra giá trị
của hàng hóa.


7

Do chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất làm cho các nhà sản xuất độc lập với nhau nên
lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân. Đồng thời do có sự phân
công lao động xã hội buộc các nhà sản xuất phải liên hệ gắn bó với nhau. Các nhà sản
xuất thông qua việc trao đổi hàng hóa phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu
tượng. Do đó lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Trên cơ sở tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, K.Marx đã thực hiện một
cuộc cách mạng trong khoa kinh tế chính trị. Nhờ phát hiện này, K.Marx đã xây dựng
học thuyết của mình một cách có hệ thống và hoàn chỉnh. Tính hai mặt của lao động
sản xuất hàng hóa đã giúp K.Marx lý giải được cơ sở tạo ra các thuộc tính hàng hóa.
Hàng hóa là sản phẩm của lao động. Một hàng hóa có hai thuộc tính bởi lao động để
sản xuất ra hàng hóa đó có tính hai mặt. Hàng hóa là sự thống nhất biện chứng giữa giá
trị sử dụng và giá trị. Chính công dụng của vật phẩm được quan niệm là giá trị sử dụng
của nó. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ra khi tiêu dùng vật phẩm.Trong điều kiện kinh tế
hàng hóa thì giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Sở dĩ hàng hóa trao đổi được vì
trong hàng hóa có giá trị. Giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết
tinh trong hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị, với tiền tệ là một
hình thái của giá trị trao đổi. Với ý nghĩa đó, giá trị là một phạm trù lịch sử. Quan niệm
này của K.Marx đã làm đảo lộn hoàn toàn các quan điểm kinh tế chính trị trước đó cho
rằng giá trị không phản ánh quan hệ xã hội nên nó là phạm trù vĩnh viễn.
Theo K.Marx xét về mặt cơ cấu, giá trị hàng hóa gồm hai phần. Một là giá trị cũ
tức là giá trị những tư liệu sản xuất được chuyển dịch và giá trị của sản phẩm hàng hóa,

ký hiệu là C. Phần giá trị cũ được hình thành là nhờ có vai trò của lao động cụ thể. Hai
là giá trị mới được tạo ra trong quá trình sản xuất hàng hóa nhờ lao động trừu tượng.
Giá trị mới được ký hiệu: v+m. Nói rằng lao động trừu tượng tạo nên giá trị – giá trị
hàng hóa được công thức hóa: C+v+m. Điều này không có nghĩa là lao động trừu
tượng tạo nên toàn bộ C+v+m mà nó chỉ tạo nên phần giá trị mới. Như vậy, nói rằng
lao động là nguồn gốc của giá trị thì lao động đã được hiểu theo nghĩa là lao động trừu


8

tượng và phần giá trị do nó tạo ra chỉ là giá trị mới. So với các nhà kinh tế học tư sản
cổ điển Anh, cấu thành giá trị của K.Marx đầy đủ hơn, đúng đắn hơn.
Trong phạm trù năng suất lao động, K.Marx đã giải thích tăng năng suất lao động
là tăng hiệu quả có ích của lao động, làm cho giá trị sử dụng của của cải tăng nhưng
lượng giá trị tạo ra trong thời gian đó không đổi nên giá trị của một đơn vị sản phẩm
giảm. Đó là do hai mặt của lao động có sự vận động ngược chiều nhau, khối lượng của
của cải vật chất ngày càng tăng lên đi liền với giá trị của nó giảm xuống hay không
thay đổi nên năng suất lao động thuộc phạm trù lao động cụ thể.
Với những cống hiến như vậy, có thể nói rằng, K.Marx đã đạt tới đỉnh cao trong lý
thuyết về giá trị lao động. Đến nay, chưa có sự phát triển thêm vào lĩnh vực này.
1.2.Học thuyết giá trị thặng dư
1.2.1 Bản chất giá trị thặng dư
Trong nền sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, giá trị sử
dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ vì nó là vật mang giá
trị trao đổi. Nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hoá có giá trị lớn hơn tổng giá trị
những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là
muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Do vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất
ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. K.Marx viết: “ Với tư cách là
sự thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản

xuất là một quá trình sản xuất hàng hoá; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao
động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư bản
chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hoá”.
Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có
hai đặc trưng sau :Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản
giống như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiêụ


