Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Đánh giá tình trạng dinh dưỡng qua một số chỉ tiêu nhân trắc đối của người cao tuổi tại phường Phước Vĩnh – thành phố Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.67 KB, 51 trang )

ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ

TRẦN ĐĂNG KHOA

ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG
QUA MỘT SỐ CHỈ TIÊU NHÂN TRẮC
CỦA NGƯỜI CAO TUỔI TẠI
PHƯỜNG PHƯỚC VĨNH – THÀNH PHỐ HUẾ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SĨ ĐA KHOA

HUẾ, 2010


MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................................
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU...............................................................
1.1. Sơ lược lịch sự nhân trắc học thế giới..........................................................
1.2. Tình hình nghiên cứu nhân trắc học ở Việt Nam.........................................
1.3.Các chỉ số nhân trắc đánh giá tình trạng dinh dưỡng....................................
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................
2.1. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................
2.2. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................
3.1. Các chỉ tiêu nhân trắc...................................................................................
3.2. Các chỉ số dinh dưỡng và thể lực.................................................................
Chương 4. BÀN LUẬN.....................................................................................
4.1. Các chỉ tiêu nhân trắc...................................................................................
4.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và thể lực...................................................
KẾT LUẬN........................................................................................................


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu các chỉ số về thể lực dinh dưỡng của con người và đánh giá
các chỉ số nhân trắc là một bộ phận hết sức quan trọng trong quá trình nghiên
cứu các lĩnh vực về phát triển con người.
Người ta đã biết, sự phát triển hình thái thể lực của con người một mặt
chịu sự ảnh hưởng của yếu tố di truyền (đột biến, chủng tộc...), một mặt chịu
sự chi phối của đời sống kinh tế, văn hoá, môi trường, khí hậu...của một quốc
gia hay một quần thể người. Chính vì vậy, việc khảo sát nghiên cứu các chỉ số
về thể lực dinh dưỡng người nói riêng và nhân trắc nói chung cần phải tiến
hành định kỳ, thường xuyên để đánh giá chính xác về hình thái nhân trắc và
tình trạng thể lực, dinh dưỡng trong các giai đoạn xã hội lịch sử khác nhau,
từng bước cập nhật các chỉ số thu thập được ứng dụng vào thực tế kịp thời,
phù hợp với đời sống hàng ngày.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển vượt bậc của những ngành kỹ
thuật cao đã mang lại ngày càng nhiều phương tiện thăm dò mới về các thành
phần cấu trúc của cơ thể người như khối xương, khối nạc, khối mỡ... (như các
phương pháp đo tỉ trọng cơ thể, phân tích điện trở sinh học, đo độ hấp thụ X
quang năng lượng kép hoặc ghi hình bằng cộng hưởng từ hạt nhân) thì nhân
trắc học vẫn là phương pháp đánh giá đơn giản nhất, ít tốn kém nhất, được áp
dụng phổ biến trên toàn thế giới để đánh giá về tỉ lệ và thành phần của cơ thể
con người. Những dữ liệu về nhân trắc học sẽ giúp cho ta phát hiện sớm
những bệnh lí về tăng trưởng và dinh dưỡng cũng như việc đánh giá, so sánh
chung về tình trạng thể lực và dinh dưỡng của một quần thể dân tộc nhằm
cung cấp những thông tin cần thiết để có biện pháp xử lí thích hợp, từ đó

được ứng dụng vào thực tế một cách phù hợp với đời sống sinh hoạt hằng


2

ngày. Ở nước ta, sau hoà bình lập lại, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
nhân trắc đối với nhiều đối tượng lứa tuổi người lớn cũng như trẻ em.
Năm 1975, các chuẩn mẫu chỉ số nhân trắc của người Việt Nam được
đưa vào số liệu tham khảo qua đề tài “Hằng số sinh học người Việt Nam” do
giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng làm chủ biên [25]. Bước đến năm 1986, số đo
nhân trắc theo chuẩn mẫu tham khảo thứ hai được trình bày trong “Atlat nhân
trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động” do giáo sư Võ Hưng và
cộng sự biên soạn.
Đến đầu thập kỉ 90 của thế kỷ XX, các số đo nhân trắc theo chuẩn mẫu
tham khảo thứ ba đã ra đời do GS. Trịnh Văn Minh tổng kết tr báo cáo toàn
văn: "Điều tra cơ bản một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam bình thường ở
thấp kỷ 90" [10].
Sự phát triển kinh tế xã hội về mọi mặt làm cho tuổi thọ con người
ngày càng được kéo dài, bên cạnh đó những bệnh lý liên quan đến tình trạng
dinh dưỡng của người cao tuổi đã xuất hiện với những tính chất ngày càng
phức tạp hơn. Việc tìm hiểu các yếu tố có liên quan đến dinh dưỡng người
cao tuổi trở nên rất cần thiết.
Sự phát triển kinh tế xãhội về mọi mặt làm cho tuổi thọ của con người
ngày càng kéo dài, bên cạnh đó những bệnh lý liên quan đến tình trạng dinh
dưỡng của người cao tuổi đã xuất hiện với những tính chất ngày càng phức
tạp hơn.
Vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá
tình trạng dinh dưỡng qua một số chỉ tiêu nhân trắc đối của người cao tuổi
tại phường Phước Vĩnh – thành phố Huế", với các mục tiêu sau đây:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng qua các chỉ tiêu nhân trắc của

người cao tuổi tại phường Phước Vĩnh – thành phố Huế.
2. Nghiên cứu sự tương quan chỉ tiêu và chỉ số nhân trắc dinh dưỡng
và huyết áp của người cao tuổi nói trên.


