Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Từ quan điểm toàn diện trong Triết Học. Anh Chị giải thích vì sao lựa chọn ngành học của mình.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.4 KB, 12 trang )

Họ và Tên

: Phạm Vũ Bình

Lớp

: Khoa Học Máy Tính - K32

Môn

: Triết Học

GV

: PGS.TS Lê Hữu Ái

Bài 1: Từ quan điểm toàn diện trong Triết Học. Anh/ Chị giải thích vì
sao lựa chọn ngành học của mình.
Trong sự tồn tại của thế giới quanh ta, mọi sự vật và hiện tượng đều có mối
liên hệ và tác động qua lại với nhau chứ không tách rời nhau, cô lập nhau.
Như chúng ta đã biết “ Quan điểm toàn diện” là quan điểm được rút ra từ
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Muốn nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn đúng về đối tượng nào đó phải tính
đến những mối liên hệ trong sự tồn tại của đối tượng, đề phòng khắc phục
quan điểm phiến diện
Mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là mối liên hệ của bản thân thế giới
vật chất, không do bất cứ ai quy định và tồn tại độc lập với ý thức. Trên thế
giới này có rất nhiều mối liên hệ chẳng hạn như mối liên hệ giữa sự vật
và hiện tượng vật chất, giữa cái vật chất và cái tinh thần. Các mối liên hệ đều
là sự phản ánh những tác động qua lại, phản ánh sự quy định lẫn nhau giữa
các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan.


Không chỉ có vậy, các mối liên hệ còn có tính nhiều vẻ ( đa dạng)
+ Mối liên hệ bên trong và bên ngoài
+ Mối liên hệ cơ bản và không cơ bản
+ Mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu
+ Mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp
Ở thế giới của các mối liên hệ, mối liên hệ bên ngoài tức là sự tác động lẫn
nhau giữa các sự vật, mối liên hệ bên trong tức là sự tác động qua lại lẫn
nhau của các mặt, các yếu tố, các bộ phận bên trong của sự vật. Có mối liên
hệ cơ bản thuộc về bản chất của sự vật, đóng vai trò quyết định, còn mối liên
1


hệ không cơ bản chỉ đóng vai trò phụ thuộc, không quan trọng. Đôi khi lại có
mối liên hệ chủ yếu hoặc thứ yếu. ở đó còn có mối liên hệ trực tiếp giữa hai
hoặc nhiều sự vật và hiện tượng, có mối liên hệ gián tiếp trong đó có các
sự vật và hiện tượng tác động lẫn nhau thông qua nhiều khâu trung gian.
Khi nghiên cứu hiện tượng khách quan, chúng ta có thể phân chia các mối
liên hệ ra thành từng loại như trên tuỳ theo tính chất đơn giản hay phức
tạp, phạm vi rộng hay hẹp, vai trò trực tiếp hay gián tiếp, nghiên cứu sâu
hay sơ qua….
Phân chia các mối liên hệ phải phụ thuộc vào việc nghiên cứu cụ thể trong sự
biến đổi và phát triền của chúng. Hay nói khác đi, khi xem xét sự vật thì phải
có quan điểm toàn diện tức là nhìn sự việc, vấn đề ở mọi góc cạnh, mọi
phương diện. Theo Lê Nin “ Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn
bao quát và nghiên cứu tất cả các mối quan hệ và quan hệ gián tiếp của sự
vật đó”. Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ,
nhưng sự vật cần thiết phải xét đến tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta
khỏi phạm phải sai lầm và cứng nhắc ” ( Lê Nin toàn tập – NXB tiến bộ)
Khi xem xét sự vật hiện tượng thì luôn phải chú ý đến quan điểm toàn diện
tức là khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu mọi mối liên hệ và sự