9

quả nhất. Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ không phải của
người công nhân.
K.Marx lấy ví dụ về việc sản xuất sợi ở nước Anh làm đối tượng nghiên cứu quá
trình sản xuất giá trị thặng dư. Để nghiên cứu, Marx đã sử dụng phương pháp giả định
khoa học thông qua giả thiết chặt chẽ để tiến hành nghiên cứu: Không xét đến ngoại
thương, giá cả thống nhất với giá trị, toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đem tiêu dùng
chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu trong nền kinh tế tái sản
xuất giản đơn. Từ các giả định đó, Marx đưa ra một loạt các giả thiết để nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mòn thiết bị máy móc
để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động 1 ngày là 4 đôla; giá
trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4 giờ người công nhân kéo
được 5 kg bông thành 5 kg sợi. Từ đó, có bảng quyết toán như sau:

Tư bản ứng trước

Giá trị của sản phẩm mới

Giá 10 kg bông

Lao đông cụ thể của công nhân

10 đôla bảo tồn và chuyển giá trị 10kg
bông vào 10kg sợi

10 đôla

Hao mòn máy móc

2 đôla

Khấu hao tài sản cố định

2 đôla

4 đôla

Giá trị mới do 8 giờ lao động của
người công nhân tạo ra

8 đôla

Tiền thuê sức lao động trong một
ngày
Tổng chi phí sản xuất

16 đôla Tổng doanh thu
Bảng 1.1: bảng quyết toán

20 đôla

Nhà tư bản đối chiếu giữa doanh thu sau khi bán hàng (20 đôla) với tổng chi phí tư

bản ứng trước quá trình sản xuất (16 đôla) nhà tư bản nhận thấy tiền ứng ra đã tăng lên
4 đôla, 4 đôla này được gọi là giá trị thặng dư. Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra
một số nhận xét sau đây :
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu
thuẫn trong công thức chung của tư bản được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền thành tư
bản diễn ra trong lưu thông và đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong


10

lưu thông nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao
động. Sau đó nhà tư bản sử dụng nó trong sản xuất, tức là ngoài lĩnh vực lưu thông để
sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của nhà tư bản mới biến thành tư
bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (10 kg sợi), ta thấy có hai phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà được bảo
tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ. Giá trị do lao động
trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động gọi là giá trị mới, phần giá trị
mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị
thặng dư.
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành hai
phần. Một là thời gian lao động cần thiết: Trong thời gian này người công nhân tạo ra
được một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà
tư bản đã trả cho mình (4 đôla). Phần thời gian còn lại là thời gian lao động thặng dư:
Trong thời gian lao động thặng dư người công nhân lại tạo ra một lượng giá trị lớn hơn
giá trị sức lao động hay tiền lương nhà tư bản đã trả cho mình, đó là giá trị thặng dư (4
đôla) và bộ phận này thuộc về nhà tư bản (nhà tư bản chiếm đoạt).
Từ đó, Marx đi đến khái niệm: Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngoài giá
trị sức lao động do công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi điểm

mà ở đó sức lao động của người công nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới ngang bằng
với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho họ. Thực chất của
sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó giá trị sức
lao động được trả ngang giá.
1.2.2.Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó giai cấp tư
sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng dư. Những phương


11

pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị
thặng dư tương đối.
1.2.2.1. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối:
Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài
tuyệt đối thời gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian
lao động cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả
định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết
không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá trị
thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 150%.
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản.
Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hoá, nhưng
nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời gian người công nhân
làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian
để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ
hàng hoá đặc biệt vì vậy ngoài yếu tố vật chất người công nhân đòi hỏi còn phải có thời
gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất

yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn
thời gian lao động trong ngày.Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương
pháp bóc lột mới tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
1.2.2.2.Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối:
Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn
thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động
thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi.