3

Chương 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU NHÂN TRẮC HỌC THẾ GIỚI
Nhân trắc học là khoa học nghiên cứu các kích thước cơ thể con người.
Nhân trắc học ra đời từ rất lâu, là một môn khoa học dùng các phương pháp
toán học và thống kê để nhận định và phân tích sự đo đạc các kích thước của
cơ thể con người nhằm rút ra các kết luận phục vụ thực tiễn đời sống hàng
ngày. Ngày 5 tháng 11 năm 1754 tại Đại học Y khoa ở Halle đã có một công
trình nghiên cứu đầu tiên về sự tăng trưởng con người của Christian Friedrich
Jampert với luận án “Nguyên nhân của sự phát triển cơ thể động vật” (theo
Tanner) [42]. Trong luận án này C.F.Jampert đã đưa ra lý thuyết cho rằng sự
tăng trưởng là do áp lực của các chất dịch trong mạch máu lớn hơn sức cản
của các tổ chức sợi của cơ thể, đặc biệt là tổ chức xương. Vì vậy cơ thể tăng
trưởng hay căng ra theo mọi chiều và sự tăng trưởng chỉ ngừng lại khi có sự
cân bằng áp lực. Tuy nhiên công trình nghiên cứu của C.F.Jampert không
được biết đến trong một thời gian dài.
Song theo Georges Olivier [34], đến cuối thế kỉ XIX, Topinard (1885)
trong cuốn “Các yếu tố nhân trắc học đại cương” mới là người đầu tiên đưa ra
thuật ngữ “Nhân trắc học cơ thể” đã đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch
sử nghiên cứu của nhân trắc học.
Năm 1914, nhà nhân học người Đức có tên là Rudolf Martin đã cho ra
đời cuốn “ Giáo trình nhân học” trong đó ông đã đề xuất và hoàn chỉnh một

hệ thống dụng cụ đo đạc, các phương pháp nghiên cứu nhân trắc học, đặc biệt
là sự ứng dụng toán thống kê sinh học (trích theo Atlat nhân trắc học người
Việt Nam [29]). Ông được coi là người đặt nền móng cho khoa học nhân trắc
hiện đại. Những trường phái nhân học tiếp theo sau này đều phải dựa vào cơ


4

sở phương pháp của Martin mà bổ sung và hoàn thiện về mặt lí luận và thực
tiễn theo truyền thống khoa học của từng quốc gia. Phương pháp này có nhiều
ưu điểm hơn và được nhiều tác giả công nhận. Tuy nhiên phương pháp này
còn tồn tại một nhược điểm đó là 3 chỉ số: chiều cao, cân nặng và vòng ngực
được coi là 3 đặc điểm biến đổi độc lập với nhau. Trên thực tế chỉ có chiều
cao đứng là biến đổi độc lập, còn cân nặng và vòng ngực thì biến đổi phụ
thuộc vào chiều cao. Ngoài ra Martin còn sử dụng cả phương pháp tương
quan, nghĩa là chiều cao đứng biến đổi độc lập và cân nặng biến đổi phụ
thuộc vào chiều cao đứng và vòng ngực cơ thể.
Càng về sau, sự phát triển về nghiên cứu nhân trắc càng phong phú và đa
dạng hơn, cùng với sự phát triển của nhân chủng học. Tuỳ theo mục đích nghiên
cứu mà người ta chia ra: nhân trắc nhân chủng học, chuyên nghiên cứu hình thái
các chủng tộc loài người; nhân trắc học đường, chuyên nghiên cứu thể lực và các
tiêu chuẩn kiểm tra sức khoẻ học sinh; nhân trắc y học, nghiên cứu sự phát triển
cơ thể trẻ em theo từng lứa tuổi, phân loại tình trạng thể lực và dinh dưỡng, xác
định thay đổi hình thái do bệnh lí... [22].
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHÂN TRẮC HỌC Ở VIỆT NAM
Ở nước ta, nhân trắc học được quan tâm khá sớm, từ những năm 30 của
thế kỉ XX tại Viện giải phẫu học Hà Nội và Ban nhân học thuộc viện Viễn
Đông Bác Cổ với những công trình của Đỗ Xuân Hợp, Bigot A, Huard P
được công bố chủ yếu trong Hội san “Các công trình nghiên cứu của Viện
Giải phẫu học, Đại học y khoa Đông Dương” từ 1936 đến 1944 [11]. Tuy

nhiên trong thời kì này các công trình vẫn còn ít nhiều hạn chế vì chưa vận
dụng được toán thống kê vào việc trình bày và nhận định kết quả, các công cụ
nghiên cứu chưa được nói tới.
Công trình nghiên cứu bị gián đoạn qua 9 năm kháng chiến chống Pháp
và bắt đầu khôi phục trở lại từ khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc năm
1954, do nhu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, các công tác điều tra về cơ bản y