tác động qua lại giữa chúng, sự tác động qua lại của các yếu tố, kể cả khâu
trung gian, gián tiếp cấu thành sự vật đó, phải đặt nó trong một không gian,
thời gian cụ thể, nghiên cứu quá trình phát triển từ quá khứ, hiện tại và dự
đoán cho tương lai. Thế nhưng xem xét toàn diện không có nghĩa là xem
xét tràn lan mà phải xem xét từng yếu tố cụ thể nhưng có tính chọn lọc.
Có như thế chúng ta mới thực sự nắm được bản chất của sự vật.
Và cả khi nghiên cứu xã hội thì cũng rất cần đến quan điểm toàn diện vì các
mối quan hệ trong xã hội không cô lập nhau, tách rời nhau mà trái lại chúng
đan xen tác động qua lại với nhau .
Quan điểm toàn diện: đòi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, giữa các mặt của chính sự vật và
2


trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác, kể cả mối liên hệ
trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp. Chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức
đúng về sự vật. Chẳng hạn, muốn nhận thức đúng và đầy đủ tri thức của khoa
học triết học, chúng ta còn phải tìm ra mối liên hệ của tri thức triết học với tri
thức khoa học khác, với tri thức cuộc sống và ngược lại, vì tri thức triết học
được khái quát từ tri thức của các khoa học khác và hoạt động của con người,
nhất là tri thức chuyên môn được chúng ta lĩnh hội.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải NHÌN THẤY về sự vật như là một chỉnh
thể của tất cà các mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ trong bản thân SVHT
và giữa SVHT đó với những SVHT khác, với môi trường xung quanh… Thực
chất của quan điểm toàn diện là trong khi chú ý xem xét tất cả các mặt của sự
vật, tư duy phải phát hiện được, phản ánh được những mặt chủ yếu, bản chất,
quan trọng nhất của sự vật một cách dãn đều bình quân, không biết đâu là bản
chất của sự vật.
Từ việc nắm được bản chất của sụ vật chúng ta cùng NHÌN THẤYcác mặt
khác của sự vật một cách sâu sắc trong chỉnh thể của tất cả các mặt.

Từ quan điểm toàn diện trong sự xem xét chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ
trong hành động thực tiễn: để cải tạo một sự vật bao giờ chúng ta cũng phải
áp dụng đồng bộ một hệ thống những biện pháp nhất định. Tuy nhiên cũng
như đã nói ở trên, đồng bộ không có nghĩa là dàn đều, bình quân mà trong
từng buớc, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu then chốt. Thực hiện quan
điểm toàn diện góp phần khắc phục bệnh phiến diện, một chiều chỉ thấy một
mặt mà không thấy nhiều mặt hoặc có khi tuy có chú ý đến nhiều mặt nhưng
không nhìn thấy được mặt bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện cũng góp
phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn.
Quan điểm toàn diện còn có ý nghĩa trong việc chống chủ nghĩa chiết Trung
mà đặc trưng của nó là nhân danh quan điểm toàn diện để kết hợp một cách
vô nguyên tắc những mặt khác nhau mà thực chất là không thể kết hợp với
nhau được.
3


Đồng thời, quan điểm toàn diện đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt các mối
liên hệ, phải biết chú ý đến các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất,
mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ tất nhiên ... để hiểu rõ bản chất của sự vật và
có phương pháp tác động phù hợp nhằm đem lại hiệu quả cao nhất trong sự
phát triển của bản thân. Đương nhiên, trong nhận thức và hành động, chúng ta
cần lưu ý tới sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mối liên hệ ở những điều kiện
xác định. Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết
ứng xử sao cho phù hợp với từng con người. Ngay cả quan hệ với một con
người nhất định ở những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau,
chúng ta cũng phải có cách giao tiếp, cách quan hệ phù hợp như ông cha đã
kết luận: “đối nhân xử thế”.
Trong hoạt động thực tế, theo quan điểm toàn diện, Trong 20 năm đổi mới
Đảng ta không những phải chú ý tới những mối liên hệ nội tại của nó mà còn
phải chú ý tới những mối liên hệ của sự vật ấy với các sự vật khác. Đồng thời