12

Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại giả
thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng với giá trị
sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động
cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường hợp đó cũng thay đổi. Khi đó thời
gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột
của nhà tư bản lúc này là 300% (m’ = 300%).
Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi biện
pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và công nghệ vào trong quá trình sản xuất để
nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị trường
của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong những ngành, những
lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. Từ đó tiến tới
hạ thấp giá trị sức lao động.
Kết luận: Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá trị
sử dụng, mà là sản xuất ra giá trị thặng dư. Sản xuất ra giá trị thặng dư quả thực là
động lực thúc đẩy của các nhà tư bản. Vậy sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật kinh
tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. K.Marx viết: “ Việc tạo ra giá trị thặng dư, đó là quy
luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó”. Nội dung chủ yếu của quy luật này là để
thu được giá trị thặng dư một cách tối đa, nhà tư bản đã tăng số lượng lao động làm

thuê và tìm mọi thủ đoạn để bóc lột họ.
1.3. Học thuyết tích lũy tư bản
1.3.1. Thực chất của tích lũy tư bản và các nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư
bản
1.3.1.1 Thực chất của tích luỹ tư bản
Tái sản xuất là tất yếu khách quan của xã hội loài người, đặc trưng của chủ
nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng. Muốn tái sản xuất mở rộng, cần phải tăng
thêm số tư bản ứng trước để mua thêm tư liệu sản xuất và sức lao động. Thực hiện
điều đó, nhà tư bản phải sử dụng một phần giá trị thặng dư để tăng thêm cho tư bản.


13

Sự chuyển hoá một phần giá trị thặng dư trở thành tư bản hay sử dụng giá trị thặng
dư làm tư bản được gọi là tích luỹ tư bản.
Việc phân tích quá trình sản xuất giá trị thặng dư đã chỉ ra nguồn gốc của giá trị
thặng dư là lao động không công của người công nhân làm thuê sáng tạo ra. Vậy
là, nguồn gốc của tích luỹ tư bản là giá trị thặng dư, là lao động của công nhân bị
nhà tư bản chiếm không. Nói cách khác, toàn bộ của cải của giai cấp tư sản đều do
lao động của của công nhân tạo ra.
1.3.1.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô tích luỹ tư bản
Với khối lượng giá trị thặng dư nhất định thì qui mô tích luỹ tư bản phụ thuộc
vào tỉ lệ phân chia giữa tích luỹ và tiêu dùng. Nếu tỉ lệ đó được xác định thì quy
mô tích luỹ tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư; Có 4 nhân tố ảnh
hưởng đến khối lượng giá trị thặng dư:
Một là: Trình độ bóc lột giá trị thặng dư (m')
Nhà tư bản bắt buộc số công nhân hiện có cung cấp thêm một lượng lao động
bằng cách tăng thời gian lao động và cường độ lao động, đồng thời tận dụng một
cách triệt để công suất của số máy móc hiện có, chỉ tăng thêm nguyên liệu tương
ứng. Tư bản bất biến chủ yếu là tư liệu lao động, chỉ cần dựa vào sức lao động có

thể tăng qui mô tích luỹ mà không cần ứng tư bản mua thêm nguyên liệu.
Hai là: Năng suất lao động.
Năng suất lao động xã hội tăng lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu
dùng giảm. Sự giảm này đem lại hai hệ quả cho tích luỹ: một là, với khối lượng giá
trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích luỹ có thể lấn sang phần tiêu dùng, trong
khi sự tiêu dùng của nhà tư bản không giảm mà vẫn có thể có thể bằng hoặc
cao hơn trước; hai là, một lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích luỹ
cũng có thể chuyển hoá thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ
thêm nhiều hơn trước.
Ba là: Chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng


14

Đó là sự chênh lệch giữa khối lượng giá trị của tư liệu lao động được chuyển vào
toàn bộ và phần giá trị của tư liệu lao động được chuyển vào sản phẩm theo từng chu
kì trong quá trình sản xuất sản. Sự chênh lệch này là thước đo sự tiến bộ của lực
lượng sản suất. Sau khi trừ đi những tốn phí hàng ngày trong việc sử dụng máy
móc và công cụ lao động, nghĩa là sau khi trừ đi giá trị hao mòn của chúng đã
chuyển vào sản phẩm, nhà tư bản sử dụng những máy móc và công cụ lao động đó
mà không đòi hỏi một chi phí khác. Kĩ thuật càng hiện đại, sự chênh lệch giữa tư
bản sử dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, thì sự phục vụ không công của tư liệu
lao động càng lớn.
Bốn là: Đại lượng tư bản ứng trước.
Muốn tăng khối lượng giá trị thặng dư thì phải tăng qui mô tư bản. Đại lượng tư
bản ứng trước càng lớn thì quy mô sản xuất càng được mở rộng theo cả chiều rộng
lẫn chiều sâu, khối lượng giá trị thặng dư tăng lên càng nhiều.
1.3.1.3.Ý nghĩa
Việc sử dụng một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản làm cho qui mô vốn
ngày càng tăng, có điều kiện cải tiến kĩ thuật ứng dụng thành tựu khoa học công

nghệ, qui mô sản xuất ngày càng được mở rộng, chất lượng ngày càng cao, có khả
năng giành thắng lợi trong cạnh tranh. Thông qua nghiên cứu tích lũy tư bản, K.Marx
đã chỉ ra rằng tăng năng suất lao động là cách sử dụng vốn có hiệu quả nhất (hạ
giá trị cá biệt, hạ giá trị sức lao động, tăng thêm tích luỹ vốn...).Tăng khấu hao tư
liệu sản xuất, tránh được hao mòn vô hình, có ý nghĩa rất lớn tăng tích luỹ vốn sản
xuất và sử dụng tư liệu sản xuất có hiệu quả.
1.3.2.Tích tụ và tập trung tư bản
Tích tụ tư bản là việc tăng qui mô tư bản cá biệt bằng tích luỹ của từng nhà tư
bản riêng lẻ. Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản cá
biệt lớn.


15

Tích tụ tư bản

Tập trung tư bản

Nguồn gốc

Từ giá trị thặng dư được tư Tư bản đã hình thành sẵn
bản hóa
trong xã hội

Qui mô

Tư bản cá biệt và tư bản xã Bố trí lại tư bản xã hội, qui
hội tăng
mô tư bản xã hội vẫn như cũ


Quan hệ

Nhà tư bản với lao động

Giới hạn

Khối lượng giá trị thặng dư Tư bản tập trung từng ngành,
có được
khác ngành, toàn xã hội

Nhà tư bản với nhà tư bản

Điểm giống nhau
Đều làm cho qui mô tư bản tăng lên
Bảng 1.2: So sánh tích tụ tư bản và tập trung tư bản


16

CHƯƠNG 2: HỌC THUYẾT TIÊU BIỂU CỦA LENIN

2.1. Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước:
2.1.1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền:
2.1.1.1 Hoàn cảnh ra đời
Vào đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang giai đoạn độc
quyền. Sự biến đổi lớn về kinh tế đã làm thay đổi tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
trong các nước tư bản. Trong thời kì này xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau trong
việc giải thích về những hiện tượng kinh tế mới này. Lenin là người hoàn thành tốt
nhất vấn đề này bằng hệ thống lý luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền (hay chủ nghĩa

đế quốc) trong các tác phẩm: “ Vấn đề dân tộc và cương lĩnh của chúng ta” (1908), “
Chiến tranh và nhiệm vụ của Đảng dân chủ Nga” (1914), “ Sự phá sản của quốc tế
Anh” (1915)… Ở các tác phẩm này, Lenin đã chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản đã
chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
2.1.1.2. Nguyên nhân hình thành
Sự độc quyền hay sự thống trị của tư bản độc quyền là cơ sở của chủ nghĩa tư bản
độc quyền. Sự xuất hiện của tư bản độc quyền do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là, vào thời điểm này sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác dụng của
tiến bộ khoa học - kỹ thuật, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới mà ngay từ đầu
đã là những ngành có trình độ tích tụ cao. Đó là những xí nghiệp lớn, đòi hỏi những
hình thức kinh tế tổ chức mới.
Hai là, cạnh tranh tự do, một mặt buộc các nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, tăng
quy mô tích luỹ; mặt khác dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ thuật kém hoặc
bị các đối thủ mạnh hơn thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau để đứng vững trong
cạnh tranh. Vì vậy, xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một
ngành hay trong một số ngành công nghiệp.