5

tế đã được đẩy mạnh, trong đó điều tra nhân trắc đã có những bước tiến đáng
kể. Toán thống kê cũng đã được vận dụng vào việc đánh giá và nhận định kết
quả nghiên cứu được chính xác hơn.
Nhiều nghiên cứu về hình thái thể lực trên nhiều đối tượng khác nhau
đáng chú ý trong giai đoạn này có thể kể là: Hằng số hình thái nhân loại học
của Đỗ Xuân Hợp và Nguyễn Quang Quyền (1967) [21]; một số hằng số của
trẻ em Việt Nam của Chu Văn Tường và Nguyễn Công Khanh (1972) [24];
Nghiên cứu một số kích thước hình thái và thể lực của học sinh phổ thông từ
7 đến 18 tuổi ở Thái Bình của Đinh Kỉ và Nguyễn Văn Khoa (1972) [13];
Nhận xét về chiều cao, vòng ngực, cân nặng của công nhân Hà Nội của Lê
Gia Khải, Bùi Thụ Và Phạm Quý Soạn (1969) [14]... các nghiên cứu thời kì
này cho thấy người Việt Nam nói chung là thấp, bé, nhẹ cân và gầy hơn người
nước ngoài, nhưng mặt khác vẫn đảm bảo được sức chịu đựng và dẻo dai,
biểu hiện ở các thăm dò chức năng hô hấp, tuần hoàn rất bình thường.
Sau ngày thống nhất đất bước, các nghiên cứu điều tra nhân trắc hình
thái thể lực càng được tiếp thu đẩy mạnh và hoàn thiện ở miền Bắc, bắt đầu
và mở rộng ra miền Trung và miền Nam.
Ở miền Bắc:
- Năm 1980: Nguyễn Văn Lực và cộng sự tiến hành nghiên cứu 768
sinh viên khu vực Thái Nguyên tuổi từ 16-25, đã đưa ra nhận xét: thể lực của

sinh viên Thái Nguyên tốt hơn so với hằng số sinh học thể lực được xếp loại
tốt trong thang phân loại người Việt Nam bình thường [16].
- Sau năm 1993, Trịnh Văn Minh và cộng sự cũng đã có một công trình
nghiên cứu “ Đặc điểm sinh thể con người Việt Nam”, tiến hành nghiên cứu
tầm vóc thể lực và tình trạng dinh dưỡng của 1309 đối tượng tuổi từ 18-60 ở
một xã ngoại thành Hà Nội, đã đưa ra được nhiều nhận định có giá trị về tầm
vóc thể lực người Việt Nam đương đại [9].


6

Ngoài ra còn có một số tác giả khác như Trịnh Hữu Vách và Lê Gia
Vinh (1985 – 1986) [33] nghiên cứu trên các đối tượng người trưởng thành
của 5 tỉnh miền Bắc và miền Nam; Nguyễn Thế Hùng (1992) [6] nghiên cứu
trên học sinh – sinh viên Hải Phòng đều có nhận xét chung là tầm vóc thể lực
của các nhóm đối tượng nói trên tốt hơn hằng số sinh học người Việt Nam
(1975) chút ít. Như vậy sau hơn 10 năm, quy luật gia tăng tầm vóc thể lực
theo thời gian đã dần xuất hiện do hoàn cảnh kinh tế - xã hội của đất nước có
những thay đổi.
Ở miền Trung:
- Nguyễn Khải và cộng sự nghiên cứu trên các đối tượng sinh viên khu
vực Huế (1985), và nông dân xã Thuỷ Dương ở ngoại thành Huế đã nhận thấy
so với hằng số sinh học người Việt Nam (1975), tầm vóc thể lực của nam sinh
viên Huế tốt hơn, nhưng của nữ sinh viên Huế lại yếu hơn; ngược lại tầm vóc
thể lực của nam công dân xã Thuỷ Dương kém hơn chút ít nhưng nữ lại có
tầm vóc thể lực tốt hơn hoặc xấp xỉ [15]; Đào Huy Khuê (1991) với luận án
“Nghiên cứu đặc điểm về kích thước hình thái, về sự tăng trưởng và phát triển
cơ thể của học sinh phổ thông thị xã Hà Đông” [19]; Trịnh Văn Minh nghiên
cứu về nhân trắc trong công trình nghiên cứu về chỉ tiêu sinh học người Việt
Nam thập kỉ 90 của thế kỉ XX; Lê Đình Vấn nghiên cứu sự phát triển hình

thái của học sinh 6 đến 17 tuổi ở Thừa Thiên Huế [28], [29], [30].
Năm 1998, Võ Phụng và cộng sự trong “Báo cáo một số chỉ tiêu sinh
học của người bình thường tại khu vực miền Trung” đã có nhận định chung là
kích thước nhân trắc của người miền Trung có khuynh hướng tốt hơn so với
hằng số sinh học 1975 [20]. Song qua kết quả tổng kết toàn quốc của Trịnh
Văn Minh và cộng sự (2000) thì kích thước người miền Trung vẫn thuộc loại
thấp so với toàn quốc.
Năm 2000, Nguyễn Trường An [1] trong công trình nghiên cứu các chỉ
số nhân trắc hình thái thể lực học của trên 2343 người trưởng thành của 6 xã


7

vùng ven biển huyện Phú Vang – Thừa Thiên Huế từ 15 – 46 tuổi, chủ yếu
làm nghề nông đánh bắt thuỷ sản đã có kết luận như sau:
+ Chiều cao tiếp tục phát triển mạnh ở nhóm tuổi 15 – 19 và đạt tối đa
ở nhóm tuổi 20 -24.
+ Hầu hết các kích thước nam đều lớn hơn nữ, trừ một số kích thước nữ
lớn hơn nam như: vòng đùi, liên mào chậu... [1]
Xếp loại thể lực theo phân loại của Nguyễn Quang Quyền và Đỗ Như
Cương: thể lực nam dân cư huyện Phú Vang ở nhóm tuổi từ 15 đến 19 thuộc
loại yếu, nhóm tuổi 20 đến 29 thuộc loại trung bình, nhóm tuổi trên 29 thuộc
loại khoẻ, nữ loại trung bình [21].
Năm 2004 Nguyễn Trường An [2] với luận án “Đánh giá về mặt nhân
trắc học tình trạng thể lực, dinh dưỡng và phát triển người miền Trung từ 15
tuổi trở lên”. Đã cho thấy, so với kết quả điều tra cơ bản toàn quốc thì các
kích thước nhân trắc của người miền Trung thuộc loại thấp, yếu và gầy. Đánh
giá tình trạng thể lực tuy vẫn thuộc loại bình thường theo thang phân loại của
Trịnh Văn Minh, song kém hơn so với trị số trung bình của người Việt Nam
toàn quốc. Đánh giá dinh dưỡng: chỉ số BMI người miền Trung tương đương