chúng ta phải biết sử dụng đồng bộ các biện pháp, các phương tiện khác nhau
để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất. Để thực hiện mục tiêu : “dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt chúng ta
phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt khác phải biết tranh thủ thời cơ,
vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hoá mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
và toàn cầu hoá kinh tế đưa lại.
Quyết định lựa chọn ngành công nghệ thông tin khi thi đại học của tôi được
đưa ra sau khi xem xét nhiều yếu tố, mà sau này mới nhận ra nó dựa trên quan
điểm toàn diện trong Triết học. Các yếu tố này có liên hệ và tác động qua lại
với nhau.
Để xác định bản thân mình phù hợp với ngành nghề nào, tôi đã bắt đầu từ sở
thích, tính cách và điều kiện của mình. Chọn ra những nghề nào thích hợp
nhất để nghiên cứu và loại bỏ dần. Tôi có thể thực hiện những bài trắc
nghiệm về nghề nghiệp. Dựa trên cơ sở năng lực, sở thích, quan điểm, nguyên
tắc sống của bạn..., các trắc nghiệm sẽ đưa ra những tư vấn và dự đoán về
4


nghề nghiệp hoặc nhóm ngành nghề phù hợp với tôi. Tiếp theo, tôi phải hiểu
được những điểm hạn chế, những mặt tiêu cực mà tôi không thể kiểm soát và
khó cải thiện, ví dụ hạn chế về kiến thức nganh nghề không sâu, sống thiếu
mục đích, kỹ năng kém, cá tính tiêu cực: thiếu ý chí vươn lên, thiếu nhẫn nại,
tính kỷ luật kém, không có khả năng lãnh đạo, làm việc nhóm…
Không nên tuyệt đối hóa việc chọn nghề qua việc làm bài trắc nghiệm. Việc
chọn nghề còn phải xét đủ những điều kiện vật chất, xã hội, kinh tế... ở xung
quanh ta. Sau khi đã hiểu rõ bản thân mình, tôi bắt đầu phân tích các yếu tố
bên ngoài trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến việc lên kế hoạch nghề
nghiệp của tôi. Tôi sẽ quan tâm đến các điều kiện tích cực bên ngoài mà tôi
không thể kiểm soát nhưng có thể tận dụng cơ hội phát triển, xu hướng tích
cực trong nghề nghiệp, cơ hội để tôi phát triển nghề nghiệp bằng cách nâng

cao trình độ học vấn, nghề nghiệp phù hợp với kỹ năng thực hành xã hội của
tôi, thuận lợi về địa lý, mối quan hệ xã hội… Các yếu tố liên quan đến kinh tế
như học phí, lệ phí xin việc,…
Bên cạnh đó, những thách thức tôi có thể vượt qua được trong tiến trình phát
triển nghề nghiệp cũng là yếu tố quan trọng để bạn chọn nghề. Đó là các điều
kiện tiêu cực bên ngoài mà tôi không thể kiểm soát nhưng bạn có thể hạn chế
tác hại của chúng, các xu hướng tiêu cực trong ngành của bạn khiến làm giảm
cơ hội nghề nghiệp, sự cạnh tranh của những sinh viên tốt nghiệp cùng lứa
với bạn, đối thủ cạnh tranh với bạn, thị trường hạn chế cho cơ hội tiến thân,
những đơn vị không mặn mà với chuyên ngành của tôi.

5


Bài 2: Phân tích quan hệ vật chất và ý thức. Cho ví dụ.?
Thế giới xung quanh ta có vô vàn sự vật và hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nhưng dù phong phú và đa dạng đến đâu thì cũng quy về hai lĩnh vực: vật
chất và ý thức. Có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đế về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức, nhưng chỉ có quan điểm triết học Mác Lênin là đúng và đầy đủ đó là: vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau.
Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức tác động trở lại vật
chất. Trước năm 1986, đất nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn bởi một nền
kinh tế trì trệ, một hệ thống quản lý yếu kém cũng là do một phần không nhận
thức đúng và đầy đủ về mối quan hệ giữa vận chất và ý thức. Vấn đề này đã
được nhận thức đúng sau đổi mới ở đại hội VI, và quả nhiên đã giành rất
nhiều thắng lợi sau khi đã chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Quan điểm triết học Mác - Lênin đã khẳng định trong mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức thì vật chất và ý thức tác động trở lại vật chất để làm rõ quan
điểm này chúng ta chia làm hai phần.