17

Ba là, khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản; một số
sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập
trung sản xuất. Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc
đẩy tập trung sản xuất.
Bốn là, những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh
tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng thỏa
hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền.
2.1.1.3. Bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền
Mùa xuân năm 1916, Lenin xuất bản cuốn : “ Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn mới
nhất của chủ nghĩa tư bản”. Trong tác phẩm này, Lenin đã phân tích một cách khoa học

về bản chất kinh tế của chủ nghĩa đế quốc và chỉ rõ: sự thống trị của các tổ chức lũng
đoạn là cơ sở sâu xa nhất của chủ nghĩa đế quốc, là bản chất kinh tế của nó. Ông khái
quát bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn này bằng 5 đặc điểm kinh tế
cơ bản:
Một là: Quy luật tất yếu của việc chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
sang chủ nghĩa tư bản độc quyền là quá trình tích tụ, tập trung sản xuất đạt tới một giới
hạn nào đó sẽ dẫn tới sự ra đời của các tổ chức độc quyền, đó là đặc điểm kinh tế cơ
bản nhất của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Hai là: Các tổ chức độc quyền không chỉ thống trị trong lĩnh vực sản xuất, mà còn
thống trị trong lĩnh vực ngân hàng. Sự hợp nhất giữa tư bản độc quyền ngân hàng với
tư bản độc quyền công nghiệp hình thành nên loại tư bản mới, đó là tư bản tài chính.
Ba là: Các tổ chức độc quyền bành trướng thế lực của mình ra ngoài phạm vi quốc
gia, thông qua xuất khẩu tư bản và sự hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế khiến
cho xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản chủ nghĩa phát triển
đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng "thừa tư bản". Tình
trạng thừa này không phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, nghĩa là không tìm
được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước.


18

Bốn là: Các tổ chức độc quyền này đấu tranh quyết liệt với nhau để phân chia các
khu vực ảnh hưởng kinh tế trên thế giới. Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và
mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến việc phân chia thế giới về mặt kinh tế. Cuộc đấu
tranh giành thị trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu và lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao
ở nước ngoài trở nên gay gắt.
Năm là: Các cường quốc tư bản độc quyền phân chia lại lãnh thổ thế giới thông
qua các cuộc chiến tranh.
2.1.2. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
2.1.2.1. Nguyên nhân ra đời

Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô và tính chất xã hội hóa của
nền kinh tế ngày càng lớn; sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất
hiện một số ngành kém thu hút nhà đầu tư; sự thống trị của độc quyền đã làm mâu
thuẫn sâu sắc giữa các giai cấp. Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn
giữa các tổ chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc quyền với các tổ chức
kinh doanh vừa và nhỏ trở nên gay gắt cần có sự điều tiết; cùng với xu thế quốc tế hoá
đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những
hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới.
Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế của
nhà nước.
2.1.2.2. Bản chất
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự can thiệp trực tiếp của nhà nước tư bản
vào các quá trình kinh tế nhằm đảm bảo lợi nhuận độc quyền cao cho các tổ chức độc
quyền và cứu nguy sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản; là sự kết hợp giữa các tô chức độc
quyền và bộ máy nhà nước tư sản, tạo ra một tổ chức bộ máy mới có thế lực vạn năng,
là sự phụ thuộc của nhà nước tư sản vào các tổ chức độc quyền. Các tổ chức độc quyền
là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.


19

2.1.2.3. Những biểu hiện
Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản. Chính các
đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống
trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
Sự hình thành và phát triển của sở hữu nhà nước. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống, nhưng nét nổi bật nhất là sức mạnh của
độc quyền và của nhà nước kết hợp với nhau trong lĩnh vực kinh tế.
Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản được thực hiện bằng nhiều công cụ khác
nhau như pháp lý, giá cả, thuế khóa, tài chính-tiền tệ, ngân hàng, phát triển các xí

nghiệp nhà nước… để cứu nguy cho nền kinh tế trong những điều kiện nhất định.
Bản thân sự điều tiết của nhà nước cũng có mặt tích cực và mặt tiêu cực. Những sai
lầm trong sự điều tiết của nhà nước có khi lại đưa đến hậu quả tai hại hơn là tác động
tiêu cực của cạnh tranh tự do và độc quyền tư nhân. Vì thế, hệ thống điều tiết kinh tế
của nhà nước đã dung hợp cả ba cơ chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của
nhà nước nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ chế. Xét đến
cùng và về bản chất, hệ thống điều tiết đó phục vụ cho chủ nghĩa tư bản độc quyền.