với người miền Bắc, song kém người miền Nam và Tây Nguyên và kém
người Việt Nam toàn quốc [20].
Ở miền Nam, Nguyễn Thị Đoàn Hương và cộng sự nghiên cứu trên các
đối tượng là sinh viên học tại trường Đại học Y dược thành phố HCM và Đại
học sư phạm kĩ thuật Thủ Đức (1979) [8]; Nguyễn Hồng Bàng và cộng sự
nghiên cứu trên thanh niên tỉnh Long An (1986) [3]; Nguyễn Phi Hùng (2000)
nghiên cứu trên học sinh sinh viên Cần Thơ đã nhận thấy ở nam các chỉ số về
tầm vóc thể lực đều lớn hơn so với hằng số sinh học người Việt Nam (1976),
còn ở nữ sinh viên thì hầu hết các trị số đều nhỏ hơn [7].
Điểm lại những công trình nghiên cứu về tầm vóc thể lực của người
Việt Nam trong thời gian qua có thể nhận thấy:


8

- Người Việt Nam thuộc loại nhỏ bé so với thang phân loại của thế giới
nhưng thể lực cũng đủ tốt để đảm bảo sinh hoạt và lao động.
Người Việt Nam trong lứa tuổi lao động (17-55) có chiều cao và trọng
lượng cơ thể thuộc loại trung bình thấp của thế giới.
- Sự chênh lệch giới tính (nam và nữ), về chiều cao, các vòng và trọng
lượng có ý nghĩa thống kê thuộc loại bình thường, thường gặp trên thế giới.
- Nhiều kích thước cơ thể tăng dần từ miền Bắc vào miền Nam, sự khác
biệt của một số kích thước giữa các miền theo lớp tuổi trẻ và giảm dần.
1.3. CÁC CHỈ SỐ NHÂN TRẮC ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG
Trong các kích thước nhân trắc dinh dưỡng, khối lượng cơ thể, biểu
hiện bằng cân nặng vẫn là yếu tố hàng đầu. Hiện nay trong thực hành dinh
dưỡng, khi nói về cân nặng và sức khoẻ, người ta đã nêu lên khái niệm cân
nặng hợp lí. Theo đó, chúng ta cần biết rõ thành phần cấu tạo cơ thể như là
khối mỡ, khối nạc... Như vậy, độ béo gầy được đánh giá từ khối mỡ, khối nạc
là để xác định một cách chính xác hơn cho tình trạng thừa hoặc thiếu cân

nặng [2].
Mặt khác, người ta nhận thấy khối mỡ cơ thể rất cần thiết cho sự sống,
điều này đã được chứng minh ở những người bị đói, sẽ chết do thiếu mỡ chứ
không phải do thiếu protein. Để sống một cách đơn thuần người phụ nữ cần
một lượng mỡ cơ thể gấp 4 lần so với nam giới, tức là nữ cần 12% còn nam
3% mỡ cơ thể. Ngoài ra, ở người phụ nữ cần một lượng mỡ lớn hơn nữa để
phục vụ cho việc làm mẹ.
Những nghiên cứu mới đây về lâm sàng cũng cho thấy, sự gia tăng quá
mức của khối lượng mỡ có liên quan chặt chẽ với bệnh tim mạch, cao huyết
áp, đái tháo đường thể không phụ thuộc insulin, tăng lipid máu, bệnh phổi tắc
nghẽn, bệnh viêm xương khớp, một vài bệnh ung thư. Đặc biệt đối với người
cao tuổi thì tỉ lệ các bệnh lí trên ngày này càng cao. Nhưng quá ít mỡ cơ thể ở
những người bị rối loạn tiêu hoá hoặc lao động quá sức hoặc có một vài bệnh


9

lí như là xơ hoá dạng nang, cũng có thể dẫn đến các rối loạn chức năng sinh lí
nặng nề [2].
Do tầm quan trọng của khối mỡ cũng như tỉ lệ người trong cộng đồng
bị thừa cân hoặc chính xác hơn là thừa khối mỡ ngày càng tăng cao mà đã có
rất nhiều công trình nghiên cứu về đề tài này trên thế giới.
Trên cơ sở hoạt động của chuyển hoá, người ta chia thành phần cấu tạo
của cơ thể làm 4 thành phần chính: khối nạc, khối mỡ, nước và khối khoáng
chất. Khoảng 50% trọng lượng cơ thể là được tạo từ nước, 25% từ khối mỡ,
20% từ khối nạc và 5% từ khối chất khoáng.
Tuy nhiên còn có một số yếu tố ảnh hưởng đến sự thay đổi của thành
phần cấu tạo cơ thể như:
- Giới tính: phụ nữ có nhiều mỡ hơn và nam giới có nhiều cơ hơn.
- Tuổi: người trưởng thành trẻ có luyện tập và hoạt động thể lực có