1.

Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức.

Lê- Nin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện sâu sắc và khoa học về phạm trù
vật chất “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại phản ánh và được tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Từ định nghĩa của Lê Nin đã khẳng định vật chất là thực tại khách quan vào
bộ não của con người thông qua tri giác và cảm giác. Thật vậy vật chất là
nguồn gốc của ý thức và quyết định nội dung của ý thức.
Thứ nhất, phải có bộ óc của con người phát triển ở trình độ cao thì mới có sự
ra đời của ý thức. Phải có thể giới xung quanh là tự nhiên và xã hội bên ngoài
con người mới tạo ra được ý thức, hay nói cách khác ý thức là sự tương tác
giữa bộ não con người và thế giới khách quan. Ta cứ thử giả dụ, nếu một
6


người nào đó sinh ra mà bộ não không hoạt động được hay không có bộ não
thì không thể có ý thức được. Cũng như câu chuyện cậu bé sống trong rừng
cùng bầy sói không được tiếp xúc với xã hội loài người thì hành động của cậu
ta sau khi trở về xã hội cũng chỉ giống như những con sói. Tức là hoàn toàn
không có ý thức.
Thứ hai, là phải có lao động và ngôn ngữ đây chính là nguồn gốc xã hội của ý
thức. Nhờ có lao động mà các giác quan của con người phát triển phản ánh
tinh tế hơn đối với hiện thực... ngôn ngữ là cần nối để trao đổi kinh nghiệm
tình cảm, hay là phương tiện thể hiện ý thức. Ở đây ta cũng nhận thấy rằng
nguồn gốc của xã hội có ý nghĩa quyết định hơn cho sự ra đời của ý thức.
Vật chất là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của ý thức nên khi vật chất thay
đổi thì ý thức cũng phải thay đổi theo.

VD1: Hoạt động của ý thức diễn ra bình thường trên cơ sở hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ não người. Nhưng khi bộ não người bị tổn thương thì hoạt
động của ý thức cũng bị rối loạn.
VD2. Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ thông
tin là rất yếu kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên
giảng dậy còn thiếu. Nhưng nếu vấn đề về cơ sở vật chất được đáp ứng thì
trình độ công nghệ thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ tốt hơn rất nhiều.
VD2. Đã khẳng định điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức chỉ là như thế
đó.
2. Ý thức tác động trở lại vật chất.
Trước hết ta đưa ra định nghĩa của ý thức: ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế
giới khách quan vào trong bộ não con người thông qua lao động mà ngôn
ngữ. Nó là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu
thương, tâm trạng, cảm súc, ý trí, tập quán, truyền thống, thói quen quan
điểm, tư tưởng, lý luận, đường lối, chính sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp,
phương hướng.
Các yếu tố tinh thần trên đều tác động trở lại vật chất cách mạng mẽ. VD.
7


Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của
một dây chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng
đúng đắn của đảng ta thì dân tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê - Nin đã nói “ Không có lý
luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Như vậy ý thức không hoàn toàn phụ thuộc vào vật chất mà ý thức có tính
độc lập tương đối vì nó có tính năng động cao nên ý thức có thể tác động trở
lại. Vật chất góp phần cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực
tiễn của con người.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy hoạt động

thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản ánh
đúng hiện thực khách quan thì chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của
các sự vật hiện tượng trong thế giới quan.
VD1. Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 1000 0C thì con người
tạo ra các nhà máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ
chủng loại, chứ không phải bằng phương pháp thủ công xa xưa.
VD2. Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại hội
VI, đảng ta chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế
thị trường, nhờ đó mà sau gần 20 năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi
hẳn.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động
thực tiễn của con người trong quá trình cải tạo thế giới quan. VD. Nhà máy sử
lý rác thải của Đồng Tháp là một ví dụ điển hình, từ việc không khảo sát thực
tế khách quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý rác vô cơ và rác hữu cơ
là chưa đầy đủ vì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã không sử lý
nổi và cho đến nay nó chỉ là một đống phế liệu cần được thanh lý.
Giữa vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết
định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại
của ý thức đối với vật chất.
8


Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, vật chất là cơ sở, cội nguồn
sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức, quyết định nội
dung và xu hướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì không thể có ý
thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật chất trong đó bộ óc người là cơ
quan vật chất của ý thức, cơ quan phản ánh thế giới xung quanh, sự tác động
của thế giới khách quan vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên của
ý thức. Lao động trong hoạt động thực tiễn, hoạt động sản xuất của cải vật
chất và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết), cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết

định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức. Ngoài ra, ý thức chỉ có thể
trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh cải tạo hiện thực thông qua hoạt động
thực tiễn, bằng việc khai thác, sử dụng hợp lý các điều kiện phương tiện vật
chất cần thiết cho hành động.
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng nó lại có tính độc lập tương đối
nhưng nó lại có tính độc lập tương đối, sự phản ánh của ý thức đối với vật
chất là sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ
động, là quá trình con người không ngừng tìm kiếm tích lũy những hiểu biết
mới ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và
phát triển sự vật . Vì vậy, sau khi đã hình thành, ý thức có vai trò định hướng
cho con người trong việc xác định mục tiêu, phương hướng tìm ra biện pháp
lựa chọn các phương án, hành động tối ưu nhất và sử dụng các điều kiện vật
chất cần thiết để làm biến đổi chúng đạt đến mục tiêu đã đặt ra. Mặt khác sự
tác động của ý thức đến vật chất có thể theo hai khuynh hướng : Một là ý thức
sẽ thúc đẩy cùng chiều đối với sự phát triển của sự vật nếu ý thức phản ánh
đúng hiện thực, khách quan nếu con người nhận thức đúng quy luật khách
quan, có ý chí động cơ hành động đúng và thông qua cơ chế tổ chức hoạt
động phù hợp trong thực tiễn. Hai là ý thức kìm hảm, cản trở, thậm chí phá
hoại sự phát triển bình thường của sự vật nếu ý thức phản ánh không đúng
hiện thực khách quan, ý thức lạc hậu, phản khoa học, phản động, nếu con
người không có ý chí, không nhiệt tình, động cơ sai …Tuy vậy, sự tác động
9


của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh
ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất.
Từ quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức một
nguyên tắc được rút ra, đó là nguyên tắc, khách quan. Nguyên tắc khách quan
trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, nó đòi hỏi
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ hiện thực

khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, “phải lấy thực
thể khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình”. Tuy nhiên, việc
thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan
xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy
tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt
tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động, sáng tạo
trong việc tìm ra những biện pháp, những con đường để từng bước thâm nhập
sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó con người thực hiện sự biến đổi từ
cái “vật tự nó” (tức thực tại khách quan) thành cái phục vụ cho nhu cầu của
con người đồng thời sử dụng hiệu quả các điều kiện, sức mạnh vật chất khách
quan, sức mạnh của quy luật … để phục vụ cho các mục tiêu, mục đích khác
nhau của con người.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức :
- Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có
trước,nó sinh ra và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế
giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành
nguồn gốc tự nhiên .
Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với
nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức .
Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối
tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá
trình vận động của ý thức .
10


-Tác động trở lại của ý thức
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương
đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh
tinh thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy

móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người .
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục
tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu
ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức
phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy
tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức
phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù
hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất
định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật
chất được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự
phản ánh thế giới vật chất .
Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở
lại tồn tại xã hội .
Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem
xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn
đề chân lý …
Ý nghĩa phương pháp luận .
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận
thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật
chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn

11


gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của
sự xem xét” chính là ở chỗ đó .

Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất,
cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của
nhân tố tinh thần.
Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và
giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật.
Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng
động của các nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt
động của con người đạt hiệu quả cao.
Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái
độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý
chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.

12



×