20

Hình 2.1: Sơ đồ về nguồn gốc phát sinh và mối quan hệ giữa chủ nghĩa tử bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước


21


22

CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ BỐN HỌC THUYẾT VÀO THỰC TIỄN NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM

3.1. Liên hệ học thuyết giá trị lao động vào thực tiễn Việt Nam:
Từ việc nghiên cứu Học thuyết của K.Marx, chúng ta thấy rõ ít nhất ba vấn đề lớn
trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào đó,
quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo điều và xơ
cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng thấy rõ, chừng
nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.

Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ cứng về mức
độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng như có thái độ phân
biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế và không thể thực hiện
được. Ðường lối chủ trương chính sách của Ðảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế
hóa thành luật và các bộ luật thì chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, lấy luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội
nói chung, mà còn cả hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được
xã hội thừa nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là
mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý xã hội
thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để, một mặt,
chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thông qua Nhà
nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã hội. Thiết nghĩ, đây là
một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh được những nhận thức giáo
điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như việc vận dụng nó trong một giai
đoạn lịch sử


23

cụ thể của việc giải phóng sức sản xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội
nhập thành công với nền kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao động
lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới bảo đảm
công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong quá trình sử
dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như thế nào để tránh
những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp thiết hiện nay, thể hiện
trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những quyền lợi chính đáng, những quyền
lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên trong quan hệ lao động là một bảo đảm

cho việc vận dụng một cách hợp lý quan hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời
cũng là những đóng góp cơ bản nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Từ những điều đã trình bày ở trên ta thấy rõ được ý nghĩa to lớn của học thuyết giá
trị lao động trong mối liên hệ với Việt Nam. Ðất nước ta đi lên từ một nước nông
nghiệp và hiện đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc vận dụng học
thuyết của Các Marx một cách khoa học sẽ góp phần đẩy mạnh quá trình đó giúp nước
ta ngày càng phát triển.
3.2. Ý nghĩa và sự vận dụng học thuyết giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở Việt Nam:
Là một nước tiến lên XHCN chưa và không trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Vì
vậy, chúng ta không được kế thừa tất cả những tiền đề nảy sinh một cách tự phát như
những sáng tạo của người đi trước cho dù chúng chỉ là những nhân tố vô cớ. Điểm xuất
phát để nhận thức tầm quan trọng của học thuyết giá trị thặng dư chính là luận điểm
sản phẩm của lao động thừa vượt quá những chi phí để duy trì lao động và việc xây
dựng, tích luỹ quỹ sản xuất xã hội và dự trữ “Tất cả những cái đó đã và mãi mãi vẫn là
cơ sở cho mọi sự tiến bộ về xã hội, về chính trị và về tinh thần. Nó sẽ là điều kiện và
động cơ kích thích sự tiến bộ hơn nữa…”


24

Chúng ta lựa chọn con đường đi lên CNXH từ điểm xuất phát là nước tiểu nông
cũng có nghĩa từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hoá mặc dù có sản xuất hàng hoá.
Cái thiếu của đất nước ta là chưa trải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội
theo kiểu TBCN.
Đất nước ta đang đứng trước nhiệm vụ cháy bỏng là tạo ra tiền đề thực tiễn tuyệt
đối cần thiết, đó là sự phát triển của sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá sẽ tạo ra
ngày càng nhiều GTTD dù là chúng biểu hiện những quan hệ xã hội khác nhau. Chúng
ta không thể đạt được mục tiêu kinh tế ấy ngay trong thời gian ngắn mà phải biết rút