nhiều nạc và ít mỡ hơn người làm công việc tĩnh tại.
- Chủng tộc: phụ nữ da đen có nhiều khối chất khoáng hơn phụ nữ da trắng.
- Khí hậu: người ở vùng khí hậu lạnh có nhiều mỡ dưới da hơn người ở
vùng khí hậu nóng để bảo vệ nhiệt độ cơ thể.
- Người có cân nặng quá mức (thừa cân) hay béo phì có khối mỡ vượt
quá mức so với khối nạc.
Để sử dụng các chỉ số đo nhân trắc để đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở
một người bình thường thì chúng ta có một khái niệm về tình trạng cấu trúc
cơ thể của một người, đồng thời có thể phát hiện các dị dạng hình thái của
người đó.
Có nhiều chỉ tiêu nhân trắc hình thái và dinh dưỡng, tuy nhiên tuỳ theo
mục đích nghiên cứu và tuổi của đối tượng mà ta sử dụng các chỉ tiêu khác
nhau. Đối với đề tài nghiên cứu này của chúng tôi lứa tuổi là ở người cao tuổi
từ 60 tuổi trở lên, nên chúng tôi chỉ sử dụng các chỉ tiêu sau đây:
* Trọng lượng:


10

Trọng lượng cũng như chiều cao là một chỉ tiêu thường được sử dụng
trong nghiên cứu nhân trắc học.
Trọng lượng người gồm 2 phần:
+ Phần cố định: gồm xương, da, các tạng và thần kinh
+ Phần thay đổi: gồm ¾ là trọng lượng của cơ, ¼ là mỡ và nước [2].
* Vòng bụng:
Là chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá mức độ phân bố mỡ cơ thể
theo hướng trung tâm hoá ở nhóm người cao tuổi.
* Chiều cao đứng:
Chiều cao đứng là kích thước độc lập, nó không phụ thuộc vào các kích
thước khác, nói lên tầm vóc của con người và thường được sử dụng trong các

nghiên cứu về nhân trắc...
* Vòng cánh tay – vòng đùi và vòng bắp chân:
Các vòng chi cho phép ta đánh giá phần nào sự phát triển về khối lượng
của cơ thể nói chung, biểu hiện cả tình trạng thể lực tập luyện và dinh dưỡng
của cơ thể. Ngoài ra vòng đùi không chỉ thể hiện sự phát triển về cơ bắp, mà
còn là nơi tích mỡ quan trọng, đặc biệt là ở nữ.
* Bề dày các lớp mỡ dưới da sau cánh tay và trên màu chậu: Bề dày các
nếp da phản ánh tình trạng dinh dưỡng của một người. Từ đây người ta có thể
tính được tỉ lệ phần trăm mỡ cơ thể thông qua tính tỉ trọng cơ thể.
* Chỉ số BMI (Body Mass Index):
BMI còn gọi là chỉ số khối cơ thể. BMI mới phổ biến ở Việt Nam gần
đây khi tình trạng phát triển kinh tế kéo theo sự phát triển một số bệnh liên
quan đến chuyển hoá và dinh dưỡng, do đó BMI cũng như vòng bụng và vòng
mông được nghiên cứu nhiều. Tuy nhiên việc nghiên cứu BMI ở người cao
tuổi chưa nhiều và rải rác ở một số vùng dân cư [33].
BMI còn được WHO khuyến cáo dùng làm chỉ tiêu đánh giá suy dinh
dưỡng trẻ em, vì trọng lượng cơ thể phụ thuộc vào chiều cao, một người gầy


11

nhưng cao sẽ có khả năng trọng lượng cơ thể lớn hơn một người béo thấp, do
đó trọng lượng cơ thể có thể đôi khi phản ánh sai độ béo gầy của cơ thể, vì
vậy chỉ số khối cơ thể ra đời. Chỉ số khối cơ thể là một đại lượng nhằm mô tả
trọng lượng tương đối của cơ thể, nhờ đó mới đánh giá được đố béo gầy một
cách chính xác [37].
Ở người trưởng thành từ 18 – 60 tuổi, BMI tương đối ổn định nên
người ta sử dụng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng.
BMI: chỉ số khối cơ thể được tính như sau:
BMI =


P
T2

Trong đó:
P: trọng lượng cơ thể tính bằng kilôgram (kg)
T: chiều cao tính bằng mét (m)
Ở trẻ em, BMI được sử dụng để đánh giá tình trạng suy dinh dưỡng,
thừa cân và béo phì. Tuy nhiên đối với trẻ em, BMI còn phụ thuộc theo tuổi,
nên có một bảng phân loại dựa vào bách phân vị của từng lứa tuổi và quy ước
ngưỡng kết luận suy dinh dưỡng, thừa cân và béo phì như sau:
- BMI < bách phân vị 5% theo quần thể tham chiếu NHANESI của Mỹ:
suy dinh dưỡng
BMI > bách phân vị 85% theo quần thể tham chiếu NHANESI của Mĩ:
nguy cơ thừa cân
- BMI > bách phân vị 95% theo quần thể tham chiếu NHANESI của
Mĩ: béo phì
* Khối mỡ cơ thể: có nhiều phương pháp để xác định khối mỡ cơ thể.
Những phương pháp như đo độ dẫn điện cơ thể toàn phần, đo độ hấp thụ x
quang năng lượng kép ... đều được thực hiện trong phòng thí nghiệm và chi
phí cao. Các phương pháp dựa vào nhân trắc học vẫn là phổ biến. Ở Việt Nam
hay dùng công thức của Nguyễn Quang Quyền và LGV.


12

Công thức:
Nam: FBM = 6,16 x cao đứng x (vòng bụng)2 + 1,02
FBM = 8,29 x cao đững (vòng bụng)2 + 3,80.



