Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

thực trạng nguồn nhân lực của các DNVN hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.56 KB, 5 trang )

THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM HIỆN NAY
Nếu như trước đây sự phát triển của một quốc gia phụ thuộc vào nhân tố tài
nguyên thiên nhiên và nguồn vốn thì ngày nay quan niệm này đã thay đổi. Theo
các nghiên cứu gần đây, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững cần
dựa vào 3 yếu tố: áp dụng công nghệ mới, phát triển kết cấu hạ tầng hiện đại và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó yếu tố và cũng là động lực quan
trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là con người. Theo tổ chức
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), nhóm yếu tố lao động là một trong 8 nhóm yếu tố
quan trọng quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia.
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng
như tăng cường hội nhập kinh tế toàn cầu. Vì thế giải quyết bài toán về nguồn lực
luôn là vấn đề quan tâm của không chỉ của Nhà Nước mà còn của từng doanh
nghiệp, hộ kinh doanh… Tài nguyên bị khai thác cạn kiệt, nguồn vốn còn hạn chế
khiến cho vai trò của nhân lực ngày càng trở nên quan trọng và trở thành nhân tố
quyết định.
1.

Thực trạng.
1.1.

Cơ cấu phân bổ.

Số liệu tính đến tháng 12 năm 2014 cho thấy số lượng sinh viên phân theo
nhóm ngành đào tạo như sau:
-

Nhóm ngành kỹ thuật công nghệ với tỷ lệ 32,78%
Nhóm ngành kinh tế chiếm tỷ lệ 27,72%
Nhóm ngành sư phạm chiếm tỷ lệ 17,68%
Nhóm ngành nông - lâm ngư nghiệp chiếm tỷ lệ 8,67%
Nhóm ngành xã hội nhân văn chiếm 7,15%


Nhóm ngành khoa học tự nhiên chiếm tỷ lệ 2,72%
Nhóm ngành y - dược chiếm tỷ lệ 2,02%
Nhóm ngành nghệ thuật, thể dục thể thao chiếm tỷ lệ 1,26%.

Thực tế này tạo ra tình trạng cung lao động chuyên môn kỹ thuật cao hơn nhiều
so với cầu lao động đối với một số ngành nghề, lĩnh vực. Một số ngành nghề hiện
nay dư thừa lao động, điều này dẫn đến việc nhiều người sẽ không tìm được việc
làm đúng chuyên ngành đào tạo.


1.2.

Chất lượng.

Việt Nam đang ở trong giai đoạn dân số vàng, thời kỳ mà dân số trong độ
tuổi lao động cao nhất. Nguồn nhân lực dồi dào về số lượng, nhưng đáng tiếc lại
hạn chế về chất lượng. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay chỉ đạt 3,39 trên 10 điểm, trong khi Hàn
Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Ma-lai-xi-a là 5,59; Thái-lan là 4,94… Hơn nữa,
nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta lại phân bố không hợp lý: hơn 92% số
cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tập trung ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; tại Tây
Nguyên, Tây Bắc và Nam Bộ tỷ lệ này chưa tới 1%.
Nhìn trên vĩ mô, điều này gây ra rất nhiều bất lợi cho Việt Nam trong quá
trình cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới khi đang tiến hành
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước hội nhập với kinh tế toàn cầu. Trên vi mô,
với lượng lao động dồi dào ( hơn 52triệu người năm 2015; hàng năm trung bình có
khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động ), trình độ chuyên môn
ngày càng được cải thiện tuy nhiên vẫn luôn trong tình trạng “khát” lao động do
không đáp ứng được yêu cầu của các nhà tuyển dụng.
Một ví dụ cho tình trạng này là: Số người có trình độ Đại học bị thất nghiệp

tăng lên 225.500 người, chiếm 20% số lao động thất nghiệp (tháng 3/2016) . Như
vậy, trong vòng vài tháng, cả nước đã có thêm 50.000 người ở trình độ Đại học,
Cao đẳng không có việc làm.