ngắn những quá trình tất yếu mà CNTB đã phải trải qua và đang thực hiện để có một
nền kinh tế thị trường cực thịnh như ngày nay. Đó là một quá trình phát triển trải qua
nhiều giai đoạn phân công lao động xã hội. Nền kinh tế hàng hoá TBCN hình thành và
GTTD cũng được sản xuất ra với khối lượng lớn lao trong sự phân công lao động, đặc
biệt khi khoa học công nghệ phát triển và vận dụng có ý thức, rộng rãi vào sản xuất với
quy mô chưa từng có. Các giai đoạn phát triển sản xuất và chiếm đoạt giá trị thặng dư
của CNTB đã diễn ra một cách tự phát và tuần tự. Nhưng đó cũng là những giai đoạn
của một quá trình lịch sử – tự nhiên mà chúng tachỉ có thể rút ngắn chứ không thể bỏ
qua. Đó cũng là ý nghĩa thực tiễn rút ra từ học thuyết GTTD của Marx.
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay cần có phương hướng khai thác và vận dụng
những tư tưởng và các nguyên lý của học thuyết giá trị thặng dư một cách hiệu quả để
đạt được những thành tựu mới đưa nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng
XHCN.
Cần phải nhận thức lại hàng hoá sức lao động không phải là phạm trù riêng có của
CNTB và phạm trù giá trị thặng dư xét về mặt định lượng cũng vậy. Nó tồn tại như là
một bước tiến của các xã hội mà ở đó năng suất lao động vượt khỏi lao động tất yếu
của họ. Nó là nguồn gốc của tích luỹ để mở rộng và hiện đại hoá sản xuất kinh doanh;
là nguồn gốc của sự giàu có văn minh. Chính nó đòi hỏi xã hội cần phải:
-Tìm mọi cách để tăng thời gian lao động thặng dư và nhất là tăng năng suất của
lao động thặng dư.


25

-Tuân thủ hai nguyên tắc cơ bản của vốn khi đầu tư và sử dụng nó. Đó là nguyên
tắc bảo tồn vốn và nguyên tắc sinh lợi, nhất là nguyên tắc sinh lợi, để cho một đồng
vốn đầu tư sử dụng được tăng thêm giá trị.
-Xây dựng đồng bộ các loại thị trường, kể cả thị trường sức lao động.
Vấn đề thu hồi giá trị thặng dư và định hướng XHCN trong điều kiện cho phép bóc
lột giá trị thặng dư đã được Lênin trình bày lý luận và kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở

nước Nga trước đây. Vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
- Điều tiết một cách đúng đắn, đầy đủ, không để thất thoát phần giá trị thặng dư
vào ngân sách nhà nước.
- Nhà nước sử dụng giá trị thặng dư được điều tiết sao cho có lợi đối với việc thực
hiện mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
- Nhà nước phải đủ mạnh về thực lực kinh tế, năng lực quản lý và uy tín đối với xã
hội.
- Ngăn chặn được những “ma lực” hút sự vận động của nền kinh tế đi chệch khỏi
quỹ đạo XHCN.
Về khái niệm giai cấp công nhân được hiểu ở thế kỷ trước cũng khác nhiều so với
cách hiểu của thế kỷ này. Có thể nhận thức lại khái niệm giai cấp công nhân về nhiều
phương diện, song chúng ta không thể bỏ qua hai khía cạnh:
- Xã hội mới – XHCN muốn giải phóng người công nhân từ người làm thuê thành
người làm chủ, song không thể làm chủ, nếu họ không có sở hữu về tài sản, vốn. Do
vậy, giai cấp công nhân ngày nay không còn là giai cấp vô sản mà phải là giai cấp hữu
sản. Thực tiễn đã diễn ra như vậy.
- Giai cấp công nhân muốn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng, nếu cơ cấu của nó
được quan niệm như là một lực lượng lao động vận động theo hướng lao động có trí
tuệ cao, chiếm tỷ trọng ngày càng nhiều và trở thành đặc trưng của lao động sống.
Do vậy, có nên tách trí thức ra ngoài giai cấp công nhân và nông dân hay không ?


×