13

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là 307 người bình thường, gồm 126 nam và 181
nữ, tuổi từ 60 trở lên.
Các đối tượng này là dân cư của phường Phước Vĩnh - thành phố Huế.
Bảng 2.1. Số lượng đối tượng theo tuổi và giới được trình bày trong
bảng sau:
Tuổi
Nam
≥ 60 - 69
58
≥ 70 - 79
39
≥ 80
29
Tổng cộng
126
* Tiêu chuẩn chọn đối tượng:

Nữ
94
57
30
181


Tổng cộng
152
96
59
307

- Người lớn bình thường, tuổi từ 60 trở lên đang sống và có mặt tại
phường Phước Vĩnh - Thành phố Huế.
- Không dị dạng về hình thái hoặc dị tật bẩm sinh hoặc do mắc phải.
- Không mắc các bệnh cấp tính và mạn tính
* Một số nét cơ bản về địa phương nghiên cứu:
+ Phường Phước Vĩnh thuộc thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế có
diện tích tự nhiên 102,2ha, phường có 7 khu vực với 22 tổ dân phố, có 3352 hộ
dân và 15572 người, trong đó 74% dân số là đồng bào có đạo, phần lớn là
người dân lao động phổ thông, buôn bán nhỏ, đạp xích lô, xe thồ (trên 70%).
Các nghề thù công nghiệp và nghề khác chiếm chưa đầy 30% nhìn
chung đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, vất vả và thiếu thốn nhiều.
+ Về địa lý
Vị trí phường phước Vĩnh nằm phía Tây Nam thành phố Huế:
- Phía Bắc giáp với phường Vĩnh Ninh
- Phía Đông giáp với phường An Cựu
- Phía Nam giáp với phường An Tây


14

- Phía Tây giáp với phường Trường An
+ Kinh tế văn hoá xã hội
- Lao động phổ thông, buôn bán nhỏ, đạp xích lô, xe thồ (70%) còn lại
là nghề khác.

- Tỷ lệ hộ nghèo 2,7%.
- Thu nhập bình quân: 250.000đ/người/tháng
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: điều tra ngang
2.2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.2.1. Đo các chỉ tiêu nhân trắc cơ bản
1. Trọng lượng
2. Chiều cao
3. Vòng cánh tay
4. Vòng bụng trên mào chậu
5. Vòng đùi trái
6. Vòng bắp chân trái
7. Bề dày nếp da sau cánh tay (sau cơ tam đầu)
8. Bề dày nếp da trên mào chậu
9. Huyết áp (huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu)
2.2.2.2. Kỹ thuật đo đạc
- Trọng lượng: Người được đo nam mặc quần đùi, cởi trần, chân đất, nữ
chỉ mặc bộ đồ nhẹ, kiểm tra lại cân trước khi đo, đặt cân ở vị trí bằng phẳng,
chỉnh về vị trí bằng 0.
- Chiều cao đứng: người được đo đứng ở tư thế tự nhiên, đầu để thẳng
(sao cho đuôi mắt và lỗ tai ngoài nằm trên một đường ngang song song với
mặt đất), 3 điểm mông, lưng, gót chạm vào thước đo, đo từ mặt đất cho tới
điểm cao nhất trên đỉnh đầu.
- Vòng cánh tay trái bình thường: đo qua chỗ to nhất của cánh tay trái,
thường là giữa mỏm vùng vai và mỏm khuỷu, cánh tay để duỗi tự nhiên.


15

- Vòng bụng trên mào chậu: đặt thước dây sát trên mào chậu người

được đo thở bình thường.
- Vòng đùi: đo qua chỗ to nhất của vòng đùi, thường ngay dưới nếp lằn mông.
- Vòng bắp chân: đo qua chỗ to nhất của cẳng chân trái tư thế đứng chuẩn.
- Các nếp da: khi đo dùng tay trái véo da và lớp mỡ dưới da lên tới sát
lớp cân nông, tay phải dùng thước kẹp vào lớp da và lớp mỡ đó, buông nhẹ
tay cầm thước để cho kim chạy, khi kim dừng quay đọc số ngay, tất cả các
nếp da đều được đo bên trái, lần lượt đo ở các điểm.
+ Sau cánh tay (sau cơ tam đầu), điểm giữa mặt sau cánh tay
+ Trên mào chậu: trên đường nách giữa, dưới sườn cuối và trên mào chậu.
- Đo huyết áp (HA)
+ Đối tượng phải được nghỉ trước khi đo 5 phút, đo HA cánh tay lấy
HA tay trái làm chuẩn, đo tư thế ngồi.
+ Bao hơi cỡ thông thường (12 x 24cm) quấn phía trên nếp gấp khuỷu
tay 3cm, mặt trống ống nghe đặt sát gần bờ dưới bao hơi.
+ Bơm nhanh bao hơi lên 200mmHg hoặc trên mức huyết áp tâm thu
(HATT) mà ta có thể nhận biết bằng bắt mạch quay thấy biến mất xả bao hơi
ra theo tốc độ quay của kim vào khoảng 2mmHg/giây.
Ghi số HATT khi nghe thấy tiếng động đầu tiên, số HA lấy tới chữ số
hàng đơn vị mmHg (không lấy tròn chục).
Ghi số huyết áp tâm trương (HATTr) khi mất hẳn tiếng đập
+ Số lần đo: đối tượng nghiên cứu được đo 2 lần/ngày, mỗi lần cách
nhau ít nhất 2 phút, kết quả huyết áp được lấy để đánh giá mức độ huyết áp là
trung bình cộng của 2 lần đo trên.
+ Áp dụng bảng phân loại mức độ huyết áp theo hướng dẫn của JNC VI
(1997) hay WHO/ISH (1999) [32].