-


-

Từ thực trạng trên, ta có thể khái quát một số điểm mạnh và điểm yếu của
nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay như sau:
Điểm mạnh.
Lực lượng lao động dồi dào, chất lượng chuyên môn và năng suất lao động
từng ngày được cải thiện.
Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, chịu khó
Số lượng doanh nghiệp được thành lập gia tăng nhanh, cùng với đó là sự đầu
tư của các công ty đa quốc gia, các công ty nước ngoài nhiều hơn,..khiến cho
nhu cầu về lao động tăng theo.
Điểm yếu.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ
chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về
năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công


nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng
hiệu quả.

2.


-

Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại
ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế.
Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn
hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam.

-

Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý
thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người
lao động chưa cao.

-

Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới.
Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng
tăng chậm hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung
Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia, Thái Lan…

Nguyên nhân.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng về nguồn nhân lực hiện nay ở Việt
Nam. Tuy nhiên một cách khái quát ta có thể chia ra làm 2 nhóm nguyên nhân
chính: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
2.1.
Nguyên nhân khách quan.
Trong nhiều năm qua công tác tuyên truyền tư vấn nghề nghiệp, định hướng
nghề nghiệp chưa đạt yêu cầu.
Bên cạnh đó, chất lượng đạo tạo của một số trường Đại học, Cao đẳng chưa
tốt, nhiều cơ sở đào tạo ở nước ta vẫn dạy những gì mình có chứ không theo những

nội dung xã hội cần, số tiết thực hành của sinh viên không cao, thiếu các kỹ năng
mềm như ngoại ngữ, làm việc nhóm, giao tiếp,… Hệ quả là sau khi tốt nghiệp sinh
viên tiếp cận với môi trường làm việc rất khó khăn trong khi yêu cầu của thị trường
lao động đang biến đổi từng ngày.
Chỉ tiêu đào tạo, các ngành học, quá trình dạy và học chưa gắn với thực tiến
nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội dẫn đến đào tạo thừa sinh viên các ngành học mà
xã hội cần ít và ngược lại.


2.2.

Nguyên nhân chủ quan.

Đa phần sinh viên chưa đánh giá đúng kỹ năng, sở trường, sở đoản của bản
thân nên dẫn đến lúng túng trong quá trình lựa chọn hệ học, ngành học, việc chọn
nghề theo mong muốn của cha mẹ, theo bạn bè cộng với nếp suy nghĩ trở thành
“truyền thống” của xã hội cộng với nếp suy nghĩ trở thành “truyền thống” của xã
hội mà không căn cứ vào khả năng của bản thân và nhu cầu xã hội, dẫn đến sai lầm
trong bước đi đầu tiên của quá trình lựa chọn nghề nghiệp.
Sinh viên mới ra trường quá thụ động và thiếu tính năng động, tự giác,
không tìm hiểu kỹ công việc và công ty trước khi tham dự phỏng vấn cũng như
trau dồi kiến thức thực tế, các kỹ năng mềm cần thiết
Chưa làm thợ nhưng thích làm thầy: một phần không nhỏ sinh viên mới ra
trường luôn cho rằng với tấm bằng Đại học, Cao Đẳng,…với những kiến thức đã
được đào tạo chuyên môn thì chỉ chấp nhận một công việc với mức lương cao, mà
không biết những người thành đạt thường chỉ có 25% kiến thức chuyên môn còn
75% còn lại là kiến thức, kỹ năng họ thu nhặt từ thực tế mà những thứ này cần trải
qua thời gian dài mới có thể thu nhặt được.
Kết:
Một vấn đề lúc nào cũng có 2 mặt của nó, nguồn nhân lực Việt nam cũng

vậy. Tuy nhiên trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cùng với hội
nhập kinh tế thế giới đòi hỏi nguồn nhân lực này cần được cải thiện và nâng cao
thì mới có thể tăng khả năng cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới.
Tài liệu tham khảo:
Đào tạo & Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập - Tác giả: ThS. Vi
Tiến Cường Ban Đào tạo Phát triển - Hiệp hội Nhân sự (HRA)
/> />

/> /> />language=1&module=news&AjaxFile=pdfView&itemId=338
/>


×