2.2.2.3. Dụng cụ đo đạc


16


Dụng cụ nghiên cứu gần các dụng cụ nghiên cứu về nhân trắc của bộ
môn giải phẫu học trường Đại học Y - Dược Huế.
Các dụng cụ này đã được chuẩn hoá và được tiểu ban nhân trắc của
chương trình điều tra cơ bản hằng số sinh học người Việt Nam thông qua.
- Thước đo chiều cao mô phỏng thước Martin: thước gỗ, dán thước kim
loại của Trung Quốc với độ chính xác milimét, kèm theo thanh trượt thẳng góc.
- Compas đo bề dày nếp da là compas Harpenden Skinfold caliper,
nhãn hiệu Holtain - Anh quốc độ chính xác 0,2 milimét.
- Cân bàn của Trung Quốc, độ chính xác 0,5kg.
- Thước dây vải nhựa của Trung Quốc để đo các kích thước vòng với
độ chính xác milimét.
- Máy đo huyết áp: huyết áp kế kiểu đồng hồ, ALPK 2 do Nhật sản
xuất.
2.2.3. Tổ chức thu thập số liệu
2.2.3.1. Tập huấn kỹ thuật đo đạc
Bản thân chúng tôi được tập huấn kỹ về kỹ thuật đo đạc tại bộ môn
Giải phẫu trường Đại học Y - Dược Huế. Tiến hành điều tra tại nhà của chính
đối tượng nghiên cứu.
Một người đo và đọc kết quả, một người ghi vào phiếu điều tra in sẵn
2.2.3.2. Thời gian nghiên cứu: từ ngày 20/9/2008 đến 25/6/2009
2.2.3.3. Tính các chỉ số hình thái, thể lực, dinh dưỡng
BMI = cân nặng/(cao đứng)2
Phân chia theo bảng phân loại của tổ chức béo phì quốc tế
(IOTf: International Obesity Task force) đối với người Châu Á [40].
Gầy: < 18,5
Bình thường: 18,5 - 22,9
Thừa cân: 23 - 24,9
Béo phì: > 25
- FBM: Tính theo công thức của Nguyễn Quang Quyền và Lê Gia Vinh

Nam: FBM = 6,16 x cao đứng x (vòng bụng)2 + 1,02


17

Nữ: FBM = 8,29 x cao đứng x (vòng bụng)2 + 3,86
- Tổng bề dày nếp da: NDSCT + NDTMC
- Trung bình bề dày nếp da = tổng bề dày 2 nếp da/2
2.2.4. Xử lý kết quả điều tra
- Dùng phần mềm Epi info 6.04 và SPSS for windows 13.0
- Nhập số liệu bằng máy tính
- Kết quả thống kê đều được tính bằng các bảng X ± SD
X = (∑ X / n)
SD =

∑ ( x − x)

x

: Trung bình cộng của mẫu

n

: Số lần quan sát

x

: Giá trị của từng biến số một

2


n −1

- Sử dụng các phép tính thống kê sau đây
T - Student để so sánh 2 trị số trung bình
T=

XA−XB
O' 2A O' 2B
+
nA
nB

X A; X B

: Số trung bình của mẫu A và mẫu B

O'B; O'A

: Độ lệch chuẩn của mẫu A và B

nA, nB

: Là số lần quan sát của mẫu A và mẫu B

+ Tính hệ số tương quan để nghiên cứu mối tương quan giữa 2 đại lượng
n=

∑ ( x − x)( y − y)
∑ ( x − x) ∑ ( y − y)

2

2

Tương quan r được đánh giá như sau:
- r ≥ 0,7: liên quan rất chặc chẽ

- r < 0,3: rất ít liên quan

- r = 0,5 - 0,7: liên quan khá chặc chẽ

- r + : Tương quan thuận

- r = 0,3 - 0,5: liên quan mức độ vừa

- r - : Tương quan nghịch

Chương 3


18

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu 307 người cao tuổi (từ tuổi 60 trở lên),
trong đó: nam 126 và nữ 181 người, kết quả được trình bày trong các bảng sau:
3.1. CÂN NẶNG
Bảng 3.1. Cân nặng theo nhóm tuổi và giới
Nhóm
tuổi
60-69

70-79
≥ 80
CHUNG

N
58
39
29
126

Nam
X
55.17
52.08
52.00
53.48

SD
5.93
8.49
9.00
7.65

N
94
57
30
181

Nữ

X
50.39
48.07
46.83
49.07

SD
6.41
6.59
7.49
6.77

Biểu đồ 3.1. Cân nặng theo nhóm tuổi và giới
Cân nặng của hai giới giảm theo từng nhóm tuổi. Ở nhóm tuổi 70-79
nam giảm 3,09kg; nữ giảm 2,32kg. Ở nhóm tuổi ≥ 80 nam giảm 0,08kg; nữ
giảm 1,24kg. So sánh giữa nam và nữ ở nhóm tuổi 60 - 70 và nhóm tuổi ≥ 80,
nam lớn hơn nữ, chênh lệch khoảng 4,78 - 5,17kg, ở nhóm tuổi 70 - 79 chênh
lệch 4,01kg, sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê (p < 0,01).
3.2. CHIỀU CAO ĐỨNG


19

Bảng 3.2. Chiều cao đứng theo tuổi và giới
Nhóm
60-69
70-79
≥ 80
Chung


N
58
39
29
126

Nam
X
159.59
157.69
158.79
158.82

SD
5.03
5.46
6.46
5.53

N
94
57
30
181

Nữ
X
153.71
151.39
151.90

152.68

SD
4.13
4.89
3.42
4.39

Biểu đồ 3.2. Chiều cao đứng theo nhóm tuổi và giới
Chiều cao nam nhóm tuổi 70-79 giảm 1,90cm, nhóm tuổi ≥ 80 tăng
1,10cm. Ở nữ nhóm tuổi 70-79 giảm 2,32cm, nhóm tuổi ≥ 80 tăng 0,51cm.
Nam cao hơn nữ, chênh lệch gần bằng nhau qua các nhóm tuổi (khoảng
5,88 - 6,89cm). Sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê với p < 0,01.


20

3.3. VÒNG CÁNH TAY
Bảng 3.3. Vòng cánh tay theo nhóm tuổi và giới
Nhóm
tuổi
60-69
70-79
≥ 80

N
58
39
29
126


Nam
X
27.05
25.92
25.62
26.37

SD
2.61
3.45
4.41
3.39

N
94
57
30
181

Nữ
X
26.68
26.65
25.70
26.51

SD
3.16
3.68

3.36
3.36

Biểu đồ 3.3. Vòng cánh tay theo nhóm tuổi và giới
Vòng cánh tay trái duỗi của hai giới đều giảm dần theo từng nhóm tuổi.
Ở nam nhóm tuổi 70 - 79 giảm 1,13cm, nhóm tuổi ≥ 80 giảm nhẹ 0,03cm. Ở
nữ nhóm tuổi 70 - 79 giảm nhẹ (0,03cm), nhóm tuổi ≥ 80 giảm 0,95cm.
So sánh giữa nam và nữ theo từng nhóm tuổi thì vòng cánh tay xấp xỉ
bằng nhau. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

3.4. VÒNG BỤNG
Bảng 3.4. Vòng bụng theo nhóm tuổi và giới


21

Nhóm
60-69
70-79
≥ 80

N
58
39
29
126

Nam
X
80.69

76.69
77.86
78.80

SD
7.99
7.88
11.02
8.85

N
94
57
30
181

Nữ
X
79.47
79.19
80.03
79.48

SD
8.51
11.08
10.27
9.63

Biểu đồ 3.4. Vòng bụng theo nhóm tuổi và giới


Vòng bụng ở nam giảm mạnh nhóm tuổi 70-79, nhóm tuổi ≥ 80 tăng
1,17cm. Ở nữ nhóm tuổi 70 - 79 giảm nhẹ 0,28cm; nhóm tuổi ≥ 80 tăng nhẹ
0,84cm. So sánh vòng bụng nam và nữ xấp xỉ nhau, chênh lệch ít. Riêng
nhóm tuổi ≥ 80 nữ lớn hơn nam 2,17cm. Sự khác biệt này rất có ý nghĩa thống
kê với (p < 0,01).
3.5. VÒNG ĐÙI
Bảng 3.5. Vòng đùi theo nhóm tuổi và giới
Nhóm
tuổi

N

Nam
X

SD

N

Nữ
X

SD


22

60-69
70-79

≥ 80

58
39
29
126

44.24
40.69
40.83
42.36

4.11
4.13
6.60
5.07

94
57
30
181

42.98
41.23
40.80
42.07

5.55
4.64
4.53

5.18

Biểu đồ 3.5. Vòng đùi theo nhóm tuổi và giới
Vòng đùi đều giảm cả hai giới. Ở nam nhóm tuổi 70 - 79 giảm 3,55cm,
nhóm tuổi ≥ 80 (0,14cm). Ở nữ nhóm tuổi 70 - 79 giảm 1,75cm, nhóm tuổi ≥
80 giảm 0,43cm. So sánh vòng đùi giữa nam và nữ xấp xỉ bằng nhau ở các
nhóm tuổi, chênh lệch 0,03 - 0,07cm.

3.6. VÒNG BẮP CHÂN
Bảng 3.6. Vòng bắp chân theo nhóm tuổi và giới
Nhóm
tuổi
60-69
70-79
≥ 80

N
58
39
29

Nam
X
28.09
26.51
26.24

SD
4.75
4.16

5.10

N
94
57
30

Nữ
X
27.03
26.54
26.77

SD
4.85
4.33
4.36


23

126
27.17
4.70
181
26.83
4.60
Vòng bắp chân ở nam nhóm tuổi 70 - 79 giảm 1,58cm, nhóm tuổi ≥ 80
giảm 0,27cm. Ở nữ nhóm tuổi 70 - 79 giảm 0,49cm; nhóm tuổi ≥ 80 tăng
0,23cm. So sánh hai giới xấp xỉ bằng nhau, chênh lệch 0,53 - 1,06cm.

3.7. BỀ DÀY CÁC NẾP DA
Bảng 3.7. Bề dày nếp da sau cánh tay theo nhóm tuổi và giới
Nhóm

Nam
Nữ
N
X
SD
N
X
SD
tuổi
60-69
58
11.55
5.22
94
11.45
4.52
70-79
39
10.95
5.09
57
11.91
3.60
>= 80
29
10.79

4.80
30
11.03
4.21
126
11.19
5.06
181
11.53
4.19
Bề dày nếp da sau cánh tay. Ở nam giảm dần theo từng nhóm tuổi (0,16

- 0,60mm), ở nữ, nhóm tuổi 70 - 79 tăng 0,46mm, nhóm tuổi ≥ 80 tăng
0,88mm. So sánh giữa hai giới nam và nữ tương đương nhau từng nhóm tuổi,
chênh lệch 0,10 - 0,96mm.


×